Вы находитесь на странице: 1из 6

Mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái

Lãi suất và tỷ giá hối đoái là hai trong số những công cụ quan trọng để
Chính phủ điều hành nền kinh tế vĩ mô của một nước. Tuy nhiên giữa chúng
có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Nghiên cứu một số nguyên lý sau:

* Qui luật một giá:


Nếu hai nước sản xuất cùng một loại hàng hóa, giá của hàng hóa này phải
giống nhau trên toàn thế giới, không quan trọng nước nào sản xuất ra nó.

VD: Cùng mặt hàng thép: giả sử thép của Mỹ giá 100$/tấn, của Việt Nam là
1.500.000đ/tấn. Theo qui luật trên, tỷ giá của USD/VND phải là
100/1.500.000 =1/15.000, tức là 1USd đổi được 15.000VND

* Thuyết ngang bằng sức mua (Purchasing Power Parity-PPP)


Tỷ giá giữa 2 đồng tiền sẽ điều chỉnh để thực hiện mức giá của 2 nước.
Thuyết này dựa trên Qui luật một giá cho mức giá chung của một quốc gia.
Như VD trên, giả sử giá bán thép bằng đồng VND tăng giá 10%
( 1.650.000đ/tấn), theo qui luật một giá tỷ giá phải tăng tương ứng là
16.500d/USD, hay đồng USD tăng giá 10% so với VND. Thuyết ngang bằng
sức mua cho thấy nếu mức giá của một quốc gia tăng lên so với nước khác
thì đồng tiền của quốc gia đó sẽ giảm giá- đồng tiền nước kia tăng giá.

* Điều kiện ngang bằng lãi suất ( Interest Parity Condition)


Lãi suất nội địa bằng lãi suất nước ngoài cộng với khoản tăng giá dự tính
của đồng tiền nước ngoài. Lãi suất nội địa bằng lãi suất nước ngoài trừ đi sự
tăng giá dự tính của đồng nội tệ.

Khi lãi suất nội địa cao hơn nước ngoài, đồng tiền nước ngoài sẽ tăng giá
một khoảng bằn chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền( nhằm đảm bảo ngang
giá sức mua). VD: lãi suất trong nước là 15%, lãi suất nước ngoài là 10%,
thì đồng tiền nước ngoài phải tăng giá 5% nhằm bù đắp cho lãi suất nước
ngoài đang thấp hơn.

• Mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá

Xét trường hợp đồng VND và USD. (các yếu tố khác không đổi)
Khi lựa chọn nắm giữ đồng tiền nội tệ và đồng ngoại tệ (cụ thể là USD),
người ta sẽ xem xét mức lãi suất thực tế của 2 đồng tiền này

Khi Lãi suất của VND cao hơn lãi suất của USD (lãi suất thực), người ta sẽ
có xu hướng chuyển từ nắm giữ USD sang nắm giữ VND. Điều này làm cho
nhu cầu VND tăng lên, cầu về USD giảm đi, từ đó giá USD sẽ giảm đi so
với VND, hay tỷ giá giảm tới một mức tỷ giá mới mà cung cầu USD-VND
trở nên cân bằng. Khi đó, lãi suất thực tế của VND và USD tương đương
nhau ( điều kiện ngang bằng lãi suất và không tính tới lạm phát).

Khi có ảnh hưởng của lạm phát, mặc dù lãi suất danh nghĩa tăng, nhưng lãi
suất thực tế giảm, lúc này ngược lai- VND sẽ giảm giá so với USD, dẫn tới
tỷ giá tăng.

Ngược lại, khi đồng USD tăng giá, để tạo cân bằng trên thị trường ngoại hối,
NHTW sẽ chủ động tăng lãi suất đồng nội tệ(VND) thông qua đẩy mạnh
lượng cung ngoại tệ ra nền kinh tế đồng thời hút bớt đồng nội tệ về. Điều
này làm cho cung cầu ngoại hối trở nên cân bằng.
2. Một số giải pháp kiến nghị về chính sách tỷ giá hối đoái hỗ trợ phát
triển kinh tế và doanh nghiệp

- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái

Chính sách nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái hiện nay là đúng hướng, tuy
nhiên mức độ nới lỏng quá ít và lộ trình nới lỏng quá chậm chạp không phù
hợp với mức độ tự do hóa giao dịch tài khoản vốn. Vì vậy, cần nới lỏng biên
độ tỷ giá hối đoái. Với biên độ tương đối rộng vừa giảm sức ép lạm phát,
vừa giảm mức độ cần phải can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, đồng thời tạo
điều kiện cho thị trường tự điều chỉnh theo quan hệ cung cầu ngoại tệ. Ví dụ,
hiện nay thâm hụt thương mại đang rất lớn, vì vậy thị trường sẽ điều chỉnh
tỷ giá hối đoái tăng lên, tỷ giá hối đoái tăng có tác dụng làm giảm thâm hụt
thương mại; nhưng do biên độ hẹp và do can thiệp bán ra của Ngân hàng
Nhà nước, nên hiệu ứng điều chỉnh nói trên của thị trường không thể đạt
được, kết quả là thâm hụt thương mại có thể còn kéo dài.

- Thay thế chế độ tỷ giá gắn với USD bằng chế độ tỷ giá gắn với một rổ tiền
tệ.

Theo đó tỷ giá hối đoái được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường
ngoại hối và xu hướng biến động của các đồng tiền chủ chốt có thể từ 3 đến
5 đồng tiền có tỷ trọng thương mại lớn nhất. Các đồng tiền này sẽ tham gia
vào rổ tiền tệ với trọng số theo quan hệ thương mại và đầu tư vào VN. Các
trọng số và đồng tiền được điều chỉnh tùy theo sự thay đổi của thương mại
và đầu tư và được giữ bí mật. Ví dụ, Singapore đang thực hiện theo cách này
với rổ tiền tệ gồm 3 đồng tiền nhưng họ giữ bí mật đồng tiền nào và trọng số
được tính trong rổ là bao nhiêu.

- Cần phân tích sâu hơn về tỷ giá hối đoái thực hiệu quả gắn với một rổ tiền
tệ xác định

Như đã đề cập ở trên, nhằm xác lập được mức tỷ giá cân bằng trung tâm
(central parity) làm cơ sở để điều hành tỷ giá và biên độ thích hợp trong từng
giai đoạn cụ thể. Mức cân bằng trung tâm là mức mà tỷ giá hối đoái danh
nghĩa cần đạt được để tỷ giá hối đoái thực cân bằng tính theo cùng một năm
gốc.

- Hệ thống lãi suất của Ngân hàng Trung ương – công cụ điều chỉnh tỷ giá
hối đoái
Chú trọng sử dụng hệ thống lãi suất của Ngân hàng Trung ương như là công
cụ điều chỉnh tỷ giá hối đoái ngoài việc mua vào, bán ra qua dự trữ ngoại tệ
của Ngân hàng Nhà nước. Để làm được điều đó lãi suất của Ngân hàng
Trung ương phải phản ánh đầy đủ mức độ tăng giảm của cung tiền nội tệ.
Đến lượt nó mức tăng giảm cung tiền phụ thuộc vào dự báo lạm phát. Ngân
hàng Nhà nước chỉ mua vào và bán ra ngoại tệ trong trường hợp cung cầu
không cân bằng tại mức tỷ giá cân bằng trung tâm.

- Một số chính sách hỗ trợ khác

+ Cần cho phép các ngân hàng thương mại (được phép kinh doanh ngoại tệ)
mua bán ngoại tệ hai chiều một cách bình thường với tất cả các nhu cầu giao
dịch (như đã thí điểm tại EXIMBANK). Trên cơ sở đó, cùng với việc nới
rộng biên độ tỷ giá hối đoái tạo ra thị trường hối đoái thông suốt, liên tục
bao gồm cả thị trường giao ngay, hoán đổi và kỳ hạn. Một thị trường hối
đoái với sự đa dạng của loại hình và công cụ giao dịch sẽ làm tăng khả năng
cân bằng cung cầu, hạn chế đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tạo ra niềm tin đối với
công chúng và nhà đầu tư về khả năng tiếp cận thị trường.

+ Cần để lãi suất hình thành theo nguyên tắc thị trường đảm bảo cấu trúc kỳ
hạn và cấu trúc rủi ro của lãi suất. (Ở Mỹ hiện nay, lãi suất huy động của các
ngân hàng lớn từ 3,25 – 3,75%/năm; trong khi đó các ngân hàng thương mại
nhỏ huy động phổ biến từ 4,25% – 5%/năm. Các ngân hàng nhỏ cho vay ra
với lãi suất cao hơn các ngân hàng thương mại lớn, đối tượng cho vay chủ
yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo phân khúc thị trường). Đây là giải
pháp then chốt nhằm thu hút vốn vào ngân hàng và cho vay hiệu quả với rủi
ro thấp (ngân hàng là một tổ chức tín dụng chuyên nghiệp). Tránh tình trạng
đầu cơ vào vàng và nguyên vật liệu nhập khẩu làm trầm trọng thêm thâm hụt
thương mại. Mặt khác, chỉ trên cơ sở lãi suất thị trường thì tác động của nó
đến tỷ giá hối đoái mới đồng thuận với mục tiêu thắt chặt tiền tệ chống lạm
phát.

+ Giám sát và có biện pháp quản lý hữu hiệu đối với các khoản vay ngắn
hạn từ nước ngoài của các ngân hàng hoặc vay ngắn hạn của ngân hàng có
bảo lãnh từ ngân hàng, các khoản trái phiếu bằng ngoại tệ kể cả của chính
phủ. Các khoản vay ngắn hạn thường tăng lên rất nhanh gắn với tài trợ L/C
nhập khẩu. Đây là yếu tố làm cho cung cầu ngoại tệ biến động mạnh và bất
thường, gây khó khăn lớn cho việc điều hành tỷ giá hối đoái và lãi suất ngoại
tệ – cũng như nội tệ.
+ Trong những năm tới, dự báo luồng vốn đầu tư nước ngoài vào VN vẫn
còn rất lớn. Trong điều kiện chưa thả nổi tỷ giá hối đoái thì việc mua ngoại
tệ vào và trung hòa tiền tệ vẫn phải tiếp tục thực hiện. Vì vậy, tình trạng mua
cao bán thấp vẫn còn là áp lực lớn đối với dòng tiền của Ngân hàng Nhà
nước. Ngoài các biện pháp đang áp dụng như: (1) Duy trì dự trữ bắt buộc ở
mức tương đối cao; (2) phát hành tín phiếu NHTW với lãi suất thị trường;
(3) nới rộng hơn nữa biên độ tỷ giá hối đoái, cần áp dụng thêm các biện
pháp khác. Cụ thể là,

· Ủy thác đầu tư với số lượng lớn ngoại tệ (hàng tỷ USD) cho một số ngân
hàng quốc tế lớn với mức lãi suất thỏa thuận, cao hơn lãi suất tiền gửi thông
thường.

· Một số nước như Trung Quốc, Ả Rập thành lập quỹ kinh doanh chứng
khoán quốc tế (Trung Quốc có quỹ 300 tỷ USD) từ ngoại tệ dự trữ nhằm tạo
ra thu nhập cao hơn so với lãi suất tiền gửi. Tuy nhiên đây là biện pháp phức
tạp đòi hỏi nhân lực có kỹ năng đầu tư quốc tế tốt.

+ Biện pháp quản lý vốn vào. Trước mắt thị trường chứng khoán đang giảm
mạnh, do vậy việc quản lý vốn vào chưa cần thiết. Tuy nhiên, về lâu dài cần
nghiên cứu để áp dụng một số biện pháp quản lý vốn vào trong những
trường hợp cần thiết. Một số biện pháp đã áp dụng ở một số nước như chính
sách tỷ giá hối đoái kép (tỷ giá mua bán ngoại tệ để đầu tư chứng khoán
khác với tỷ giá thương mại); các biện pháp quản lý định lượng như hạn mức
mua ngoại tệ đối với đầu tu chứng khoán; dự trữ bắt buộc đối với tiền đầu tư
chứng khoán; phong tỏa tài sản lưu ký một năm; đánh thuế cân bằng lãi suất
(thuế chênh lệch lãi suất nội địa và quốc tế)… Tuy nhiên, các biện pháp thuế
như thuế giao dịch ngoại tệ kinh doanh chứng khoán; thuế lợi tức kinh
doanh chứng khoán và thuế cân bằng lãi suất tỏ ra có hiệu quả hơn cả. Ở
VN, kinh doanh chứng khoán trên tài khoản mở tại ngân hàng thương mại,
nên việc áp dụng chính sách thuế càng thuận lợi.

- Đối với doanh nghiệp

Tỷ giá hối đoái tăng có lợi cho các nhà xuất khẩu và hạn chế tình trạng nhập
siêu, đồng thời cũng có tác dụng giảm sức ép lạm phát. Tuy nhiên, trong
ngắn hạn sẽ gây ra một số khó khăn cho doanh nghiệp như các quyết định
đầu tư sẽ phải tính đến rủi ro hối đoái, đặc biệt các doanh nghiệp tham gia
xuất nhập khẩu. Vì vậy, để giảm thiểu những rủi ro này các doanh nghiệp
cần phối hợp với ngân hàng thương mại thực hiện các công cụ phái sinh như
hợp đồng forwad, futures, swaps. Cũng cần lưu ý rằng những biến động tỷ
giá hối đoái thường lớn hơn biến động về lãi suất vì vậy việc tiết giảm chi
phí phòng ngừa rủi ro hối đoái trong ngắn hạn là vô cùng quan trọng.

Về dài hạn, các doanh nghiệp cần tập trung vào những tác động kinh tế thực
sự của việc biến đổi tiền tệ và cần thiết xây dựng một chiến lược quản lý rủi
ro hối đoái, cùng với các chiến lược như marketing, sản xuất và quản lý tài
chánh thích hợp để đối phó với những tác động kinh tế của việc biến động tỉ
giá hối đoái. Bởi vì, sự biến động tỉ giá hối đoái kéo theo sự thay đổi giá bán
sản phẩm làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty. Vì vậy, ban
điều hành cần điều chỉnh quá trình sản xuất, kế hoạch marketing -mix để tạo
ra tương quan giá mới để đảm bảo lợi nhuận lâu dài. Các công ty có thể ngăn
ngừa những rủi ro dựa vào thu chi ngoại tệ đã được dự trù trước, nhưng
ngược lại, những rủi ro cạnh tranh, – vấn đề này xuất phát từ sự cạnh tranh
với các công ty dựa vào loại tiền tệ khác- là lâu dài, khó để định lượng và
không thể giải quyết đơn thuần thông qua những kỹ thuật phòng ngừa giản
đơn.

Вам также может понравиться