Вы находитесь на странице: 1из 6

ưu nhược điểm các hình thức huy động

vốn của doanh nghiệp


Các hình thức tài chính và ưu nhược điểm của các hình thức này
SATURDAY, 18. APRIL 2009, 05:21:34
Tín dụng là phương thức huy động vốn quan trọng nhất của nền kinh tế
thị trường. Vì vậy sử dụng có hiệu quả phương thức này sẽ góp phần
giải quyết nhu cầu vốn đang là vấn đề cấp thiết cho sản xuất và đầu tư
phát triển.
Hiện nay, tại Việt Nam xuất hiện nhiều hình thức tín dụng khác nhau.
Tuy nhiên, có 3 hình thức tín dụng chủ yếu là:
- Tín dụng Ngân hàng
- Tín dụng Thương mại
- Thuê tài chính
a. Tín dụng Ngân hàng
o Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng
và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Trong đó ngân hàng vừa đóng
vai trò người đi vay ( nhận tiền gửi của các chủ thể khác trong nền kinh
tế hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi : kỳ phiếu, trái phiếu ngân
hàng để huy động vốn), vừa đóng vai trò người cho vay ( cấp tín dụng
cho các chủ thể khác trong nền kinh tế bằng việc thiếp lập các hợp
đồng tín dụng, khế ước nhận nợ…).
Tín dụng ngân hàng là loại hình tín dụng chủ yếu và phổ biến nhất
trong nền kinh tế thị trường. Từ các đặc điểm của tín dụng ngân hàng
có thể thấy được tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân.
o Các đặc điểm của tín dụng ngân hàng gồm:
- Chủ thế tham gia : một bên là ngân hàng, một bên là các chủ thể
khác trong nền kinh tế như các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân…
- Đối tượng : chủ yếu là tiền tệ, có khi là tài sản.
- Thời hạn : rất linh hoạt bao gồm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Công cụ : cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng,
các hợp đồng tín dụng…
- Tính chất : là hình thức tín dụng mang tính chất gián tiếp, trong đó
ngân hàng là trung gian tín dụng giữa những người tiết kiệm và những
người cần vốn để sản xuất kinh danh hoặc tiêu dùng.
- Mục đích : nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng qua đó
thu được lợi nhuận.
o Ưu, nhược điểm của hình thức này:
- Ưu điểm
+ Về chủ thể: Rất linh hoạt, rộng lớn bao gồm: doanh nghiệp, hộ gia
đình, cá nhân, các tổ chức xã hội,…Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng
vừa là người cho vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi
vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc
phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các nhà doanh
nghiệp, cá nhân.
+ Do là nguồn vốn huy động của xã hội với khối lượng và thời hạn khác
nhau, do đó nó có thể thoả mãn các nhu cầu vốn đa dạng về khối
lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng. Nó không chỉ đáp ứng
nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải các chi phí
sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn cho
đầu tư xây dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín
dụng tiêu dùng cá nhân.
+ Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu cầu
kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì những doanh nghiệp
này chưa có đủ điều kiện để tham gia vào thị trường vốn trực tiếp.
+ Góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và tăng cường
khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
+ Còn được sử dụng như là một công cụ quan trọng để phát triển các
ngành kinh tế chiến lược theo yêu cầu của chính phủ.
+ Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng,
việc thắt chặt hay nới lỏng cung tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua
hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình
nền kinh tế.
- Nhược điểm:
+ Thủ tục cấp vốn cho vay còn chậm, rườm rà. mất nhiều thời gian và
công sức của người đi vay.
+ Thông tin về tài chính của cá nhân, doanh nghiệp, của ngân hàng
không được thông suốt và cập nhật, khối lượng thông tin chưa được
đầy đủ, cho nên chưa đáp ứng được tốt nhu cầu thông tin của các bên
để đánh giá, thẩm định khoản vay và kiểm soát chất lượng tín dụng
còn hạn chế.
+ Việc quản lý không tốt năng lực trả nợ của người vay có thể dẫn tới
tình trạng nợ xấu, nợ khó đòi. Tình hình nợ xấu của các doanh nghiệp
cổ phần có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây (tỷ lệ nợ
xấu năm 2003: 1,77%, năm 2004: 2,13%, năm 2005: 7,72%, tháng 5
năm 2006: 6,51%)
b. Tín dụng thương mại
o Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với
nhau, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Để thanh toán
hoặc đòi tiền lẫn nhau, các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ
như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ hay séc... Những loại giấy tờ
này, nếu còn giá trị, đều có thể chuyển nhượng lại.
Mua bán chịu hàng hoá là hình thức tín dụng, vì:
- Người bán chuyển giao cho người mua để sử dụng vốn tạm thời trong
một thời gian nhất định.
- Đến thời hạn được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho người bán
dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất.
Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là
GIẤY NỢ - một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền
cho người bán và nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua. GIẤY NỢ
trong quan hệ tín dụng thương mại được gọi là kỳ phiếu thương mại
(thương phiếu), với 2 loại: hối phiếu và lệnh phiếu.
Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho người
thiếu nợ trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo
hạn. Người hưởng thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là thứ ba.
Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết trả
một số tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ.
Về hình thức, thương phiếu được chia ra ba loại:
- Thương phiếu vô danh, không ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu ký danh; có ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu định danh, có ghi tên như thương phiếu ký danh nhưng
không chuyển nhượng cho người khác.
o Ưu nhược điểm của tín dụng thương mại:
- Ưu điểm :
+ Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà
doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng
thương mại một mặt đáp ứng nhu cầu vốn của những nhà doanh
nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu
thụ được hàng hoá của mình.
+ Sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh
nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho
hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết, uy
tín nên có lợi thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn
và góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh
nghiệp.
+ Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua
nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu.
- Nhược điểm :
+ Tín dụng thương mại được cấp bằng hàng hoá nên doanh nghiệp cho
vay chỉ có thể cung cấp được cho một số doanh nghiệp nhất ¬¬¬định -
những doanh nghiệp cần đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ sản xuất
hoặc bán ra.
+ Phạm vi hẹp, chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chỉ thực
hiện được giữa các doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau.
+ Tín dụng thương mại do các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh
doanh cung cấp, vì vậy qui mô tín dụng chỉ được giới hạn trong khả
năng vốn hàng hoá mà họ có. Nếu doanh nghiệp vay vốn có nhu cầu
cao hơn thì doanh nghiệp cho vay không thể đáp ứng được.
+ Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp có
thể không phù hợp nhau, do vậy khi thời gian mà doanh nghiệp cho
vay muốn cung cấp không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cần
đi vay thì tín dụng thương mại không thể xảy ra.
+ Là loại tín dụng không có đảm bảo nên rủi ro dễ phát sinh.
c. Thuê tài chính
o Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông
qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các
động sản khác trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê và bên cho thuê. Bên
cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và
các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở
hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh
toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã thoả thuận. Khi kết thúc thời
hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục
thuê. (Điều 1- Nghị định 16)
Trong một giao dịch thuê, về pháp lý, bên cho thuê có quyền sở hữu tài
sản, bên thuê không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng tài sản
trong thời gian thuê.
Có nhiều lý do khiến việc lựa chọn hình thức thuê tài sản ngày càng trở
nên phổ biến, trong đó lý do chủ yếu là lợi ích có thể mang lại từ việc
thuê tài sản. Cụ thể:
+ Đối với bên thuê: khi mua một tài sản, người sử dụng phải đối đầu
với rủi ro do sự lạc hậu của tài sản. Thuê là một cách để giảm hoặc
tránh rủi ro này, bên cho thuê (chủ sở hữu tài sản) sẽ phải gánh chịu
rủi ro về sự lạc hậu của tài sản. Với các hợp đồng thuê tài sản huỷ
ngang, bên thuê có thể thay đổi tài sản một cách dễ dàng hơn so với
việc sở hữu tài sản. Bên thuê cũng được hưởng một khoản lợi từ thuế
so với việc vay để mua hoặc mua trả chậm, vì chi phí thuê (gồm khấu
hao và lãi) được tính toàn bộ vào chi phí trước khi xác định lợi nhuận
chịu thuế, vì vậy chi phí thực tế mà bên thuê chịu là chi phí thuê sau
khi khấu trừ phần giảm thuế. Trong khi đó, nếu đi vay để mua hoặc
mua trả chậm, thuế chỉ được tính giảm trên chi phí lãi, phần nợ gốc
không được khấu trừ thuế. Ngoài ra, khi thuê tài sản, bên thuê sẽ có
được tài sản sử dụng trong điều kiện hạn hẹp về ngân quỹ, không có
tiền để mua tài sản hoặc không có vốn đối ứng cho các hợp đồng vay
để mua tài sản; Hoặc khi công ty có tài sản cố định nhưng thiếu tiền để
mua nguyên vật liệu, thanh toán lương, … thì cũng có thể thực hiện
giao dịch “Bán rồi thuê lại”.
+ Đối với bên cho thuê: trong suốt thời hạn cho thuê, bên cho thuê vẫn
có quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản, do đó bên cho thuê có quyền
lấy lại tài sản nếu xét thấy bên thuê có biểu hiện vi phạm hợp đồng.
Mặt khác, trong trường hợp bên thuê lâm vào tình trạng phá sản thì tài
sản thuê vẫn không bị phát mãi mà vẫn bảo đảm quyền sở hữu hợp
pháp của bên cho thuê đối với tài sản này.
o Ưu nhược điểm của hình thức tín dụng này:
- Ưu điểm :
+ Cho thuê tài chính cho phép bạn sử dụng linh hoạt đồng vốn của
mình vào mục đích khác, nhằm mang lại lợi ích nhiều hơn thay vì phải
đầu tư vốn để mua tài sản cố định, giúp bạn tận dụng được cơ hội kinh
doanh.
+ Sử dụng cho thuê tài chính sẽ không làm ảnh hưởng tới hạn mức tín
dụng của doanh nghiệp khi doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng.
+ Cho thuê tài chính có phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt
phù hợp với chu chuyển vốn của doanh nghiệp.
+ Phí thuê tài chính được hạch toán vào giá thành sản phẩm giúp
doanh nghiệp giảm nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước.
+ Sử dụng tài sản thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp.
+ Cho thuê tài chính giúp bạn có nhiều cơ hội chủ động trong lựa chọn
thiết bị, dễ dàng đổi mới công nghệ, tiếp cận và sử dụng những máy
móc, thiết bị hiện đại nhất.., từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp tận dụng được cơ hội kinh doanh.
- Nhược điểm :
Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn
khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên,
sau 11 năm có mặt, thị trường cho thuê tài chính Việt Nam chỉ có 12
công ty được thành lập dưới các hình thức sở hữu khác nhau.
Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 150
tỉ đồng - rất nhỏ so với vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại
(thường là trên 1.000 tỉ đồng). Và hiện có nhiều doanh nghiệp hoạt
động không hiệu quả.
Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm
đến loại hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì:
+ Doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài
chính còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến
doanh nghiệp còn yếu.
Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1.000 doanh
nghiệp thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp
được hỏi trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng
dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ
này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động
mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng
của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ
dịch vụ cho thuê tài chính mang lại...
+ Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...)
hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu
thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính,
bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn
so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng.
Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất
vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các
chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra.
+ Hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ,
nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ
chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề
phải bàn.
Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong
nước và 5 triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện
nay là không phù hợp. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới
luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các
khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với
tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị
cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính.

Вам также может понравиться