Вы находитесь на странице: 1из 4

Cải tạo sinh học bằng vi khuẩn

Dạng tài liệu : Bài trích bản tin


Ngôn ngữ tài liệu : Tiếng Việt
Tên nguồn trích : Tri thức và phát triển
Dữ liệu nguồn trích : 2004/Số 25/Thành tựu khoa học và công nghệ
Đề mục : 23.81
Từ khoá : Khoa học
Nội dung:
Các nhà nghiên cứu của Viện Công nghệ Atlanta của Mỹ mới phân lập được loại vi khuẩn
Dehalococcoides ethenogenes, có khả năng phân huỷ được thuốc ngủ và vinyl clorua
thành các sản phẩm ít độc hại hơn nhiều. Phát hiện này góp phần vào phong trào phát
triển các công nghệ cải tạo sinh học rất sôi động hiện nay. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra
những kết quả khả quan và nhiều kinh nghiệm thử nghiệm đã được thực hiện ngoài thực
địa.

Các kỹ thuật cải tạo sinh học hiện nay đang phát triển mạnh. Các kỹ thuật này được ứng
dụng trong lĩnh vực khử ô nhiễm cho đất, nước và không khí, bị ô nhiễm bởi nhiều loại
chất hữu cơ hoặc kim loại. Các kỹ thuật này sử dụng các hệ thống sinh học, là vi sinh vật
hoặc thực vật tìm thấy nguồn nguyên liệu và năng lượng trong quá trình phân huỷ các
chất độc hại. Các tác nhân phân huỷ thường là các vi khuẩn. Trong điều kiện lý tưởng, vi
khuẩn biến đổi các chất ô nhiễm thành đioxyt cacbon (CO2), nước và các muối khoáng:
như vậy, các thành phần độc hại được phân huỷ sinh học và quá trình khử độc cho môi
trường được hoàn tất. Nhiều loại vi khuẩn có khả năng khử ô nhiễm đã được nhận dạng.
Ví dụ, các loài Thiobacillus và Leptothrix từ lâu đã được biết là sinh trưởng trên chất nền
có nhiều ion kim loại, như các nguồn nước từ vùng mỏ. Vi khuẩn lấy năng lượng từ quá
trình xúc tác các phản ứng oxy hoá kim loại, tạo cho chúng một khả năng khử độc rất hấp
dẫn.

Một điều không may là việc loại trừ các chất ô nhiễm thường không hoàn hoàn, dẫn đến
tạo thành các sản phẩm trung gian, không chỉ ảnh hưởng xấu đến vi khuẩn, mà còn đến
thực vật và động vật ở trong môi trường như vậy. Nhận thấy sự cần thiết ngày càng tăng
của việc khử ô nhiễm, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm tòi các kỹ thuật cải tạo sinh học, nhằm
chọn lựa các loài vi khuẩn tốt nhất và xác định các điều kiện tối ưu cho chúng hoạt động.
Các công trình nghiên cứu trong những năm gần đây là bằng chứng về khả năng ứng
dụng chủ yếu trong quy trình khử ô nhiễm kim loại và các sản phẩm clo hữu cơ.

Loài vi khuẩn mới phân huỷ vinyl clorua

Khử ô nhiễm vinyl clorua không phải là không quan trọng vì chất độc này có trong tất cả
các loại môi trường, trong đó có nước sinh hoạt (xem bảng 1).

Bảng 1. Mối nguy hại của vinyl clorua và các tiền chất của nó

Các hợp chất clo hữu cơ chứa các nhóm gây ra mối lo ngại nhất về khía cạnh bảo vệ môi
trường. Trong số các chất này, PCE (percloeten), TCE (tricloeten) và vinyl clorua là các
chất rất độc hại.

Vinyl clorua, là tác nhân gây ung thư và là chất gây ngủ tồn tại trong nước sinh hoạt, nói
chung có nguồn gốc từ sự thấm tách (thấm tách: là sự hoà tan và kéo theo các chất hoà tan
bởi một dung môi phù hợp) của các monome được lưu giữ trong các đường ống nước
bằng nhựa PVC hoặc polyvinyl clorua. Cũng được phát thải bởi ngành công nghiệp hoá
chất và các nhà máy sản xuất nhựa latex (mủ cao su), vinyl clorua rất dễ bay hơi sẽ bay
hơi hoặc nhanh chóng hoá hợp với nước ngầm, tồn tại ở đó trong nhiều tháng, thậm chí
trong nhiều năm. Ngoài ra, sự chuyển hoá bởi một số dung môi nhất định (PCE và TCE),
làm ô nhiễm các lớp nước giếng, góp phần vào sự tích luỹ nhiều chất trung gian độc hại
như đicloeten và vinyl clorua.

Cần lưu ý là PCE, TCE và vinyl clorua phần lớn được sử dụng trong chất tẩy rửa khô,
trong công nghiệp luyện kim (tẩy rửa bề mặt kim loại) và làm dung môi trong ngành công
nghiệp dược phẩm. Việc sử dụng rộng rãi chất này dẫn đến sự ô nhiễm nặng của đất và
nước ngầm. Cần biết là vinyl clorua được tìm thấy ít nhất là ở 496 trong 1430 địa điểm
được Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ phân loại là địa điểm ưu tiên của quốc gia, trong
khi các tiền chất của chúng có trong 71 địa điểm đối với chất PCE và trong 852 địa điểm
đối với chất TCE! Như vậy, cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này.

Cho đến nay, việc loại trừ chất này là nhờ vào các kỹ thuật sục khí hiệu quả. Tuy nhiên,
kỹ thuật này chi phí cao và sự huỷ hoại môi trường mà kỹ thuật này gây ra vẫn chưa có
giải pháp giải quyết. Sử dụng vi khuẩn cho phép khắc phục các nhược điểm này. Tuy
nhiên, dù rằng có nhiều sinh vật bé nhỏ có khả năng phân uỷ các chất ô nhiễm trong đất
và nước đi chăng nữa, các kỹ thuật cải thiện sinh học vẫn chưa được hoàn thiện. Các vi
khuẩn khoáng hoá vinyl clorua đã được nhận dạng, tuy nhiên, để sinh trưởng chúng cần
có môi trường thoáng khí, có nghĩa là cần có sự có mặt của đioxy. Vậy mà, vinyl clorua
lại thường được tạo ra từ các hợp chất clo, percloeten (PCE) và tricloeten (TCE) trong
nước ngầm thiếu oxy.

Mới đây, một nhóm các nhà nghiên cứu của Mỹ dưới sự lãnh đạo của Frank E. Loeffler
thuộc Viện Công nghệ Atlanta đã phân lập được một loài vi khuẩn kỵ khí rất mạnh,
chuyển hoá vinyl clorua và các hợp chất clo khác thành các dẫn xuất không có clo và ít
độc hại hơn. Quy trình khử clo không chỉ khử được hoàn toàn, mà còn không cần đến
đioxy, rất có giá trị cho việc cải tạo sinh học in situ (tại chỗ). Được phát hiện từ năm
1997, vi khuẩn Dehalococcoides ethenogens có khả năng khử clo của PCE trong môi
trường yếm khí, nhưng lại không hiệu quả để phân huỷ vinyl clorua. Chính từ thế giới vi
mô có khả năng phân huỷ PCE này, mà một quần thể vi khuẩn sử dụng vinyl clorua để
sinh trưởng đã được phân lập. Sự chọn lọc các vi khuẩn này, từ chính một quần thể ban
đầu, được thực hiện bằng cách cho các vi khuẩn ban đầu phát triển trong những môi
trường đặc biệt, yếm khí và chứa thành phần cần khử. Quy trình này cho phép phân lập
được một gốc khuẩn đặc biệt của vi khuẩn Dehalococcoides ethenogens, mang tên BAV1,
được tạo lập từ các vi khuẩn có kích thước rất nhỏ, dạng hình đĩa và không có sẵn năng
lực vận động. Được đưa trực tiếp vào môi trường cần khử ô nhiễm, các vi khuẩn này tạo
thuận lợi cho quá trình khử clo yếm khí tự nhiên và hoàn toàn nhờ sự chuyển hoá của
chúng để cung cấp năng lượng cho chúng. Các loài vi khuẩn này đã được thử nghiệm
thành công trong thử nghiệm tại khu vực Bachman Road ở Oscada, Michigan, Mỹ. Kinh
nghiệm cho thấy hiệu lực của quần thể vi khuẩn BAV1 ở các khu vực không có các vi
khuẩn có khả năng phản ứng như vậy, hoặc số lượng của chúng quá ít. ưu điểm của việc
sử dụng vi khuẩn là khử ô nhiễm cho các tầng ngậm nước bị ô nhiễm trong thời gian chấp
nhận được và với chi phí hợp lý. Tương lai tươi sáng sẽ là sử dụng vi khuẩn này trong
nước ngầm hoặc trong các hồ nước bị ô nhiễm.

Các công trình nghiên cứu thực hiện trong phòng thí nghiệm đã chứng minh khả năng của
vi khuẩn có thể phân huỷ được các phân tử độc hại. Các tính chất của chúng tạo cơ sở cho
việc cải tạo sinh học in situ, có nghĩa là được thực hiện ngay tại chỗ.

Cải tạo sinh học in situ: các kỹ thuật rất thịnh hành

Các môi trường ô nhiễm, phần lớn là do các chất thải công nghiệp, rất phổ biến và đôi khi
rất khó tiếp cận. Các kỹ thuật khử ô nhiễm phi sinh học không phải lúc nào cũng thực
hiện được, vì các kỹ thuật này đòi hỏi dịch chuyển môi trường ô nhiễm (sục khí, lọc,
v.v...). Tuy nhiên, quy trình này không khả thi khi khu vực ô nhiễm là vùng đất có nhà
cửa xây dựng trên đó. Trong những trường hợp như vậy, việc sử dụng vi khuẩn sẽ là một
sự trợ giúp lớn vì chúng không làm thay đổi cấu trúc của đất. Tác dụng của vi khuẩn cũng
như vậy đối với các tầng nước ngầm. Việc xử lý sẽ được thực hiện tại chỗ. Do vậy, quá
trình này được gọi là cải tạo sinh học in situ.

Có thể sử dụng vi khuẩn sẵn có trong môi trường bằng cách tạo thuận lợi cho sự sinh
trưởng và phát triển của chúng, hoặc làm giàu môi trường cho các quần thể đặc thù để
khử độc cho sản phẩm cần xử lý. Quy trình xử lý đòi hỏi cung cấp nguồn oxy nếu các vi
khuẩn được sử dụng sống trong môi trường ưa khí, và tạo môi trường dinh dưỡng cho
phép chúng sinh trưởng bằng cách tiêu huỷ các thành phần độc hại. Tuy nhiên, quá trình
phân huỷ một số thành phần xác định lại cần sử dụng một số phân tử hoá học khác nữa,
được gọi là các đồng chất nền. Quy trình này đã được một số doanh nghiệp thương mại
hoá ở châu Âu và trên toàn thế giới sử dụng. Các doanh nghiệp này đã phát triển các kỹ
thuật làm sạch đất và nước (xem bảng 2).

Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cải tạo sinh học in situ

Gần đây, có nhiều doanh nghiệp chuyên môn hóa trong lĩnh vực cải tạo sinh học. Trong
số các doanh nghiệp này có Doanh nghiệp Sanifox, có văn phòng nghiên cứu đặt tại Bỉ
(Noville-les-Bois). Từ năm 1992, Sanifox đã phát triển các thiết bị đặc chủng khử ô
nhiễm ở hai cấp độ.

Quy trình loại trừ các chất ô nhiễm ở bề mặt đất được thực hiện bằng cách cung cấp các
chất dinh dưỡng và các chất oxy hoá đặc hiệu, cho phép cung cấp từ từ oxy cần thiết cho
các phản ứng vi sinh. Chỉ các khu vực không sâu lắm mới được làm sạch.

Quy trình khử ô nhiễm các thành phần độc hại ở trong đất và ở lớp nước giếng, có thể sâu
tới hàng chục mét, sử dụng các phương pháp phức tạp hơn, bao gồm việc thiết lập các hệ
thống phun và bơm. Doanh nghiệp Sanifox cũng đã phát triển các hệ thống thiết bị cải tạo
sinh học di động, bao gồm các vật liệu cần thiết để sản xuất, định lượng, phun các dung
dịch dinh dưỡng và thu hồi các sản phẩm của quá trình phân huỷ. Các hệ thống này có
thiết bị xử lý nước được bơm lên và liên tục xử lý theo nguyên lý xử lý song song.

Loại kỹ thuật này có ưu điểm xét về tỷ lệ chi phí/hiệu quả, có thể áp dụng trong nhiều
hoàn cảnh, do vậy ngày càng được nhiều doanh nghiệp và tập đoàn quan tâm.

Nên lưu ý rằng thị trường châu Âu về cải tạo sinh học in situ các khu vực bị ô nhiễm ước
tính lên tới 20 tỷ ơrô!

ưu điểm của các kỹ thuật này trước hết là tính kinh tế. Các kỹ thuật này làm sạch môi
trường ô nhiễm như các khu vực ở vùng mỏ hoặc nước thải của trạm lọc nước, làm sạch
nhiều loại sản phẩm độc hại, các chất hữu cơ hoặc các kim loại nặng. Tuy nhiên, các kỹ
thuật này chưa giải quyết được tất cả các vấn đề ô nhiễm và cần áp dụng đồng thời với
các phương pháp khác.

(Biofuture, 1/2004)

**********
Trung tâm Thông tin Khoa học Công nghệ Quốc gia

Вам также может понравиться