Вы находитесь на странице: 1из 3

XK tăng nhanh trong khi nhập siêu có dấu hiệu giảm.

Trong 5 tháng đầu năm, kim ngạch NK ước đạt 31,2


tỉ USD, tăng 29,8% so với cùng kỳ; nhập siêu 5,38 tỉ USD, bằng 20,8% kim ngạch XK. Dù đây là mức nhập
siêu thấp nhất nhưng cũng không nên chủ quan bởi nội tại nền kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn.

Để kiềm chế nhập siêu, Bộ Công Thương đã phân chia các mặt hàng theo nhóm: cần thiết NK là nhóm
hàng nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ sản xuất và nhóm hàng hạn chế NK là hàng xa xỉ, hàng trong nước
đã sản xuất được. Theo Bộ Công Thương, nếu thực hiện được các biện pháp hạn chế NK các mặt hàng
trong nước sản xuất được thì sẽ góp phần hạn chế NK, kiềm chế được mức nhập siêu.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, việc kiềm chế nhập siêu không hề đơn giản. Theo ông Võ Trí
Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, nhập siêu của nước ta những năm
gần đây gia tăng rất mạnh, chủ yếu là do NK hàng tiêu dùng nhưng lượng nhập này chỉ chiếm tỉ trọng
dưới 10% tổng số NK và không phải là vấn đề căn bản để chỉnh sửa vấn đề thâm hụt thương mại. Vì
thâm hụt thương mại liên quan đến nhiều vấn đề như mô hình phát triển, cơ cấu nền kinh tế, thu hút
đầu tư cả trong và ngoài nước, chính sách tiền tệ, tỉ giá...

Có nhiều lý do để giải thích về nhập siêu của Việt Nam. Thứ nhất, doanh nghiệp chưa biết tận dụng cơ
hội do thiếu thông tin cũng như sự hiểu biết. Thứ hai, chúng ta nhập nhiều hàng trung gian như nhiên
liệu đầu vào để sản xuất trong nước (chiếm tới 60% tổng lượng NK). Nếu nhập 80 đồng, xuất 100 đồng
thì không gây ảnh hưởng đến cán cân thanh toán. Song, trên thực tế có nhiều doanh nghiệp nhập hàng
trung gian nhưng lại đem bán trong nước. Điều này không những thể hiện năng lực cạnh tranh kém mà
còn cho thấy nền công nghiệp phụ trợ của Việt Nam rất yếu.

Thứ ba, quán tính và kỳ vọng sai về sự phát triển mạnh của nền kinh tế cùng yếu tố đầu cơ đã tạo ra cơn
sốt NK một số mặt hàng như ô tô, thép và kim loại quý như vàng.

Chính vì thế, để giảm dần nhập siêu, các doanh nghiệp cũng như Nhà nước cần đẩy mạnh XK sang khu
vực ASEAN. ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) nhận xét:
“Trong 3 năm qua, tăng trưởng XK của chúng ta không đạt được như mong muốn, thậm chí nhập siêu rất
lớn. Mục tiêu chúng ta đặt ra khi gia nhập WTO là mở cửa thị trường, tăng XK, vì vậy nếu đã có thị
trường rồi thì doanh nghiệp cần khẩn trương đầu tư để có hàng hóa, đồng thời tăng cường xúc tiến
thương mại để giới thiệu sản phẩm ra thị trường”.

Với ngành công thương, 2009 là năm thất bại trong hai chỉ tiêu quan trọng: đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm
chế nhập siêu. Kim ngạch xuất khẩu cả năm qua chỉ đạt 56,6 tỉ USD, giảm 9,7% so với năm 2008 (chỉ tiêu
đã điều chỉnh là tăng 3%). Còn tỷ lệ nhập siêu tính trên tổng kim ngạch xuất khẩu là 21,6%, cũng vượt
quá yêu cầu của Chính phủ (dưới 20%). Năm 2010, liệu ngành công thương sẽ làm gì khác để đạt hoặc
vượt được chỉ tiêu xuất khẩu (59,9 tỉ USD, tăng 6% với năm 2009), và tiếp tục kiềm chế tỷ lệ nhập siêu
dưới 20% theo yêu cầu?
Xuất khẩu: Tăng 6% hay gần 10%?

Ở lĩnh vực xuất khẩu, nếu chỉ nhìn sơ qua vào con số, người ta dễ tưởng rằng, bộ Công thương đã xây
dựng một phương án thấp, rất dễ đạt và vượt để lập thành tích. Bởi vì, cuối năm 2009 và đầu năm nay,
đã xuất hiện nhiều yếu tố có thể giúp đẩy mạnh xuất khẩu. Trước tiên là việc nhiều nền kinh tế, cũng là
các thị trường xuất khẩu truyền thống, lớn nhất của Việt Nam như: Mỹ, EU, Nhật Bản… có biểu hiện phục
hồi, kéo theo nhu cầu tiêu thụ tăng, làm tăng giá mua các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào các thị
trường này. Kế đến là sản xuất trong nước phục hồi sẽ giúp đẩy mạnh hàng xuất khẩu hàng hoá. Cuối
cùng là việc cuối năm 2009, Việt Nam ký được thêm một số hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là
với Nhật Bản (đã có hiệu lực)…

Tuy nhiên, nếu xét một số thực tế khác thì chỉ tiêu xuất khẩu tăng 6% ấy cũng không hề dễ đàng đạt
được. Những trở ngại cho xuất khẩu năm 2010 không chỉ là sự phục hồi kinh tế ở nhiều nước còn chậm
chạp, lượng hàng tiêu thụ và giá chưa dễ tăng nhanh và nhất là xu hướng bảo hộ mậu dịch tăng lên ở
nhiều nước… mà còn do những hạn chế nội tại trong năng lực xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2009, sở dĩ
xuất khẩu giảm nhưng mức giảm không sâu chính là vì Việt Nam đã tính cả kim ngạch xuất khẩu vàng.
Nên nhớ là kim ngạch xuất khẩu vàng cả năm 2009 lên tới 2 tỉ USD. Nếu trừ đi yếu tố này (như nhiều
nước không tính) thì kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009 của Việt Nam chỉ còn 54,6 tỉ USD. Cho nên, nếu
năm sau không xuất khẩu vàng được như năm 2009 thì thực chất, yêu cầu tăng trưởng xuất khẩu là 9,9%
so với năm 2009, chứ không phải là 6%.

Nhìn vào từng nhóm hàng chủ lực, có thể thấy việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu là không đơn giản. Với
hai nhóm hàng nông – thuỷ sản và nhiên liệu – khoáng sản, bộ Công thương dự báo là lượng xuất khẩu
sẽ giảm cho nên sẽ phải trông chờ vào yếu tố tăng giá. Việc tăng khối lượng nhóm hàng nông, lâm sản
được cho là sẽ vô cùng khó khăn, thậm chí lượng xuất khẩu có thể giảm, như gạo dự kiến xuất khẩu năm
2010 khoảng 5,5 triệu tấn, giảm 9,9% về lượng, hạt tiêu và sắn các loại giảm khoảng 11%. Trong nhóm
nhiên liệu – khoáng sản: mặt hàng chiếm kim ngạch lớn nhất là dầu thô sẽ giảm lượng xuất khẩu khoảng
3,5 triệu tấn để phục vụ cho nhà máy lọc dầu Dung Quất. Việc giảm 3,5 triệu tấn này sẽ làm kim ngạch
giảm khoảng 1,62 tỉ USD (giá bình quân năm 2009) hoặc 1,9 tỉ USD. Lượng xuất khẩu than đá dự kiến
cũng sẽ giảm 2,5 – 3 triệu tấn, tương đương 130 triệu USD. Ước tính sơ bộ, lượng xuất khẩu của hai
nhóm này giảm cũng làm kim ngạch giảm trên 2,3 tỉ USD.
Nhập siêu: Không dễ giảm bằng biện pháp cũ

Còn về nhập siêu, 21,6% năm 2009 vẫn là một tỷ lệ rất cao mặc dù có giảm so với năm 2008 (giảm
32,1%). Đáng lưu ý là nhập siêu dịch vụ lại bắt đầu tăng lên. Tuy năm 2009, nhập siêu dịch vụ bằng 18,6%
kim ngạch xuất khẩu dịch vụ nhưng lại tăng 17% so với năm 2008. Tại hội nghị bàn về phát triển kinh tế –
xã hội năm 2010 với lãnh đạo các địa phương mới đây, Thủ tướng tiếp tục yêu cầu phải giảm tỷ lệ nhập
siêu năm 2010 xuống còn khoảng 20%, bởi nhập siêu có thể gây mất ổn định kinh tế vĩ mô do nhập siêu
cao sẽ làm mất cân bằng cán cân thanh toán, gây sức ép lên tỷ giá.

Nhưng đây cũng là một nhiệm vụ không dễ dàng. Thứ nhất, do kinh tế thế giới phục hồi, giá cả nhiều loại
nguyên vật liệu, nhiên liệu, máy móc... sẽ tăng mạnh. Việt Nam không dễ gì hạn chế tăng trưởng nhập
khẩu dưới 9%. Ngay trong các tháng cuối năm 2009, giá cả nhiều nhóm hàng nhập về Việt Nam đã tăng
rất nhanh: tính chung ba tháng cuối năm, mức giá nhập khẩu bình quân của các nhóm mặt hàng đã tăng
10% so với giá bình quân nhập về trong chín tháng đầu năm. Thứ hai, do sản xuất trong nước phục hồi,
cộng thêm yếu tố các dự án đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2010 có khả năng giải ngân nhiều hơn (do năm
2009 có thêm 22 tỉ vốn FDI đăng ký), kéo theo nhu cầu nhập khẩu máy móc, nguyên vật liệu tăng...

Để giảm nhập siêu, bộ Công thương vừa qua đã đưa ra các giải pháp: siết chặt nhập khẩu hàng tiêu dùng
bằng cơ chế cấp giấy phép nhập khẩu tự động, đề nghị ngân hàng Nhà nước hạn chế cho vay nhập khẩu
hàng tiêu dùng (ôtô, điện thoại...), đề nghị bộ Tài chính tăng thuế nhập khẩu ôtô... Tuy nhiên, nhiều
chuyên gia thương mại cho rằng, đây là những biện pháp không có hiệu quả cao, có giải pháp còn nặng
tính hành chính (như giấy phép nhập khẩu tự động) nên không dễ gì giúp kiềm chế nhập siêu.

Cho nên, có thể nói, dù mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu năm 2010 chỉ là 6%, dù tỷ lệ nhập siêu được
phép dưới 20% là vẫn còn cao, nhưng đạt được hai mục tiêu này là hoàn toàn không dễ, nếu không có
những giải pháp mới và hiệu quả hơn.(Nguồn: SGTT, 18/1)

Phân tích nội dung TTHCM về đại đoàn kết dân tộc. Ý nghĩa của TT đó với việc xd khối đại đoàn
kếtdtộc của nước ta hiện nay

Вам также может понравиться