Вы находитесь на странице: 1из 43

Chuyên đề tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của Chính phủ với việc
chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã mở
ra cơ hội kinh doanh, làm ăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài và góp
phần đẩy nhanh tiến trình tư nhân hoá tại Việt Nam. Một trong những
vấn đề đang được các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quan
tâm là bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng do vai trò quan
trọng của chúng trong việc bảo toàn vốn, hình thành tâm lý ổn định, an
tâm cho người được bảo hiểm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Đây cũng là mối quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam, nhất là từ khi thị trường bảo hiểm đã chuyển từ "thị trường
của người bán" thành "thị trường của người mua". Vấn đề nghiên cứu,
cải tiến, áp dụng và triển khai các loại hình bảo hiểm mới đang trở
thành một trong những chiến lược quan trọng mà các công ty bảo hiểm
sử dụng để cạnh tranh trên thị trường.
Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên
cứu, học tập trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm Hoả hoạn đã không
còn xa lạ. Tuy nhiên, làm thế nào để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý
luận và thực tế triển khai loại hình này cho phù hợp với điều kiện Việt
Nam mà vẫn đáp ứng được với nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp
của các doanh nghiệp đang là câu hỏi lớn đặt ra với tất cả các công ty
bảo hiểm hoạt động tại Việt nam. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Bảo
hiểm hoả hoạn thực trạng- giải pháp đối với Tổng Công ty Bảo Việt “
làm nội dung nghiên cứu.
Mục đích của đề tài nhằm tập hợp, hệ thống hoá các nguyên tắc lý
luận được áp dụng chung trong loại hình Bảo hiểm Hoả hoạn, các đặc

Tạ Quang Tuấn F4-K36 1


Chuyên đề tốt nghiệp

điểm riêng biệt của loại hình, cũng như những công tác cần thiết trong
việc triển khai nghiệp vụ. Ngoài ra, đề tài cũng dành một phần đề cập
đến thực tế tình hình triển khai nghiệp vụ tại Tổng Công ty Bảo hiểm
Việt Nam - công ty bảo hiểm đầu tiên tiến hành loại hình bảo hiểm mới
mẻ này trong những năm vừa qua.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bản luận văn bao gồm 3 chương
với những nội dung cơ bản sau:
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này, chúng tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình thiết thực của Thầy giáo hướng dẫn Thân Danh
Phúc và một số cán bộ công tác tại Phòng Bảo hiểm Hoả hoạn và Kỹ
Thuật thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm Hà Nội. Xin chân thành bày tỏ lòng
cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Bản chuyên đề này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm
khuyết trong biên tập và trình bày. Rất mong được sự góp ý và phê
bình của thày giáo và các bạn đồng nghiệp.

Sinh viên thực hiện


Tạ Quang Tuấn

Tạ Quang Tuấn F4-K36 2


Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG I
MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Vài nét về lịnh sử bảo hiểm hoả hoạn
Hiệp hội bảo hiểm hoả hoạn lần đầu tiên ra đời trên thế giới là ở Đức
năm 1591 mang tên Feuer Casse. Một thời gian ngắn sau đó xuất hiên thêm
vài Công ty nữa nhưng không để lại dấu ấn gì lớn cho tới giữa thế kỷ 17.
Năm 1666 đẫ xẩy ra một vụ Hoả hoạn khủng khiếp ở Lôn Đôn. Vụ Hoả
hoạn kéo dài năm ngày. Thiêu huỷ gần như toàn bộ thành phố đã kích thích
sự ra đời của bảo hiểm hoả hoạn. Một nhà vật lý người Anh tên là
NICHOLAS BARBEN chuyển nghạch sang lĩnh vực xây dựng trong thời
gian xây dựng lại thành phố đã đồng thời cũng bắt đầu bảo hiểm hoả hoạn
cho các ngôi nhà mới xây dựng. Ban đâu ông điều khiển Công ty theo kiểu
Công ty tư nhât nhưng sau đó năm 1680 ông đổi thành Công ty cổ phần
mang tên là “ The Fire Office “. Một số Công ty khác cũng theo đó ra đời
trong đó có Hand in Hand năm 1696 và Sun Fire Office năm 1710.
Công ty bảo hiểm đầu tiên thành công ở Mỹ là Công ty bảo hiểm tương hỗ,
do Benfamir Franklin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752, mang
tên là The Philadenphia Contributionship chuyên bảo hiểm Hoả hoạn cho
nhà cửa. Công ty bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mỹ mang tên là The
insurance company of Noth America được thành lập năm 1792.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế. Bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và
trở thành nghiệp vụ truền thống với phí thu hàng năm rất cao. ở Nhật, số
phí bảo hiểm hoả hoạn thu hàng năm 1993 là 1.017.008 triệu yên ( trên 10
tỷ đô la) chiếm 15,5% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm phí nhân thọ.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 3


Chuyên đề tốt nghiệp

II . Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm hảo hoạn


Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung
vật tư, hàng hoá rất lớn, quy trình công nghệ ngày càng phức tạp và những
loại máy móc hiện đại sẽ được phổ biến hơn. Trong khi đó, khoa học kỹ
thuật an toàn thường đi sau, nguồn vốn sử dụng cho các biện pháp an toàn
thường rất thấp so với vốn đầu tư phát triển sản xuất thêm vào đó điều kiện
tự nhiên ngày càng khắc nghiệt và đã khiến cho khả năng xảy ra rủi ro tai
nạn nhiều hơn so với mức độ thiệt hại về người và của nghiêm trong hơn.
Chỉ tính riêng hoả hoạn mỗi năm nước ta xẩy ra hàng nghìn vụ Hoả hoạn
nổ, làm chết hoặc bị thương hàng trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục
tỷ đồng. Có những vụ Hoả hoạn làm thiêu huỷ hàng trăm nóc nhà, toàn bộ
khu chợ lớn hoặc cả một cơ sở sản xuất kinh doanh hàng chục tỷ đồng, làm
cho hàng nghìn người không còn nhà ở hàng nghìn hộ kinh doanh phải điêu
đứng vi mất hết toàn bộ hàng hoá, tiền của , không còn chỗ kinh doanh làm
cho hàng trăm công nhân không còn nơi làm việc. Số liệu thống kê về hoả
hoạn ở Việt Nam của cục cảnh sát phòng Hoả hoạn chữa Hoả hoạn trong 5
năm 1998-2003 như sau:
Bảng 1_ Hoả hoạn ở Việt Nam trong năm 1998-2002

Năm Số Địa điểm Nghành kinh tế Thiệt hại


Thành Nông Nhà Tập Tư Liên Chế Thương Tài
vụ
phố thôn nước thể nhân doanh t tật sản(tỷ
đồng)
199 949 678 270 273 60 619 4 47 111 40019
8
199 941 657 284 238 39 664 7 65 110 43418
9
200 102 670 356 277 44 704 3 127 465 86218
0 6
200 105 750 305 199 27 825 2 88 215 215102

Tạ Quang Tuấn F4-K36 4


Chuyên đề tốt nghiệp

1 5
200 109 720 372 226 33 830 5 105 140 92660
2 1

Vậy làm thế nào doanh nghiệp trách được tổn thất bảo toàn nguồn vốn
kinh doanh của mình? Thực ra nó còn nhiều biên pháp sử dụng như sử
dụng các biện pháp an toàn, thành lập quỹ dự trữ đề phòng xẩy ra tổn
thất...Trước đây chúng ta có một vài Công ty bảo hiểm hoả hoạn tại miền
Nam trong thời kỳ Pháp thuộc song sang năm 1975 do cơ chế bao cấp, nhà
nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại, bảo đảm tài chính cho các doanh nghiệp
khi không may gặp rủi ro nên bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn
nói riêng không có mảnh đất phát triển. Trong điều kiên nền kinh tế chuyển
sang cơ chế thị trường hiên nay các doanh nghiệp phải tự chủ về nguồn tài
chính, tham gia bảo hiểm tài sản mà cụ thể là bảo hiểm Hoả hoạn vẫn là
phương án tối đa.
Theo quy tắc bảo hiểm Hoả hoạn hiện nay vẫn sử dụng ở các Công ty
bảo hiểm trong nước, người tham gia bảo hiểm có thể tham gia đăng ký bảo
hiểm cho những tài sản như nhà của trang thiết bị hàng hoá, nguyên vật liệu
của mình...Ngoài Hoả hoạn là rủi ro chính họ còn đăng ký cho các rủi ro
phụ như nổ, giông bão, động đất nước chảy hay rò rỉ tràn từ bể chứa đường
ống hoặc thiết bị chữa Hoả hoạn, xe cộ hay súc vật đâm vào....Trong
trương hợp xẩy ra tổn thất, các Công ty bảo hiểm bồi thường cho những
thiệt hại trực tiếp từ các nguyên nhân kể trên và cả những chi tiết cần thiết
hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản được bảo hiểm trong và ngay khi chấy.
Tuy nhiên Hoả hoạn không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến cho con
người và tài sản mà nó còn để lại những thiệt hại và tổn thât khổng lồ cho
các doanh nghiệp. Trên thực tế sau khi Hoả hoạn hoạt động sản xuất không
thể phát triển theo kế hoạch kinh doanh đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất
khoản lợi nhuận do nhà xưởng, máy móc bị hư hại. Để tránh bị phá sản họ

Tạ Quang Tuấn F4-K36 5


Chuyên đề tốt nghiệp

phải tiến hành các biện pháp khôi phục lại sản xuất. Bên cạch việc duy trì
chi trả tiền lương cho nhân công và thanh toán các chi phí cố định như tiền
thuê nhà xưởng, khấu hao, điện nước lãi xuất ngân hàng các doanh nghiệp
còn phải thuê thêm nhân viên làm việc thêm giờ để hoàn tất đơn đặt hàng
tồn đọng...Rõ ràng những khám phá này không được bồi thường theo đơn
bảo hiểm Hoả hoạn.
Để đáp ứng được các khoản chi phí trên, nhiều doanh nghiệp đã sử
dụng các quỹ dự trữ, hoặc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức cho vay
khác, song các phương pháp này hoàn toàn thụ động . Một biện pháp hiện
nay đang khẳng định tính ưu việt với các nhà đầu tư nước ngoài đó là tham
gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Với loại hình này, các doanh nghiệp
không những được bồi thường tài chính cho các khoản chi phí nói trên mà
còn được bù đắp phần lợi nhuận ròng bị mất mát mà lẽ ra họ được mà
không bị tổn thương. Như vậy có thể nói rằng bảo hiểm hoả hoạn đã hạn
chế tối thiểu mức ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Bằng việc đóng góp một khoản phí nhỏ ( thường là một phần ngàn giá
trị của tài sản) người được bảo hiểm có thể đầu tư tối đa và triệt để nguồn
vốn nhàn rỗi cho phát triển hoạt động sản xuất, bởi họ không phải trích lập
quỹ dự phòng trường hợp xẩy ra rủi ro và quan trọng hơn, bên cạnh việc
được bồi thường khi xẩy ra tổn thất họ có một tâm lý an tâm khi tiến hành
công việc kinh doanh của mình.
Tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp còn được các Công ty tư vấn về
các biện pháp phòng trách tổn thất, tăng cường biện pháp phòng Hoả hoạn
chữa Hoả hoạn và thực hiện chính sách quản lý rủi ro nhằm đảm bảo sự an
toàn cao nhất.
Bên cạnh việc mang lại lợi ích trên cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoả
hoạn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh
tế. Bời vì thông qua việc hướng dẫn các doangh nghiệp thực hiện những

Tạ Quang Tuấn F4-K36 6


Chuyên đề tốt nghiệp

biện pháp an toàn, các Công ty bảo hiểm góp phần hạn chế tổn thất tai nạn
giúp khách hàng của họ có điều kiện thúc đẩy mở rộng sản xuất như mong
muốn. Mặt khác, một phần không nhỏ khoản phí thu được từ loại hình này
được Công ty bảo hiểm đóng góp vào ngân sách nhà nước để chính phủ sử
dụng các mục đích xã hội.
III. Việc thực hiện bảo hiểm hoả hoạn ở Việt Nam
ở Việt Nam bảo hiểm hoả hoạn bắt đầu được thực hiện từ năm 1989
sau khi có quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/1/1989 của bộ trưởng bộ tài
chính ban hành quy tắc về bảo hiểm hoả hoạn. Sau một thời gian thực hiện
để phù hợp hơn với tình hình thực tế, Bộ tài chính lại có quyết định số
142/TCQĐ ban hành quy tắc và biểu phí mới và quyết định số 212/TCQĐ
ngày 12/4/1993 ban hành biểu phí và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt với các mức phí tối đa thay cho biểu phí bảo hiểm hoả hoạn theo quyết
định số 142/TCQĐ.
Đến nay bảo hiểm hoả hoạn đã được thực hiện trong khắp cả nước.
Nếu như năm 1991 số đơn vị hoả hoạn cấp ra mới chỉ có 413 thì tới năm
1994 con số này đã lên tới 2000 giá trị tài sản năm 1991 là 1000 tỷ đồng thì
năm 1992 trên 4000 tỷ, năm 1993 là 7000 và năm 1994 trên 14000 tỷ đồ
ng. Số tiền bảo hiểm phí tương ứng của các năm đó là 4,5 tỷ, 10,2 tỷ, 21,3
tỷ và 3902 tỷ. Bảo việt cũng phải chi bồi thường thiệt hại nhiều vụ Hoả
hoạn lớn như Công ty giầy Hiệp Hưng trên 10 tỷ, Công ty dược Đồng Tháp
4,5 tỷ đồng, chợ đồng xuân trên 8 tỷ đồng, Công ty sản xuất và xuất khẩu
sông Bé gần 18 tỷ đồng...Có thể nói rằng bảo hiểm hoả hoạn đã dần dần đi
vào tiềm thức của con người Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi tất yếu của xã hội
và ngày càng củng cố vững chắc vị trí quan trọng của mình trong cơ cấu
chung của nghành bảo hiểm Việt Nam.
Từ khi bắt đầu bảo hiểm hoả hoạn tới nay. Tổng Công ty bảo hiểm
Việt Nam đã tổ chức nhiều đợt tập huấn nghiệp vụ, đã làm nhiều văn bản
tài liệu hưỡng dẫn. Tuy nhiên số người trực tiếp tham gia tập huấn không

Tạ Quang Tuấn F4-K36 7


Chuyên đề tốt nghiệp

phải là nhiều, tài liệu hướng dẫn cũng rải rác, không tập trung hơn nữa theo
thời gian bản thân những tài liệu đã ban hành trở nên lại lạc hậu đòi hỏi
phải hoàn thiện bổ xụng thêm.
Ngay cả quan điểm biện pháp thực hiên nghiệp vụ cũng có sự thay đổi
căn bản. Nếu như trước đây chúng ta tiến hành bảo hiểm trong điều kiên
độc quyền thì nay hoàn toàn ngược lại chúng ta phải cạnh tranh với nhiều
đối thủ trong và ngoài nước, hiệu quả kinh doanh đã trở thành thước đo
quan trọng cho hoạt động của Công ty. Điều đó phải đòi hỏi các cán bộ
nghiệp vụ, ngoài các phẩm chất khác của người bán hàng, phải hết sức
nhanh nhậy trong việc đưa ra các tỷ lệ phí có sức cạnh tranh nhưng phải
đáp ứng đúng chuẩn mực quy định để đảm bảo kinh doanh có lãi và đáp
ứng yêu cầu của nhà nhận tái bảo hiểm. Đông thời cùng với việc mở rộng
kinh doanh, chúng ta cũng phải chú ý đến việc kiểm soát sự tích tụ rủi ro,
nhất là các rủi ro thiên tai như bão, lũ lụt để tránh các trường hợp tồn thất
hàng loạt. Trong việc giải quyết bồi thường cũng phải đảm bảo chính xác,
đúng điều kiện của đơn bảo hiểm và nhanh chóng hơn. Mặt khác người bảo
hiểm cũng phải tăng cường công tác quản lý rui ro, cùng với khách hàng
làm tốt công tác hạn chế tổn thất...
Xuất phát từ thực tế đó Công ty Bảo Việt đã khai thác tốt thị trường
bảo hiểm trong nước về lĩnh vực bảo hiểm hoả hoạn. Do đó những năm gần
đây doanh số của phòng bảo hiểm hảo hoạn tăng từ đó làm tăng doanh thu
của Công ty Bảo Việt.
IV. Một số khái niệm cơ bản
1. Rủi ro có thể lựa chọn để bảo hiểm
Mỗi rủi ro có thể được nêu thành tên riêng. Hầu hết các Công ty trên
thế giới đều chấp nhận áp dụng các phương pháp tiêu chuẩn khi cấp đơn
bảo hiểm và lưu trữ, sử dụng số liệu các rủi ro này được đưa vào phụ lục
của “ Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt”.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 8


Chuyên đề tốt nghiệp

Dùng áp dụng mẫu đơn bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tiêu
chuẩn của thị trường bảo hiểm Lôn Đôn ( standard Fire and Special Perils
Policy) hay ( Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt” của Việt
Nam thì rủi ro chính được bảo hiểm thì cũng là bảo hiểm hoả hoạn. Rủi ro
A còn có rủi ro B- nổ, C- máy bay và...rơi vào, E- nổi loạn bạo động dân
sự... được coi là các rủi ro phụ. Các rủi ro phụ đó không được bảo hiểm
riêng mà chỉ có thể bảo hiểm cùng với rủi ro hoả hoạn. Các rủi ro phụ đó
cũng không được bảo hiểm một cách tự động mà chỉ được bảo hiểm khi
khách hàng yêu cầu với điều kiện phải đóng thêm phí và phải được ghi rõ
trong giấy yêu cầu và giấy chứng nhận bảo hiểm.
Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số rủi ro cơ bản dễ gây hiểu lầm còn
các rủi ro khác thì hiểu theo tên gọi của chúng
 Hoả hoạn
Rủi ro này thực chất bao gồm 3 phần: Hoả hoạn , sét và nổ.
• Hoả hoạn : Trong đơn bảo hiểm Hoả hoạn tiêu chuẩn không định
nghĩa rõ thế nào là hoả hoạn vì người ta hiểu nó theo nghĩa thông
dụng nghĩa là sẽ được coi là hoả hoạn nếu có đủ 3 yếu tố sau đây
- Phải thực sự có phát lửa
- Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng
- Về vật chất đám lửa phải bất ngờ ngẫu nhiên với người được bảo
hiểm chứ không phải là cố ý có chủ định của họ hoặc đồng loã của
họ. Tuy nhiên hoả hoạn được xẩy ra do bất cẩn của người được bảo
hiểm vẫn thuộc phạm vi được bồi thường.
Khi có đầy đủ 3 yếu tố trên và co thiệt hại về vật chất do những
nguyên nhân được coi là hợp lý gây ra những thiệt hại đó được bồi thường
dù cho là bị Hoả hoạn.
Mặc dù không được nêu rõ trong đơn bảo hiểm nhưng thiệt hại do hoả
hoạn ở đây bao gồm có:

Tạ Quang Tuấn F4-K36 9


Chuyên đề tốt nghiệp

- Thiệt hại do khói mà nguồn lửa gây ra thuộc phạm vi thuộc trách
nhiệm bảo hiểm
- Thiệt hại do nước dùng để chứa Hoả hoạn
- Thiệt hại do phá rỡ để ngăn chặn Hoả hoạn lan
- Thiệt hại do việc thực hiện nhiệm vụ chữâ Hoả hoạn
- Thiệt hại mà người được bảo hiểm phải gánh chịu do việc bảo vệ tài
sản và kiểm soát sự phát triển của ngọn lửa.
Tuy vậy hoả hoạn ở đây loại trừ:
- Nổ ro ảnh hưởng của hoạ hoạn
- Động đất ngầm
- Tài sản bị phá huỷ hay hư hỏng do
+ Do bị lên men hoặc toả nhiệt
+Quá trình sử lý bằng nhiệt
Việc loại trừ này nhằm thống nhất khái niệm hoả hoạn được dùng
trong toàn bộ đợn vị bảo hiểm bằng những rủi ro phụ riêng biệt
• Nổ : Theo rủi ro hoả hoạn, phạm vi bảo hiểm bao gồm:
Các trương hợp hoả hoạn do nổ ngẫu nhiên được bảo hiểm như vậy ở
đây chỉ có những thiệt hại do nổ mà không gây Hoả hoạn vấn đề còn lại là:
- Tổn thất và thiệt hại do nổ nhưng không gây chay thì không được bồi
thường trừ trương hợp nổ nồi khơi khí phục vụ cho sinh hoạt, với
điều kiện vụ nổ đó không phải do các nguyên nhân bị loại trừ
- Tổn thất do chay xuất phát từ nổ thì được bồi thường với điều kiện là
sự nổ không phải do các nguyên nhân bị loại trừ
- Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ Hoả hoạn: Thiệt hại ban
đầu do Hoả hoạn được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả
của nổ thì không
• Sét : Theo khái niệm thông thường được áp dụng trong đơn bảo hiểm
là người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ
trực tiếp do sét hoặc bị sét đánh gây Hoả hoạn. Tuy nhiên, cũng theo
Tạ Quang Tuấn F4-K36 10
Chuyên đề tốt nghiệp

khái niệm thông thường thì sét đánh mà không phát lửa hoặc khônng
pha huỷ trực tiếp tài sản thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi
thường.
ở đây cần lưu ý trừ khi trừ khi tia sét phá huỷ trực tiếp các thiết bị điện
được bồi thường, còn tia sét làm thay đổi dòng điện dẫn tới thiệt hại cho
thiết bị điện thì không được bồi thường.
2. Cụm rủi ro
Một nhóm những ngôi nhà hoặc kho tàng ngoài trời ở liền kề nhau
trong một khu vực, tách biệt với những ngôi nhà kho tàng ngoài trời
khác về không gian
Các ngôi nhà hoặc kho tàng ngoài tời được coi là tách biệt nhau về
không gian nếu khoảng cách giữa chúng là khoảng cách tối thiểu.
Khoảng cách tối thiểu là khoảng cách tính bằng chiều cao của ngôi nhà
cao nhất hoặc vượt quá 20m nếu tài sản là loại dễ Hoả hoạn và qua 10m
nếu tài sản là loại không Hoả hoạn hoặc khó Hoả hoạn. Khoảng cách
trên 20m được coi là tách biệt về không gian.
3. Đơn vị rủi ro
Một số ngôi nhà, bộ phận của nhà kho ngoài trời liền nhau nhưng tách
biệt với các ngôi nhà, bộ phận nhà kho ngoài trời khác về không gian hoặc
cấu trúc.
Đơn vị rủi ro được coi là tách biệt về không gian khi khoảng cách giữa
các ngôi nhà hoặc kho ngoài trời bằng vật liệu không Hoả hoạn đảm bảo
10m.
Đối với kho ngoài trời bằng vật liệu dễ Hoả hoạn, khoản cách đó phải
đảm bảo 20.
Đơn vị rủi ro được coi là cách biệt về mặt cấu trúc nếu các ngôi nhà bộ
phận nhà hoặc kho được ngăn bằng tường chống Hoả hoạn.
Phong được ngăn cách chống Hoả hoạn nếu:
- Không lớn hơn 10% diện tích có tầng bằng phòng đó

Tạ Quang Tuấn F4-K36 11


Chuyên đề tốt nghiệp

- Được ngăn cắt bằng tường chông Hoả hoạn


- Trần làm bằng vật liệu không Hoả hoạn.
4.Tương ngăn Hoả hoạn.
Là tường ngăn Hoả hoạn để chia ngôi nhà hoặc kho ngoài trời thành
nhiều đơn vị rủi ro
Đặc điểm xây dựng của tường ngăn Hoả hoạn:
- tường ngăn Hoả hoạn phải có giới hạn chiu lửa ít nhất 90 độ
- Phải được xây kín các tầng và không được so le nhau
- Nếu mái nhà là loại khó Hoả hoạn thì tường ngăn Hoả hoạn phải
cách mái nhà ít nhất là 30m
- Nếu có các cấu kiện khác nằm trong tường ngăn Hoả hoạn phân độ
dầy còn lại cũng phải đảm bảo giới hạn chịu lửa tối thiếu
- Không được để vật liệu cấu kiện dễ Hoả hoạn vắt nganh qua tường
ngăn Hoả hoạn.
- Tường ngăn Hoả hoạn phải xây cách những lỗ hở trên mái ít nhất
5m.
V. Đánh giá rủi ro
Đánh giá rủi ro là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
công tác quản lý rủi ro. Có làm tốt công công việc đánh giá rủi ro thì mới
có thể thực hiện đựơc công tác quản lý rủi ro. Đối với người khai thác bảo
hiểm việc đánh giá rủi ro sẽ giúp họ quyết định có nhận bảo hiểm hay
không, mức phí bao nhiêu. Tài liệu về định giá rủi ro coi như báo cáo của
họ trong hồ sơ về khách hàng, nó cũng là tài liệu để báo cáo cho các nhà
nhận bảo hiểm và cũng là cơ sở đối chiếu khi giải quyết bồi thường.
Nếu việc điều tra đánh giá rủi ro được thực hịên một cách đầy đủ, kỹ
lưỡng, kết hợp với bảng hưỡng dẫn tính phí hoặc sử dụng chương trình tính
phí bảo hiểm trên máy vi tính, cán bộ khai thác hoàn toàn có thể tính toán
ngay được một cách chính xác tỷ lệ phí. Điều này giúp cho việc chủ động,

Tạ Quang Tuấn F4-K36 12


Chuyên đề tốt nghiệp

nhanh chóng trong khai thác, trách được tình trạng phải tham khảo, hỏi
han, tốn kém mất thời giờ.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 13


Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
HOẢ HOẠN TẠI BẢO VIỆT
I. Thị trường bảo hiểm Việt Nam - Sự ra đời và phát triển của nghiệp
vụ bảo hiểm Hoả hoạn
Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam ( gọi tắt là Bảo Việt ) được thành
lập từ ngày 15.1.1965 theo Quyết định số 179/CP ngày 17.12.1964 của Thủ
tướng Chính phủ, là doanh nghiệp nhà nước duy nhất hoạt động kinh doanh
dịch vụ bảo hiểm. Bảo Việt có nhiệm vụ thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ
sự đóng góp, tham gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Từ năm 1981, Bảo Việt đã thành lập các công ty chi nhánh ở các
tỉnh, địa phương để tiến hành các dịnh vụ bảo hiểm. Hoạt động của các chi
nhánh không những giúp Bảo Việt triển khai bảo hiểm trên phạm vi cả
nước mà còn hình thành một mạnh lưới đảm bảo an toàn tài chính cho toàn
bộ người được bảo hiểm.
Trong hơn 30 năm qua, ở Việt nam từ "bảo hiểm " đồng nghĩa với
"Bảo Việt " và ngược lại lúc nào người ta cũng nghĩ rằng chỉ duy nhất có
một công ty bảo hiểm hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó có lý do
của nó. Ngoài sự hiện diện và đóng góp của Bảo Việt đối với nền kinh tế,
xã hội và với mỗi gia đình, trong suốt thời gian qua không thấy nói đến một
tên công ty bảo hiểm nào khác.Với đường lối mở của của nhà nước, trong
cơ chế thị trườngthì việc Nhà nước dộc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm ( kể
cả trên danh nghĩa) là điều khó có thể chấp nhận. Chính vì thế nên ngày 18-
12-1993 Nghị định 100/CP của Chính Phủ đã ra đời cho phép các doanh
nghiệp trong nước cũng như nước ngoài được thành lập các công ty bảo
hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, mở chi nhánh công ty nước ngoài
tại Việt Nam.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 14


Chuyên đề tốt nghiệp

Tại Bảo Việt, các nghiệp vụ bảo hiểm như bảo hiểm thân tàu, bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu... đã
được tiến hành từ lâu và đã trở thành những nghiệp vụ bảo hiểm truyền
thống. Song đến năm 1989, Bảo Việt mới chính thức triển khai bảo hiểm
Hoả hoạn theo Quyết định 06/TCQĐ của Bộ Tài chính.
Năm 1990, trên cả nước đã có 16 công ty bảo hiểm tiến hành nghiệp
vụ này. Tuy nhiên nhìn chung mới chỉ bảo hiểm cho các nghành xăng, dầu
còn lại phần lớn các tài sản, các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, hệ thống
khách sạn từ Nam ra Bắc... trị giá nhiều tỷ đồng vẫn chưa được bảo hiểm.
Có nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến việc ngành bảo
hiểm chưa triển khai được toàn diện. Nguyên nhân cơ bản là chúng ta đã
quá quen với cơ chế bao cấp, Hoả hoạn và rủi ro xảy ra đã có Nhà nước bù
đắp thiệt hại còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thì
chưa có thói quen tham gia bảo hiểm tài sản. Bên cạnh đó về chủ quan,
công tác tuyên truyền, vận động thu hút khách hành của nghành bảo hiểm
còn nhiều hạn chế.
Sau một năm thực hiện, một yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải có
quy định chung hướng dẫn về bảo hiểm Hoả hoạn. Vì vậy ngày 2. 5.1991,
Bảo Việt đã ban hành Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt áp
dụng trên cả nước. Nghiệp vụ này ngày càng khẳng định được vị trí quan
trọng của nó đặc biệt là sau khi Hội đồng bộ trưởng ra quyết định số 332/
HĐBT ngày 23. 10 1991 về việc bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh đối
với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, thông tư số 82/TC/CN hướng
dẫn cụ thể việc thực hiện quyết định trên của HĐBT : "... Để tránh các
trường hợp không bảo toàn được vốn do nguyên nhân khách quan như
thiên tai, rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh... tránh các trường hợp
phải xử lý giảm vốn và đưa lỗ vào doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần
phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó tại các
công ty bảo hiểm Việt nam. Khoản chi về bảo hiểm được hạch vào giá

Tạ Quang Tuấn F4-K36 15


Chuyên đề tốt nghiệp

thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi
giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà công ty
bảo hiểm trong nước triển khai loại hình bảo hiểm tương ứng...".
II Các hoạt động trong bảo hiểm hoả hoạn
Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo
hiểm Hoả hoạn gồm các bước cơ bản sau :
- Khai thác
- Giám định
- Bồi thường
- Hạn chế tổn thất
Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước
này ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành
một chu trình hoạt động của một nghiệp vụ.
1. Công tác khai thác bảo hiểm
Đây là bước đầu tiên và không thể thiêú trong nghiệp vụ bảo hiểm.
Công tác khai thác đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển một
công ty. Khách hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua
bảo hiểm họ sẽ được lợi gì. Do đó mà công việc tuyên truyền, quảng cáo
trong bước này là cần thiết và nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đồi với
nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn - nghiệp vụ mà chưa có tập quán ở nước ta
1.1 Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng
Hàng năm Bảo Việt kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan
như : cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ,
nghành để tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm Hoả hoạn. Qua
đó mới có thể thuyết phục được khách hàng mua bảo hiểm.
Mặt khác, công ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh
doanh để giải thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ
khách hàng hoặc chỉ gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng

Tạ Quang Tuấn F4-K36 16


Chuyên đề tốt nghiệp

rất ngại đọc. Một phần vì khó hiểu, một phần vì không nhận thức được hết
ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm.
Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm
cơ sở sản xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ..., chỉ cho họ thấy
những rủi ro mà họ có thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo
hiểm giải thích rõ cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất
gì, ước tính số phí mà họ phải trả, giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc
mắc, chưa hiểu rõ, gây cho họ lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm. Kinh
nghiệm cho thấy rằng, hướng tuyên truyền vận động nên tập trung vào
những đối tượng "ăn nên làm ra ", có của ăn của để. Vì thế, Bảo Việt đã
chú ý đến các đơn vị, doanh nghiệp lớn có khả năng tài chính khai thác
như : Công ty liên doanh về các thiết bị viễn thông COMVIK đã mua bảo
hiểm với số tiến bảo hiểm là 19000000 $, mức phí là 47500 $ ; công ty liên
doanh INDOCHINA CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị
nội thất đã mua với số tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $.
Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" không phải là khó, cán
bộ khai thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thông tin
đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình...) đồng thời phải có sự phối
hợp với các ngân hàng, cơ quan khác để nắm bắt được đối tượng.
1.2 Đánh giá rủi ro
Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy
yêu cầu bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với
các đối tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp
tương ứng với các rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thông thường công ty bảo hiểm sẽ
gửi cho khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần
trả lời khách hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định
được bậc chịu lửa của công trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang
bị, đội cứu hoả, bảo vệ... ), hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh

Tạ Quang Tuấn F4-K36 17


Chuyên đề tốt nghiệp

doanh dịch vụ ( với đơn vị kinh doanh dịch vụ ), mức độ nguy hiểm với các
tài sản để trong kho, cửa hàng, từ đó xác định mức phí thích hợp.
Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh
giá rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo
hiểm sẽ đến làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực
tế kỹ hơn, hướng dẫn khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra,
cùng cộng tác với cảnh sát PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC,
phương tiện chuyên môn (khách hàng cần những phương tiện PCCC nào,
bố trí ở đâu, với số lượng là bao nhiêu...). Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi
ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuân với khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng.
Như vậy công tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó
yêu cầu cán bộ bảo hiểm không những phải giỏi chuyên môn mà còn phải
có sự năng động, tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh
giá rủi ro là khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc
đưa ra mức phí phù hợp.
1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí.
Giấy chứng nhận bảo hiểm Hoả hoạn bao gồm :
- Số đơn bảo hiểm
- Tên, địa chỉ người được bảo hiểm
- Ngành sản xuất kinh doanh
- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tài sản dược bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường
- Mức miễn thường
- Thời hạn bảo hiểm

Tạ Quang Tuấn F4-K36 18


Chuyên đề tốt nghiệp

- Phí bảo hiểm cả năm


Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại
không thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm
theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này
được coi như một bộ phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị
pháp lý, nó thể hiện từng hạng mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số
tiền bảo hiểm của từng loại đó :
Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản : Một bản
trao cho khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng
công ty.Hiện nay Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác
cho từng công ty. Nếu đối tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm
vi đó thì công ty chỉ cần gửi một bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức
phân cấp, trước khi cấp giấy chứng nhận cho khách hàng, các công ty cần
gửi hồ sơ cho Tổng công ty xem xét và quyết định.
1.4 Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản
được bảo hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty
cần xem xét kỹ yêu cầu thay đổi như : giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh
hưởng đến tỷ lệ phí để từ đó tính toán, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm
cho thích hợp. Bản bổ sung sửa đổi cũng được lập thành bốn bản trao cho
các bộ phận nói trên.
Ngoài ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối
tượng bảo hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng
cường công tác này. Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để
theo dõi việc đóng phí của khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi
thời hạn bảo hiểm sắp hết.
1.5 Hoa hồng
Trong công tác khai thác không thể không nói đến vấn đề hoa hồng.
Đây là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số phí bảo

Tạ Quang Tuấn F4-K36 19


Chuyên đề tốt nghiệp

hiểm. Khoản hoa hồng này, công ty trả cho người trực tiếp đứng ra tham
gia bảo hiểm hoặc trả cho người môi giới nhằm động viên khuyến khích họ
nhiệt tình công tác, thu hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây
cũng là một hình thức tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.Từ
năm 1995, để tạo tính chủ động, linh hoạt trong hoạt động, khoản chi hoa
hồng được tính vào chi quản lý nghiệp vụ.
Có thể nói công tác khai thác có một vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho các
công ty bảo hiểm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
2. Công tác giám định tổn thất
Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với công tác bồi
thường. Các giám định viên bảo hiểm có nhiệm vụ xác định : nguyên nhân
rủi ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, giá trị thiệt hại thực tế là bao
nhiêu...
2.1 Điều tra tai nạn
Nhận được thông báo tai nạn, giám định viên bảo hiểm sẽ xuống
ngay hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Mục đích của việc
điều tra tai nạn là thu nhập các bằng chứng và sự kiện. Trên cơ sở đó giải
đáp các câu hỏi : tai nạn đã xảy ra như thế nào, ở đâu, khi nào, vì sao.
Muốn vậy trong quá trình điêù tra, giám định viên phải thu thập hai loại
thông tin : các tang vật và lời khai của nhân chứng.
- Tang vật : Là bất cứ một việc gì có liên quan giúp cho việc xác định
những sự việc liên quan đến tai nạn. Hầu hết các tang vật đều có thể tìm
thấy ở hiện trường hay cũng có thể tìm thấy ở nơi sửa chữa bị hư hại.
- Lời khai của nhân chứng : Là những lời kể, những câu trả lời của các
nhân chứng thường là những người có mặt ở nơi hiện trường khi xảy ra tai
nạn. Lời khai của nhân chứng cũng giúp cho việc xác định những vấn đề có
liên quan đến tai nạn. Người bảo hiểm cần có những khả năng phân tích

Tạ Quang Tuấn F4-K36 20


Chuyên đề tốt nghiệp

tìm ra những lời khai xác thực vì các lời khai của nhân chứng thường khác
nhau và có khi mâu thuẫn với nhau.
Ngoài việc tiếp xúc, trao đổi, hỏi chuyện với các nhân chứng, giám
định viên cần gặp gỡ, trao đổi với người được bảo hiểm, với công an
PCCC. Qua đó, nguyên nhân Hoả hoạn, đánh giá sơ bộ và khái quát mức
độ thiệt hại.
2.2 Đề xuất các biện pháp hạn chế tổn thất
Thông thường sau khi gặp hoả hoạn, người được bảo hiểm rất hoang
mang và lúng túng không biết phải làm gì. Vì vậy trên cơ sở xem xét hiện
trường và song song với việc điều tra tai nạn, giám định viên bảo hiểm phải
góp ý kiến với người được bảo hiểm các biện pháp hạn chế tổn thất như
sau:
- Cách ly khu vực và tài sản bị thiệt hại.
- Rào kín những nơi mà người ngoài có thể đột nhập vào.
- Bơm rút nước cứu hoả còn đọng lại ra khỏi những nơi chứa tài sản
để tránh tài sản hư hỏng thêm.
- Di chuyển các mảnh đổ vỡ, tro than để cứu tài sản,
Qua quá trình điều tra, các giám định viên phải tìm ra được nguyên
nhân gây Hoả hoạn. Chú ý rằng đó phải là những nguyên nhân trực tiấp dẫn
đến hoả hoạn. Cuối cùng các giám định viên bảo hiểm sẽ xác định mức độ
thiệt hại và lập biên bản giám định. Biên bản giám định sẽ được trình lên
công ty một bản và Tổng công ty một bản.
3. Công tác bồi thường
Một trong những yêu cầu và cũng là một trong những phẩm chất
quan trọng đối với người làm công tác bảo hiểm là phải quan tâm và cảm
thông sâu sắc tới các nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. Phẩm chất
đó phải được thể hiện đặc biệt rõ nét trong khâu trong khâu giải quyết bồi
thường. Giải quyết bồi thường tốt có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng -
đây là nhiệm vụ số một của người làm công tác bồi thường và là một trong

Tạ Quang Tuấn F4-K36 21


Chuyên đề tốt nghiệp

những biện pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của công ty
và có ảnh hưởng tích cực tới khâu khai thác bảo hiểm.
Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của công tác bồi thường,
cán bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau :
3.1 Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm
Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem
xét hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm
bảo hiểm nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời
và ngày trả lời khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu
với quy tắc bảo hiểm và văn bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định
trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể : khiếu nại có nằm trong phạm vi thoả thuận
bảo hiểm không; có điểm loại trừ nào tác động và ảnh hưởng đến khiếu nại
đó không; có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu
hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu nại không ?
3.2 Xác định mức độ thiệt hại
Chức năng chính của công tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt
hại thực tế xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất
kinh doanh cho người được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới
đảm bảo việc bồi thường thực sự đem lại hiệu quả cho người được bảo
hiểm.Việc xác định giá trị thiệt hại được tiến hành trên nguyên tắc : phải
xác định ngay tại thời điểm và địa điểm xảy ra tổn thất. Trên cơ sở biên bản
giám định về mức độ thiệt hại cùng các biên lai, chứng từ xác minh kèm
theo các hồ sơ khiếu nại, cán bộ bồi thường sẽ xác định được mức thiệt hại
thực tế của từng đối tượng bảo hiểm.
3.3 Xác định số tiền bồi thường
Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là
thuộc phạm vi bảo hiểm và tính toán được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến
hành xác định số tiền bồi thường.
Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau :

Tạ Quang Tuấn F4-K36 22


Chuyên đề tốt nghiệp

- Giá trị thiệt hại thực tế


- Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường )
- Mức miễn thường : sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc
nhỏ hơn mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải
trừ đi mức miễn thường ( trong trường hợp áp dụng mức miễn thường có
khấu trừ ).
Trước khi tính toán số tiền bồi thường, người được bảo hiểm cần
xem xét số tiền khách hàng đòi bồi thường là bao nhiêu. Nếu số tiền đó
bằng hoặc nhỏ hơn mức miễn thường thì không cần tính toán mà có thể trả
lời ngay cho khách hàng là tổn thất không được bồi thường vì nằm trong
phạm vi mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải
tính chi tiết mức độ thiệt hại.
Cụ thể :
* Đối với bảo hiểm Hoả hoạn :
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại × ____________________

Giá trị bảo hiểm


3.4 Lập hồ sơ bồi thường, giải quyết bồi thường và khiếu nại
Trên cơ sở tính toán được số tiền bồi thường như trên, cán bộ bồi
thường sẽ lập hồ sơ bồi thường và trình lên lãnh đạo Tổng công ty xét
duyệt bồi thường. Sau khi có quyết định của lãnh đạo, cán bộ bồi thường sẽ
thông báo cho khách hàng cụ thể về mức bồi thường, thời gian, địa điểm
công ty bảo hiểm chi trả số tiến đó cũng như các giấy tờ cần thiết mà họ
phải có. Nếu khách hàng chấp nhận thì việc bồi thường sẽ được chuyển cho
phòng kế toán-tài vụ.
Trong thực tế, khâu bồi thường là khâu dễ phát sinh các tranh chấp,
khiếu nại khi khách hàng cho rằng số tiền bồi thường là chưa hợp lý. Bởi
vậy, cần xem xét nghiên cứu các ý kiến khiếu nại một cách khách quan.
Cũng cần lưu ý là trước khi chính thức bồi thường, trên cơ sở những thông
Tạ Quang Tuấn F4-K36 23
Chuyên đề tốt nghiệp

tin nhận được và đánh giá chung, cán bộ bồi thường sớm ước tính số tiền
bồi thường và thông báo cho khách hàng biết trước để cho họ không bị bất
ngờ khi công bố số tiền chính thức. Cần chú ý lắng nghe nguyện vọng của
khách hàng, nhẹ nhàng và kiên nhẫn giải thích kỹ những thắc mắc của họ
ngay cả khi từ chối bồi thường.
4. Các biện pháp đề phòng Hoả hoạn
Mục tiêu của công tác phòng Hoả hoạn là đề phòng hoả hoạn phát
sinh và không cho đám Hoả hoạn lan rộng. Hiện nay có hai biện pháp
phòng Hoả hoạn là phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng và sử dụng các
biện pháp quản lý.
+ Phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng :nhằm cách ly các vật dễ Hoả
hoạn với nguồn lửa. Các nguồn lửa có thể phát sinh từ các thiết bị toả nhiệt,
bếp, lò sấy, lò sưởi, các thiết bị điện... Do vậy, việc thiết kế xây dựng cần
lưu ý tới việc bố trí các phòng ban, kho, phân xưởng cũng như các thiết bị
nội thất một cách hợp lý, đảm bảo độ an toàn cao.
+ Các biện pháp quản lý : Thực hiện các biện pháp quản lý là trách nhiệm
của người tham gia bảo hiểm. Dựa vào các quy định phòng Hoả hoạn và
chữa Hoả hoạn của Nhà nước và địa phương, các giám đốc, thủ trưởng đơn
vị cần đề ra nội quy, biện pháp PCCC cho cơ sở mình đồng thời có kế
hoạch giáo dục, đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc chấp hành nội quy, biện
pháp đó. Các cán bộ, công nhân phải triệt để chấp hành các nội quy PCCC
cũng như các tiêu chuẩn về an toàn trong hoạt động công tác, sản xuất..
Cùng với cảnh sát PCCC, các công ty bảo hiểm sẽ hướng dẫn người tham
gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác PCCC ở các khu vực dễ xảy ra rủi ro,
đề nghị họ có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp lý.
5. Công tác chữa Hoả hoạn
Trước hết cần trang bị các phương tiện thiết bị báo Hoả hoạn để xác
định vùng xảy ra Hoả hoạn nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Thành
lập các đội cứu hoả ở các đơn vị cũng như trang bị các phương tiện dập lửa

Tạ Quang Tuấn F4-K36 24


Chuyên đề tốt nghiệp

thì mới đảm bảo chữa Hoả hoạn có hiệu quả và kịp thời. Các công ty bảo
hiểm qua việc tham quan các cơ sở bảo hiểm yêu cầu họ không những thực
hiện các nội quy PCCC mà còn phải tranh bị các thiết bị chữa Hoả hoạn
cần thiết.
III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm Hoả
hoạn
1. Kết quả khai thác và thực hiện doanh thu
Công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước mỗi năm lại mang đến
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Kinh tế phát triển cộng với cơ chế quản lý theo hướng thị trường đã
làm cho nhu cầu và khả năng tham gia bảo hiểm tăng.
Năm năm qua ( 91-95 ) là những năm khởi đầu cho nghiệp vụ bảo
hiểm Hoả hoạn. Do có sự nỗ lực của ban lãnh đạo Tổng công ty cũng như
các cán bộ trong công tác bảo hiểm Hoả hoạn nên kết quả nghiệp vụ này
ngày càng cao.Hơn một năm đầu triển khai nghiệp vụ ( 89-90 ) các đơn vị
tham gia còn quá ít ỏi. Trong số hàng vạn các xí nghiệp hoạt động trên
phạm vi cả nước thì đơn vị tham gia bảo hiểm Hoả hoạn chỉ dừng lại ở con
số trên dưới 100. Đây là những doanh nghiệp thực sự có nhu cầu và thường
là những công ty thuộc về ngành xăng dầu, do vậy khả năng xảy ra rủi ro là
rất lớn.
Nguyên nhân của tình trạng này là do bước đầu chuyển sang kinh tế
thị trường, nhiều đơn vị còn lúng túng, kinh doanh chưa ổn định nên không
có điều kiện tham gia bảo hiểm. Mặt khác do nước ta tồn tại quá lâu cơ chế
cũ, nên khi chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo các xí nghiệp còn mang nặng
tư tưởng bao cấp, chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn vốn của
mình. Một phần nưã là về phía công ty, do đây là nghiệp vụ mới, cán bộ
làm công tác bảo hiểm Hoả hoạn chưa nhiều, chưa có kinh nghiệm. Hơn
nữa, cán bộ chưa phục vụ tận tình mà để khách hàng phải tự đến gõ cửa
công ty.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 25


Chuyên đề tốt nghiệp

Nắm bắt được tình hình như vậy, Văn phòng Tổng công ty cũng như
các công ty địa phương đã có những nỗ lực lớn để khắc phục tình hình. Do
vậy đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong những năm gần đây :
Nếu như năm 2000, Bảo Việt mới chỉ nhận bảo hiểm cho 1413 đơn
vị thì đến năm 2003, số đơn vị được bảo hiểm đã lên tới 3102 đơn vị -gần
gấp 3 lần. Còn giá trị bảo hiểm cũng tăng nhưng tăng hơn gấp 14 lần. Có
thể nói giá trị bảo hiểm tăng nhanh như vậy một mặt là vì nền kinh tế Việt
Nam trong những năm vừa qua đang trên đà phát triển vượt bậc. Trong thời
gian đầu mở cửa, đã có những Công ty nước ngoài đầu tư nhưng chỉ đầu tư
với mức độ rất dè dặt mục đích của họ là muốn thăm dò thị trường Việt
Nam. Sau một thời gian nghiên cứu, thấy Việt Nam là nơi có cơ hội đầu tư
tốt nên những dự án lớn hơn về quy mô đã được ký kết.
Doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn tăng nhanh, với tốc độ
cao và khá đều. Năm sau doanh thu tăng hơn năm trước. Sở dĩ Bảo Việt
đạt được kết quả như vậy là do những nguyên nhân chủ yếu sau :
- Về khách quan : sự ban hành các quyết định của Bộ tài chính có liên quan
đến vấn đề bảo hiểm đã tạo ra ảnh hưởng lớn đối với việc kinh doanh bảo
hiểm của công ty. Điều đó được thể hiện là số đơn bảo hiểm cấp và doanh
thu trong năm 2003 tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Những năm gần
đây số đơn bảo hiểm và doanh thu tăng không mạnh nguyên nhân chủ yếu
là do nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn của Công ty bị mất hẳn một phần doanh
thu về phía Công ty bảo hiểm Petrolimex và Bảo Minh. Mặc dù bị hao hụt
lớn nhưng nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn những năm gần đây vẫn duy trì
được doanh thu năm sau tăng hơn năm trước. Đó là kết quả nỗ lực không
thể phủ nhận của toàn bộ cán bộ trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn.
Những năm gần đây do chính sách của nhà nước ngày càng thông thoáng
nên các Công ty bảo hiểm nước ngoài đã có thể được kinh doanh trên thị
trường Việt Nam. Điều này tạo nên sự cạnh tranh không nhỏ đối với Bảo
Việt. Nhưng nhờ có uy tín từ trước nên doanh thu bảo hiểm của Bảo Việt

Tạ Quang Tuấn F4-K36 26


Chuyên đề tốt nghiệp

những năm gần đây vẫn tăng cao và nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn cũng
tăng theo.
- Về chủ quan : Tổng công ty đã có những cố gắng đáng kể trong việc đào
tạo, bồi dưỡng và mở rộng đội ngũ cán bộ. Thỉnh thoảng, công ty có mở
lớp hướng dẫn, tập huấn cho cán bộ, cộng tác viên để trau dồi thêm nghiệp
vụ. Ngoài ra, các cán bộ nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn cũng cố gắng tìm
mọi cách để mở rộng địa bàn tiếp thị, triển khai mạng lưới các văn phòng
đại diện quận, huyện ở các địa phương giúp cho việc tiếp cận khách hàng
được tốt hơn đồng thời giữ vững địa bàn hoạt động, không để mất khách
hàng. Tổng công ty đã mở rộng mạng lưới tuyên truyền, quảng cáo thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng như : đài, báo, tạp chí, vô tuyến
truyền hình....
Đi đôi với việc bồi dưỡng cán bộ, Tổng công ty đã từng bước hoàn
thiện hơn trong việc tính phí. Việc áp dụng biếu phí linh hoạt đã đưa ra
được những mức phí cạnh tranh, phù hợp với cơ chế thị trường. Nếu như
trước đây, Baỏ Việt chủ trương áp dụng một tỷ lệ phí trung bình cho tất cả
các ngành sản xuất kinh doanh, các loại tài sản khác nhau là 0,29 %, sau đó
sử dụng hệ số điều chỉnh thì đến tháng 12 năm 1993, Tổng công ty đã đề
nghị Bộ tài chính cho phép áp dụng phí bảo hiểm Hoả hoạn mới xây dựng
trên cơ sở theo những kinh nghiệm của Munich Re và một số nước khác
trong khu vực. Biểu phí này giảm đi 20% so với biểu phí cũ nhưng vẫn
đảm bảo hoạt đông kinh doanh của Bảo Việt và quan trọng hơn nữa là vẫn
được các nhà tái bảo chấp nhận.
Mặt khác, Tổng công ty đã có quan hệ rất tốt với Bộ tài chính, Tổng
cục đầu tư và phát triển, các ngân hàng, cục CSPCCC... Giờ đây, Bảo Việt
cũng luôn luôn được sự ủng hộ của các ngân hàng. Các ngân hàng chỉ cho
các doanh nghiệp vay vốn khi họ đã tham gia bảo hiểm cho tài sản của
mình. Nhiều ngân hàng đã buộc các đơn vị vay tiền phải xuất trình giấy tờ
chứng nhận bảo hiểm thì mới cho vay tiền. Tổng công ty cũng đã theo dõi

Tạ Quang Tuấn F4-K36 27


Chuyên đề tốt nghiệp

chặt chẽ các công trình đầu tư lớn, kịp thời thông báo cho địa phương.
Nhiều trường hợp đã phối hợp với Tổng cục đầu tư và phát triển thông qua
Bộ tài chính đề nghị Nhà nước cấp bổ sung vốn để tham gia bảo hiểm. Bảo
Việt đã phối hợp chặt chẽ với một số ngành có số lượng tài sản lớn như
bưu điện, y tế, công nghiệp để triển khai đồng bộ trong cả nước.
Bên cạnh đó, sự thành lập các công ty môi giới bảo hiểm, các công
ty bảo hiểm nước ngoài cũng có những đóng góp tích cực trong việc đem
lại dịch vụ bảo hiểm cho công ty
Doanh thu tăng còn được thể hiện qua bảng sau :

Tạ Quang Tuấn F4-K36 28


Chuyên đề tốt nghiệp

Bảng : Cơ cấu doanh thu bảo hiểm Hoả hoạn tại Bảo Việt

Năm Đơn vị 1999 2000 2001 2002 2003


Doanh thu BH Hoả tỷ 40,48 102,04 197, 392,76 417,94
hoạn đồng 5
Doanh thu của Bảo tỷ 1559, 3272,3 5073 7040,1 8779,1
Việt đồng 1
Tỷ lệ % 2,59 3,12 3,89 5,58 4,76

Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm Hoả hoạn và kỹ thuật - Tổng công ty bảo
hiểm Việt Nam

Tỷ lệ doanh thu của bảo hiểm Hoả hoạn so với doanh thu toàn công
ty ngày càng tăng.. Năm 2003, tỷ lệ này có giảm đi một ít, nguyên nhân là
do doanh thu của bảo hiểm Hoả hoạn tăng không đáng kể trong khi đó
doanh thu của toàn Tổng công ty tăng (do sự tăng doanh thu của các nghiệp
vụ khác như : bảo hiểm hàng xuất, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thân xe ô
tô...).
Tuy nhiên, đến nay bảo hiểm Hoả hoạn đã là một nghiệp vụ quan
trọng đem lại nguồn doanh thu không nhỏ cho Bảo Việt.
2 Tình hình chi bồi thường
Ta đã biết được vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác bồi
thường trong bảo hiểm. Bồi thường chính xác, nhanh chóng là phương
pháp tốt nhất để tạo ra sự tín nhiệm của khách hàng vào công ty. Quán triệt
quan điểm đó, Bảo Việt đã đề ra những biện pháp về quản lý cũng như việc
tiến hành công tác này sao cho có hiêụ quả nhất.
Về biện pháp quản lý, quỹ chi bồi thường chiếm tỷ lệ phần trăm
đáng kể trong tổng số phí thu được. Hiện nay, biểu phí bảo hiểm Hoả hoạn
gồm các thành phần như sau :
- Chi bồi thường thường xuyên chiếm 65%.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 29


Chuyên đề tốt nghiệp

- Chi dự trữ tổn thất lớn chiếm 10%


- Chi đề phòng và hạn chế tổn thất chiếm 5%
- Chi quản lý và thuế doanh thu chiếm 15%
- Chi hoa hồng, cộng tác viên chiếm 5%.
Như vậy phần trích lập quỹ dự trữ bồi thường ( bao gồm chi bồi
thường thường xuyên và chi dự trữ tổn thất lớn ) chiếm 75% tổng số phí.
Cách hoạch định như vậy là rất cần thiết đối với các nhà bảo hiểm. Nó
không những giúp cho việc nghiên cứu doanh thu bảo hiểm của nghiệp vụ
có đủ khả năng chi trả bồi thường cho người tham gia bảo hiểm hay không,
mà còn nhằm tránh sự phá sản hay thâm hụt lớn cho công ty bảo hiểm.
Điều đó đã giúp cho Bảo Việt có khả năng chi trả cho những vụ tổn thât
lớn. Điển hình ngày 15.7. 93, Bảo Việt đã giải quyết bồi thường nhanh
chóng cho công ty 100% vốn nước ngoài SCANSIA. LTD ( Malaysia ) với
số tiền bồi thường 129000 $. C ũng trong năm 93, nhà máy giày Hiệp Hưng
đã bị ngọn lửa thiêu huỷ, ước tính thiệt hại khoảng 13,5 tỷ đồng, ngay lập
tức Bảo Việt đã tạm ứng 5 tỷ để nhà máy kịp thời ổn định sản xuất đời sống
cho công nhân. Ngoài ra, Bảo Việt còn bồi thường nhiều vụ Hoả hoạn lớn
khác như bồi thường vụ Hoả hoạn chợ Đồng Xuân với số tiền bồi thường
8,2 tỷ đồng, nhà máy may Sông bé với số tiền bồi thường 17,5 tỷ đồng...
Từ năm 2002 - 2003, tình hình giải quyết bồi thường tại Bảo Việt
được thể hiện qua bảng sau:

Tạ Quang Tuấn F4-K36 30


Chuyên đề tốt nghiệp

Bảng : Tình hình bồi thường thực tế của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn

Năm Số tiền bồi thường Quỹ bồi thường Tỷ lệ bồi thường

(triệu đồng) (triệu đồng) thực tế (%) = (1) : (2)

(1) (2)
1991 0 3448,50 -
2000 3424.68 17653,00 19,4
2001 23972,76 41329,05 70,24
2002 71918,28 107877,42 50,14
2003 143849,34 230158,94 60,25

Nguồn số liệu:
Phòng bảo hiểm Hoả hoạn và kỹ thuật - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
Nếu như trong 2 năm ( 90-91 ) không xảy ra vụ tổn thất nào thì trong
các năm sau đã có nhiều vụ Hoả hoạn gây tổn thất lớn. Số tiền bồi thường
ngày càng tăng do những nguyên nhân chủ yếu sau :
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều công ty đã trang bị thêm
nhiều những máy móc hiện đại,với dây chuyền sản xuất lớn, có khả năng
tận dụng những nguyên vật liệu rẻ tiền hơn nhưng cũng dễ gây Hoả hoạn
hơn. Khi Hoả hoạn thường trên một diện rộng vì quy mô sản xuất lớn.
- Các doanh nghiệp mới chỉ đầu tư vốn vào xây dựng, sửa chữa tài sản, lắp
đặt các máy móc mới chứ chưa để ý đến việc mua sắm các thiết bị an toàn,
các biện pháp PCCC.
- Thêm vào đó số doanh nghiệp tham gia bảo hiểm tăng nên số vụ bồi
thường cũng như số tiền bồi thường tăng.
Ngoài ra, theo bảng trên có thể thấy công tác bồi thường của Bảo
Việt được đảm bảo. Tỷ lệ số tiền bồi thường thực tế so với quỹ dự trữ bồi
thường gần bằng 50 % - như vậy đảm bảo cho Bảo Việt có khả năng chi trả
bồi thường cho khách hàng. Tuy vậy trong năm 2001, tỷ lệ này tăng vọt từ
Tạ Quang Tuấn F4-K36 31
Chuyên đề tốt nghiệp

19,4% lên 70,24 % do trong năm 2001 xảy ra nhiều vụ Hoả hoạn liên tiếp
với mức độ tổn thất nghiêm trọng làm số tiền bồi thường năm 2001 tăng
cao hơn hẳn so với các năm. Doanh thu tăng là tốt song số tiền bồi
thường cũng tăng lại là một điều cần phải suy nghĩ. Những năm tới để đảm
bảo đạt hiệu quả kinh doanh, Tổng Công ty cần đẩy mạnh các biện pháp đề
phòng, hạn chế tổn thất không những giảm thiểu số tiền bồi thường mà còn
góp phần ổn định hoạt động kinh doanh.
3 Tái bảo hiểm
Với đặc thù là giá trị tài sản được bảo hiểm trong bảo hiểm Hoả hoạn
rất lớn, hay có nghĩa là hạn mức trách nhiệm của công ty bảo hiểm cao, vai
trò của việc thu xếp tái bảo hiểm là rất quan trọng. Ngoài các hợp đồng tái
bảo hiểm cố định (treaty), hiện nay Bảo Việt cũng thực hiện nhiều hợp
đồng tái bảo hiểm tạm thời (falcutative) để bảo đảm có đầy đủ khả năng tài
chính bồi thường cho tổn thất thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm. Tái
bảo hiểm cũng đóng một vai trò không nhỏ trong việc tạo ra một tâm lý an
tâm hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài vì họ sẽ được đảm bảo tài chính
một cách chắc chắn hơn bởi những công ty tái bảo hiểm thế giới.
Trong phạm vi đề tài này, xin chỉ đề cập một vấn đề rất nhỏ của công
tác tái bảo hiểm trong việc tính doanh thu thực của Bảo Việt. Như ta đã biết
, do trong doanh thu một phần phải tái bảo hiểm đi cho các công ty khác
nên doanh thu của Bảo Việt sẽ bị giảm xuống, doanh thu thực của công ty
chỉ là mức mà Bảo Việt giữ lại. Mặt khác, khi xảy ra những tổn thất, Bảo
Việt chỉ phải chịu trách nhiệm theo tỷ lệ mà họ giữ lại. Vì vậy cách tính lợi
nhuận thực của Bảo Việt theo " Doanh thu - Chi phí " phức tạp hơn ( vì
phải xác định doanh thu và bồi thường trong phạm vi của Bảo Việt ).Thay
thế vào phương pháp phân tích lợi nhuận thực, xin được phân tích chỉ tiêu
doanh thu thực như sau:

Doanh thu thực =Mức phí giữ lại +Hoa hồng tái bảo hiểm
Tạ Quang Tuấn F4-K36 32
Chuyên đề tốt nghiệp

+Thuế

Trong đó : Hoa hồng tái bảo hiểm = 7,5 - 15 % phí tái bảo hiểm .
Thuế = 4 % doanh thu .

Doanh thu thực của Bảo Việt tăng hàng năm cũng tương ứng với sự
tăng doanh thu. Nếu như trong số 4130 đơn bảo hiểm được cấp năm 1998
với số đơn được tái đi là 710 thì đến năm 2003 số dơn bảo hiểm phải tái đi
đã lên tới 2030 đơn trong số 10730 đơn được cấp. Số đơn phải tái bảo hiểm
trong 5 năm tăng hơn 8 lần trong khi tổng số đơn mà Bảo Việt cấp chỉ tăng
4 lần. Sự tăng tốc độ không đều này đã nói lên rằng ngày càng nhiều những
doanh nghiệp mua bảo hiểm với những giá trị rất lớn. Một phần vì họ đã
hiểu được mua bảo hiểm chính là công cụ hữu ích nhất giúp họ bảo toàn
vốn. Phần khác nữa là vì những dự án đầu tư vào Việt Nam không còn là
những khoản tiền nhỏ nữa, nó đã được mở rộng về quy mô và chất lượng.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 33


Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG III
MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN

Trong giai đoạn hiện nay sư tồn tại và phát triển của Bảo Việt nói
chung hay nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn nói riêng là có một sự cố gắng nỗ
lực không ngừng.Việc tìm ra những khiếm khuyết vạch ra đường đi đúng
đắn là những việc cần làm ngay và là nhiệm vụ quan trong số một.
Sau một thời gian tìm hiểu thực tế tại Bảo Việt, qua quá trình thu thập
số liệu cũng như phân tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh, với
mong muốn góp phần nâng cao chất lượng của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả
hoạn xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp kiến nghị sau:
1) Về công tác khai thác
 Công tác tuyên truyền quảng cáo: Có thể nói trong những năm qua
khâu khai thác bảo hiểm vẫn còn yếu. Đẩy mạnh công tác khai thác
nghiên cứu thị trường là rất cần thiết. Mặc dù công tác khai thác bảo
hiểm không phải là kinh doanh thuần tuý nhưng không vì thế mà
không tuyên truyền quảng cáo. Với nhiều nước trên thế giới, bảo
hiểm đã trở thành nhu cầu và trở thành tập quán của đời sống nhưng
với nước ta tất cả mới bắt đầu. Do vậy tuyên truyền quảng cáo là hết
sức quan trọng với mục đích giới thiệu các loại hình bảo hiểm. ý
nghĩa và tác dụng của nó là gây danh tiếng cho Công ty và cạnh
tranh khách hàng.
Từ trước đến nay, Bảo Việt đã quan tâm đến hoạt động này nhưng hiệu
quả chưa cao nhìn chung sự nhận thức về bảo hiểm Hoả hoạn còn thấp. Vì
lẽ đó mà việc tuyên truyền nên phản ánh lại các vụ Hoả hoạn lớn và hậu
quả của nó sau đó đưa ra những con số bồi thường cụ thể để từ đó làm nổi

Tạ Quang Tuấn F4-K36 34


Chuyên đề tốt nghiệp

bật được vai trò và sự cần thiết của bảo hiểm Hoả hoạn. Trong cơ chế thị
trường khách hàng thường rất khó tính, không phải họ chấp nhận tham gia
bảo hiểm ngay tại Bảo Việt, nhất là tâm lý “của ngoại” đang được ưu thích
tại Việt Nam. Vì vậy công tác này đòi hỏi sự kiên trì của cán bộ khai thác
phải hưỡng dẫn tận tình, nêu rõ cho khách hàng thấy rõ sự thuận lợi khi họ
tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt mà ở các Công ty khác không có. Chỉ có
cách thông qua mặt mạnh như vậy, Bảo Việt mới có thể duy trì và củng cố
được các mối quan hệ cũ, xây dựng mối quan hệ cũ tốt đẹp.
Thu hút khách hàng qua thành phần trung gian cũng là điều quan tâm,
Bảo Việt cần đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa đối với các nghành quản lý
chủ quan và nghành liên quan như Tổng cục đầu tư và phát triển, các ngân
hàng thương mại, lực lượng cảnh sát PCCC, các Công ty dịnh vụ tư vấn về
đầu tư, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân lớn...để thông qua những đối
tượng này Bảo Việt giới thiệu sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn với khách
hàng. Ngoài ra cần quan hệ chặt chẽ hơn với các Công ty bảo hiểm địa
phương. Đây là những tiềm năng to lớn mà Bảo Việt cần khai thác.
Hoả hoạn chợ đã trở thành nạn dịch nhưng thực tế bảo hiểm Hoả hoạn
ở chợ chưa được khai thác là bao. Do vậy Bảo Việt cần đi sâu khai thác sức
mua bảo hiểm của các hộ kinh doanh ở chợ, các khu vực triển lãm cũng
như các hộ nhà dân...Ngoài ra cần phải chú ý vào các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Thực tế số lượng những doanh nghiệp này ỏ nước ta là rất lớn nhưng
phần lớn chưa tham gia bảo hiểm. Đây là phần thị trường rất hoang sơ và là
điểm trọng tâm cần khai thác trong giai đoạn tới.
Ngoài ra Bảo Việt nên áp dụng bảo hiểm Hoả hoạn ở những bãi đỗ xe
của nhà nước cũng như của tư nhân thành bảo hiểm bắt buộc.
 Về hoa hồng: Đối vơi các Công ty môi giới những cộng tác viên
hoặc cá nhân đứng ra mua bảo hiểm cũng cần có những chính sách
hoa hồng thoả đáng cho họ. Trong cạch tranh hai doanh nghiệp bảo
hiểm có điều kiện bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm như nhau người
Tạ Quang Tuấn F4-K36 35
Chuyên đề tốt nghiệp

mua bảo hiểm và các môi giới sẽ đến với doanh nghiệp nào có tỷ lệ
hoa hồng cao hơn vì vậy chính sách hoa hồng hết sức linh hoạt và
hấp dẫn, phải căn cứ vào hiệu quả mà quyết định hoa hồng. Đối với
các tổ chức cá nhân có liên quan hỗ trợ cho Bảo Việt dành dịnh vụ
thì phải có những ưu đãi đặc biệt.
 Về phạm vi bảo hiểm: Cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm có sẵn
để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng là một trong những nhiệm
vụ được đề ra. Song không vì thế mà khách hàng yêu cầu gì ta cũng
chấp nhận. Hết sức hạn chế những đối tượng có điểm chuẩn PCCC
loại trung bình, kiên quyết không nhận bảo hiểm theo lối chọn điểm,
tức là người bảo hiểm chỉ mua bảo hiểm cho những phân xưởng,
công đoạn sản xuất có nhiều rủi ro nhất. Ngoài ra có thể bảo hiểm
nhưng phải xem xét thận trọng khi nhận hợp đồng bảo hiểm lũ lụt
đối với những công trình kiên cố, xây dựng bê tông cốt thép...
2)Công tác giám định và giải quyết bồi thường.
 Về công tác giám định: Bảo Việt nên tổ chức những khoá
học nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng phục vụ của các giám
định song bên cạch đó phai duy trì mở rộng các mối quan hệ với các
Công ty giám định, các đội ngũ chuyên gia trong mọi lĩnh vực.
Trong khi làm công tác giám định tạo niềm tin cho khách hàng các
cán bộ phải quán triệt quan điểm” khách quan, vô tư ” phản ánh đúng
và toàn bộ sự việc, diễn biến gây ra rủi ro. Đồng thời phải có sự đúc
kết và tổng hợp thành sổ tay giám định nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn
để các giám định viên dễ dàng tra cứu và đưa ra kết luận chính xác.
 Về công tác bồi thường: Khách hàng chỉ nhận thấy rõ tác
dụng của bảo hiểm nhất là khi họ gặp rủi ro. Trách nhiệm của Bảo
Việt lúc này là phải bồi thường. Khẩu hiệu “ Bồi thường nhanh
chóng chính xác và công bằng “ phải hoàn toàn tuân theo trong mọi
trường hợp vì đây là lĩnh vực tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả
Tạ Quang Tuấn F4-K36 36
Chuyên đề tốt nghiệp

nhất gây uy tín cho Công ty bằng sự việc cụ thể chứ không phải bằng
những lời nói suông. Song song với việc phục vụ tốt khách hàng,
Bảo Việt cần tăng cường bổ sung quỹ dự trữ bồi thường bằng cách
đầu tư vốn nhàn rỗi như: mua công trái nhà nước, mua bất động sản
cho vay có thế chấp.
Trong thực tế thủ tục về công tác bồi thường còn rất rườm rà và phức
tạp và tốn khá nhiều thời gian. Bảo Việt cần phải có tài liệu về hưỡng dẫn
giải quyết bồi thường cho khách hàng như hướng dẫn cụ thể khi yêu cầu
bồi thường, khách hàng cần thiết phải làm ngay những công việc gì, phải
nộp ngay những giấy tờ gì
3) Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Ta đã biết một nguyên nhân làm cho hoạt đông kinh doanh của nghiệp
vụ chưa đạt hiệu quả tối ưu- đó là thực hiện chưa tốt công tác PCCC. Để
làm tốt công tác này, Công ty cần phải kết hợp chặt chẽ hơn nữa phòng
cảnh sát PCCC các cấp chính quyền và ban nghành để kiểm tra tình hình
thực hiện PCCC ở các đơn vị.
Với các xí nghiệp sản xuất, qua việc phối hợp với công an PCCC để có
yêu cầu cụ thể về phương tiện PCCC, lập thêm các phương an chữa Hoả
hoạn cho các cơ sở trọng điểm. Cần cho khách hàng hiểu rằng không phải
tham gia bảo hiểm là dồn hết trách nhiệm cho người bảo hiểm mà bản thân
họ phải có trách nhiệm bố trí và quản lý tài sản tốt, có kế hoạch chữa Hoả
hoạn được cảnh sát PCCC thông qua, thường xuyên tụ bảo đưỡng nhà cửa
trang thiết bị. Số phí bảo hiểm Công ty phải trả sẽ thấp hơn nếu như công
tác PCCC của đơn vị được thực hiện tốt theo đúng yêu cầu.
Ngoài ra phải hưỡng dẫn các địa phương chi tiết về phòng và hạn chế
tổn thất vì hầu hết họ gần như không chi về khoản này. Trong điều kiện
cạnh tranh hiện nay, việc chi đề phòng hạn chế tổn thất lại có tác dụng
khuyến khích, giữ khách hàng rất quan trọng. Vì vậy các địa phương cần
xác định rõ tỷ lệ được phép chi bồi thường và hạn chế tổn thất.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 37


Chuyên đề tốt nghiệp

Công ty cũng cần có một khoản chi hợp lý cho công tác đề phòng hạn
chét tổn thất ở các đơn vị tham gia bảo hiểm , coi như trợ giúp một phần
cho họ trong việc trang bị phượng tiện PCCC, nâng cao chất lượng đề
phòng hạn chế tổn thất. Hầu hết các vụ Hoả hoạn kiện mang nguyên nhân
là do chập điện nên trước khi cấp đơn bảo hiểm phải kiểm tra hệ thống
điện. Có thể phải chi phí để làm lại hệ thống điện này, nhưng chi phí đó
nhỏ hơn rất nhiều so với số tiền bồi thường nếu có tổn thất xảy ra.
4) Công tác tính phí
Hoạt động bảo hiểm Hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh là một hình
thức kinh doanh dịnh vụ, quỹ dùng để chi trả dịnh vụ được hình thành từ
việc đóng góp của người bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Vì vậy, việc
tích phí phải đảm bảo chi trả bồi thường đảm bảo kinh doanh có lãi, đông
thời phải tạo được mức phí có khả năng cạnh trạnh được với các công ty ở
nước ngoài. Sẽ cho hoàn toàn đúng nếu cho rằng biểu phí bảo hiểm hoả
hoạn hiện hành mà Bảo Việt áp dụng là hoàn thiện sự biến đổi của thị
trương hoạt động của đối thủ canh tranh sẽ làm cho giá cả của bảo hiểm
hoả hoạn thay đổi.
Vì vậy khi đưa ra mức phí cần phải thường xuyên xem xét , giám sát
theo dõi tỷ lệ phí của đối thủ cạnh tranh đồng thời phải theo sat biến động
của các ruỉ ro, tỷ lệ lạm phát. Nên tìm cách hạ phí xuống vì đây là cách
cạch tranh có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nó vấp phải giới hạn dưới đó là tối
thiểu phí thu phải đủ trả cho bồi thường. Đặc biệt hạ phí cho các toà nhà
xây dựng, mới xây dựng để cho thuê các văn phòng đại diện, các Công ty
xây dựng bằng vật liệu không Hoả hoạn...ít nhất phải thấp hơn so với các
Công ty bảo hiểm khác. Đôi khi phải chấp nhận hạ phí thấp hơn so với số
liệu thống kê để thu hút đông đảo khách hàng trên cơ sở số đông bù số ít
mà vẫn đảm bảo nghiệp vụ kinh doanh.
Theo như thoả thuận với chuyên gia của EU, trong năm tới đây EU sẽ
giúp Bảo Việt nâng cao cải tiến sản phẩm Hoả hoạn về mẫu đơn, phạm vi

Tạ Quang Tuấn F4-K36 38


Chuyên đề tốt nghiệp

bảo hiểm và mức phí. Tuy nhiên không vì thế mà ỷ lại áp dụng y nguyên
máy móc, mà phải cải cách sửa đổi cho đúng phù hợp với tình hình Việt
Nam. Bảo Việt cần phải nghiên cứu chính sách phí phân biệt với từng loại
khách hàng. Đối với các khách hàng thường xuyên có mối quan hệ lâu dài,
những khách hàng lớn cần được ưu tiên hơn những khách hàng mới và nhỏ.
Hiện nay, tỷ trọng chi phí quản lý bảo hiểm vẫn còn lớn. Để khắc phục
tình trạng này Bảo Việt cần phải nghiên cứu những hình thức đầu tư nguồn
doanh thu vào các hoạt động kinh doanh để tăng lợi nhuận đẻ tử đó có cơ
sở giảm ty trọng chi quản lý. Không chỉ đơn thuần gửi tiền vào ngân hàng,
kinh doanh bất động sản mà Bảo Việt còn góp vốn cùng kinh doanh với các
tổ chức trong và ngoài nước.
Bảo Việt nên đề nghị với bộ tài chính đưa ra một hành lang phí cụ thể.
Điều này không ngừng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh mà còn
tạo điều kiện cho các Công ty bảo hiểm khẳng định mình. Công ty mạnh sẽ
giành được thị trường và khách hàng chấp nhận.
5) Công tác cán bộ
Đào tạo cán bộ giỏi nghiệp vụ là vấn đề Công ty cần quan tâm. Bảo
hiểm hoả hoạn là loại bảo hiểm cần giao dịnh với nhiều Công ty nước
ngoài, nhưng do đây là nghiệp vụ mới cho nên cán bộ giỏi về nghiệp vụ
này còn ít ỏi lại thêm trình độ về tiếng anh, máy tính chưa thành thạo nên
khó có thể giao dịnh với nước ngoài.
Cũng cần thấy rằng cán bộ giỏi nghiệp vụ thì không những thực hiện
công tác một cách nhanh chóng, trôi chảy mà nếu khi khách hàng thắc mắc
yêu cầu gì cán bộ có thể giải đáp một cách rõ ràng, tạo niềm tin cho khách
hàng. Một mặt nữa có một cán bộ giỏi nghiệp vụ có trình độ tiếng anh
thành thạo, Công ty có khẳ năng xâm nhập thị trường nhanh chóng trực tiếp
đỡ tốn kém không phải qua con đường môi giới.
Trên thực tế , trình độ của cán bộ địa phương còn rất kém vì thế Công
ty cần tổ chức thêm những đợt tập huấn, đào tạo hưỡng dấn cán bộ ở địa

Tạ Quang Tuấn F4-K36 39


Chuyên đề tốt nghiệp

phương để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Ngoài ra cần phát hiện và nhin
nhận đúng đắn năng lực, trình độ của từng cán bộ mà có chính sách đãi
ngộ, sự ưu tiên thích đáng.
6) Thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm là biện pháp để
bảo toàn vốn
Tiến trình cải cách đang đặt nền kinh tế Việt Nam phải đương đầu với
một giai đoạn mà trong đó tổng vốn được coi là bàn đạp thúc đẩy hết sức
quan trọng. Bởi lẽ nhìn vào cơ sở hạ tầng còn rệu rã, chúng ta có thể thấy
được nền kinh tế đang cần rất nhiều vốn để cải tạo nâng cấp đường bộ,
đường sắt, sân bay...Và còn biét bao dự án khác.
Huy động vốn , giao vốn, bảo toàn vốn và phát triển vốn là sự cần
thiết trước hết xuất phát từ cơ chế quản lý kinh tế đối với các xí nghiệp
quốc doanh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quốc
doanh hoạt động theo phương thức hoạch toán kinh doanh, đòi hỏi phải bảo
toàn giữ gìn số vốn được nhà nước đầu tư, tự bổ sung và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn vốn được tài trợ. Hiện nay nước ta đang cần rất nhiều vốn,
vì vậy ngoài việc huy động vốn trong nước ta phải huy động thêm vốn
nước ngoài. Điều đó càng làm cho việc bảo toàn và phát triển vốn trở nên
quan trọng.
Giao vốn là việc xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong sở hữu
quản lý và sử dụng vốn. Giao vốn tạo ra sử chủ động cho các doanh nghiệp
đồng thời cũng gắn trách nhiệm của xí nghiệp đối với việc bảo toàn và phát
triển vốn. Việc huy động vốn đã là khó song việc bảo toàn và phát triển
vốn là khó khăn hơn nhiều. Để bảo toàn và phát triển vốn, các chủ doanh
nghiệp lập ra các phương án, kế hoạch kinh doanh sao cho thích hợp.
Ngoài ra việc giao vốn các doanh nghiệp phải tự chủ trong kinh doanh kể
cả tự chiu rủi ro và thiên tai bất ngờ ảnh hưởng không tốt đến khẳ năng bảo
toàn vốn. Trong trường hợp này thì tham gia bảo hiểm là trường hợp hữu
hiệu nhất. Từ khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, chính phủ đã chủ trương phát triển

Tạ Quang Tuấn F4-K36 40


Chuyên đề tốt nghiệp

mạnh mẽ các khâu bảo hiểm nhằm làm dảm nhẹ gách nặng cho ngân sách.
Vì lẽ đó trong bối cảnh mới, cần nhận thức đúng vị trí nghành kinh doanh
bảo hiểm. Nhiều doanh nghiệp hiện nay tham gia bảo hiểm vì họ chỉ nghĩ
đơn giản là họ sẽ được bồi thường khi không may rủi ro xảy ra chứ phần
lớn doanh nghiệp không biết rằng tham gia bảo hiểm là số vốn của họ được
bảo toàn. Do yêu cầu bức bách đặt ra đối với bảo hiểm Hoả hoạn không chỉ
dừng lại ở chỗ khai thác phục vụ khách hàng tốt mà còn phải nêu bật được
vai trò của mình qua việc bảo toàn vốn. Có như vậy , các doanh nghiệp mới
hiểu được đầy đủ căn kẽ về ý nghĩa và bản chất của bảo hiểm.
Điều cuối cùng muốn nói ở đây là bất kể nguồn vốn nào cũng đều là
kết tinh của sức lao động, là tài sản của nguồn vốn cho nên mọi chính sách,
chế độ, mọi quan hệ phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng giá trị của
đồng vốn, giúp người có vốn không những bảo toàn được giá trị của nó mà
làm cho no sinh lời và có quyền hưởng phần lợi nhuận chính đáng đó. Tôn
trọng quan tâm điều đó, Bảo Việt với nghiệp vụ Hoả hoạn sẽ cố gắng hết
sức góp phần của mình vào bảo toàn vốn cho các doanh nghiệp nói riêng và
cho toàn bộ nền kinh tế nói chung.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 41


Chuyên đề tốt nghiệp

KẾT LUẬN

Trong những năm vừa qua, tuy bảo hiểm Hoả hoạn và gián đoạn
kinh doanh là những nghiệp vụ còn khá mới mẻ nhưng Bảo Việt đã thu
được những kết quả đáng kể. Điều đó không chỉ thể hiện ở sự tăng trưởng
của các chỉ tiêu trong hoạt động kinh doanh mà còn khẳng định được do sự
đóng góp của nghiệp vụ đối với nền kinh tế. Thông qua tác dụng làm bảo
toàn vốn, tạo ra một tâm lý an toàn, tin tưởng cho chủ doanh nghiệp cũng
như cho toàn bộ công nhân, hai loại nghiệp vụ này đã làm nổi bật được vai
trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong công cuộc đổi mới
này, bằng lợi thế về tầm quan trọng không thể phủ nhận, bảo hiểm Hoả
hoạn tự tin hơn bao giờ hết, sẵn sàng bước vào giai đoạn mới- giai đoạn
cạnh tranh.
Thực tế đã chứng minh chúng ta cần đến bảo hiểm , thực sự cần đến
sự hỗ trợ đắc lực của bảo hiểm trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Vượt qua mọi khó khăn thử thách, bằng sự vươn lên của chính mình, chúng
ta hy vọng rằng Bảo Việt, cùng với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn sẽ tiếp
tục lớn mạnh và không ngừng đi lên xứng đáng là doanh nghiệp đầu đàn
của ngành bảo hiểm Việt Nam.

Tạ Quang Tuấn F4-K36 42


Chuyên đề tốt nghiệp

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu hướng dẫn bảo hiểm Hoả hoạn năm 2002 - Tổng công ty bảo
hiểm Việt Nam.
2. Hướng dẫn tính phí bảo hiểm Hoả hoạn năm 2002 - Tổng công ty bảo
hiểm Việt Nam.
3. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Trường đại học kinh tê quốc dân.
4. Giáo trình bảo hiểm nhà nước II - Trường đại học tài chính kế toán.
5. Tạp chí bảo hiểm số 2 năm 2003

Tạ Quang Tuấn F4-K36 43

Вам также может понравиться