Вы находитесь на странице: 1из 13

BAI TIEU LUAN

LICH SU VAN MINH THE GIOI


AI CAP

Theo hiến pháp, bất kỳ một thể chế mới nào đều phải tuân theo luật Hồi giáo (tiếng Ả
rập: ‫)السلم‬. Ai Cập là một nước Hồi giáo với gần 90% dân số theo đạo này, phần lớn
thuộc dòng Sunni một nhánh của Hồi giáo [6]. Người theo Thiên chúa giáo chiếm khoảng
10% dân số, phần lớn là dòng Coptic với 9%, 1% còn lại gồm Công giáo, Hy Lạp Chính
thống, Syri Chính thống, và Armenia Chính Thống, phần lớn sống tại Alexandria và
Cairo.

Hiện vẫn còn một cộng đồng Do Thái nhỏ, với khoảng 300 người Ai Cập.

Có những người Ai Cập tự coi mình là vô thần và theo thuyết bất khả tri, nhưng không
thể biết số lượng của họ vì việc công khai điều này đồng nghĩa với việc bị trừng phạt.
Năm 2000, một nhà văn Ai Cập vô thần công khai, kêu gọi thành lập một hiệp hội những
người vô thần ở Ai Cập, đã bị kết tội lăng mạ Hồi giáo và những nhà tiên tri trong bốn
cuốn sách của ông [7].

Trường phái Hanafi của Hồi giáo Sunni được nhà nước tổ chức rộng rãi thông qua
Wizaret Al-Awkaf (Bộ các vấn đề tôn giáo). Al-Awkaf kiểm soát mọi thánh đường và quản
lý mọi tu sĩ Hồi giáo. Các Imams được đào tạo trong những trường hướng nghiệp Imam
và tại Đại học Al-Azhar. Ủy ban này ủng hộ Hồi giáo Sunni và có nhiệm vụ đưa ra những
lời phán quyết Fatwa về các vấn đề.

Ai Cập có hai thể chế tôn giáo chính. Đại học Al-Azhar (Arabic: ‫ )جامعة الزهر‬là thể chế
Hồi giáo cổ nhất và là viện nghiên cứu cấp cao nhất (đã được thành lập từ khoảng năm
970 sau Công Nguyên). Ai Cập cũng có nhiều di sản Thiên chúa giáo với sự hiện diện
của Nhà thờ Coptic Chính thống do Giáo trưởng Alexandria lãnh đạo, với khoảng gần 50
tín đồ Thiên chúa giáo trên khắp thế giới (Một trong những Nhà thờ Coptic Chính thống
nổi tiếng khác là Nhà thờ Thánh Takla Haimanot tại Alexandria [8]).

Bahá'ís ở Ai Cập với số người theo khoảng vài trăm nghìn, nhưng các thể chế và hoạt
động cộng đồng của họ bị cấm ngặt; họ cũng không được phép có chứng minh thư.
Tháng 4, 2006 một tòa án đã công nhận Đức tin Bahá'í nhưng chính phủ đã quyết định tái
thẩm lại trường hợp đó. Một thành viên nghị viện, Gamal Akl của đảng chính trị đối lập
Anh Em Hồi giáo, đã nói Bahá'ís là những người vô đạo và phải bị giết trên mảnh đất mà
họ đã quyết định thay đổi tôn giáo của mình
A Rap

Ả Rập Saudi không cho phép tự do tôn giáo và cấm tất cả các hình thức tôn giáo không
phải là Hồi giáo. Những người không theo Hồi giáo, cũng như những người Hồi giáo
không gia nhập vào giáo phái Salaficủa Hồi giáo Sunni, có thể đối mặt với sự trừng trị
của nhà nước và Mutawwa'in (cảnh sát tôn giáo) vì bị coi là xúc phạm tới giáo lý quốc
gia. Quyền công dân bị giới hạn riêng cho những người Hồi giáo, và sự thờ phụng trái
Hồi giáo thông thường có thể bị trừng phạt theo luật pháp. Chính phủ có 50 Trung tâm trả
lời điện thoại để khuyến khích người nước ngoài gia nhập đạo Hồi. [3] Cảnh sát tôn giáo
buộc phải tuân theo một quy định tối thiểu về trang phục và nhiều cơ quan từ trường học
tới các bộ thuộc nhà nước có quy định tách biệt giới tính.

AN DO: 4 ton giao


An Do giao

Kể từ thế kỉ 16 các nhà truyền giáo và du phương thường nhắc đến tôn giáo và phong tục
tại Ấn Độ và thường gọi người bản xứ này là "ngoại đạo" (en. pagan, de. Heiden) nếu họ
không tự nhận là theo một trong tôn giáo lớn (Ki-tô giáo, Do Thái giáo hoặc Hồi giáo).
Họ được gọi theo tiếng Latin là gentiles, tiếng Bồ Đào Nha là gentio và từ đó ra tiếng
Anh là gentoo và tiếng Hà Lan/tiếng Đức là Heyden (Heiden). Đến thế kỉ 18 thì từ
"Hindoo" (tiếng Ba Tư Hindu) bắt đầu được dùng và cuối cùng, trong thế kỉ 19, danh từ
"Hinduism" trở nên rất thông dụng. Như vậy thì từ "Hinduism" - được dịch là Ấn Độ giáo
ở đây - không phải là một danh hiệu tự xưng của một tôn giáo Ấn Độ. Nhưng tên này lại
ảnh hưởng đến quan điểm tự nhận của phong trào Tân Ấn Độ giáo (Neo-Hinduism) trong
thế kỉ 19 và thế kỉ 20 vì nó gợi ý một sự thống nhất tôn giáo trong cuộc chiến giành độc
lập Ấn Độ, và được dùng để phản ứng các khuynh hướng phân chia ngày nay.

Tuy vậy, từ Hinduism có thể gây hiểu lầm. Khi người ta bắt đầu dùng nó thì đã dựa trên
hai điều kiện tiên quyết không đúng. Thứ nhất là người ta tin là từ phái sinh từ gốc Ba Tư
Hindoo (Hindu) chỉ tín đồ của một tôn giáo nhất định. Thứ hai là người ta cho tất cả
những người Ấn đều là tín đồ của tôn giáo này nếu họ không theo các tôn giáo lớn còn
lại, ví như Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, Kì-na giáo. Cả hai điều
kiện tiên quyết bên trên đều bị nhìn nhận sai. Danh từ Ba Tư "Hindu" chỉ có nghĩa tương
đương với từ có gốc Hi Lạp là "Indian", và cả hai đều có gốc từ tên con sông lớn Ấn Độ
(tiếng Phạn: sindhu, tiếng Ba Tư: hindu, tiếng Hy Lạp: Indós), đã mang đến đất nước nó
chảy qua tên này: Hindus là những người xuất xứ từ nước Ấn Độ (india). Ngay khi người
Hồi giáo nói tiếng Ba Tư đến xâm chiếm, phân biệt giữa tín đồ Hồi giáo và Hindus thì sự
việc này cũng không có nghĩa là tất cả những người Hindu đều là tín đồ của một tôn giáo.

Ngày nay, người ta biết được hàng loạt tôn giáo của người Ấn Độ và các thông tin nghiên
cứu ngày càng phong phú. Thế nên, từ "Hinduism", "Ấn Độ giáo", không thể mang nghĩa
là một tôn giáo nhất định của người Ấn mà chỉ là cách gọi mang ý nghĩa bao quát, chỉ
một nhóm tôn giáo có sự tương quan với nhau, nhưng khác biệt nhau, xuất phát từ Nam Á
(Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh). Các tôn giáo này dù có quan hệ với nhau nhưng cũng
khác nhau như sự khác biệt giữa Do Thái, Phật, Thiên chúa và Hồi giáo. Chúng có những
khái niệm thượng đế khác nhau, có những pho thánh điển khác nhau cũng như những
phương pháp tu tập, hình thức thực hiện nghi lễ khác nhau. Chúng có những hệ thần học
khác nhau, lập cơ sở trên những nhà thần học, những bậc đạo sư khác nhau, và tôn xưng
các thần thể khác nhau như vị Thần tối cao.

[sửa] Những chi phái Ấn Độ giáo quan trọng nhất


[sửa] Ấn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ

Lưu vực sông Ấn Độ với hai trung tâm Mohenjodaro và Harappa, thuộc Pakistan hiện
nay

Tôn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ (Indus Valley Culture, hưng thịnh khoảng
2300-1750 TCN) chỉ có thể được dựng lại một cách khiếm khuyết từ các công trình khảo
cổ. Nhìn chung thì các cách diễn giảng những di tích này đều nhất trí ở điểm là những
thành phần của nền văn hoá Indus vẫn tiếp tục tồn tại và có phần được hấp thụ bởi những
tôn giáo cổ điển khác của Ấn Độ. Các hình tượng trên những con ấn bằng đá steatite
(talc) ở những nơi như Mohenjodaro, Harappa và những khu định cư khác cho thấy
những vị thần cây, được các nhà nghiên cứu xem là tiền thân của các loài La-sát (zh. 羅
剎, sa. rākṣasa) và La-sát nữ (zh. 羅剎女, sa. rākṣasi) sau này. Một hình Thần thể (zh.
神體, sa. devatā) trong tư thế ngồi của một hành giả Du-già cho thấy là có thể nguồn gốc
của Du-già bắt đầu từ thời văn minh Indus. Người ta cũng tìm thấy một Thần thể ngồi
giữa đám thú, được xem là Thú chủ (zh. 獸主, sa. paśupati), "chúa tể loài cầm thú" và -
có thể là sai - tiền thân của thần Thấp-bà (sa. śiva). Hình tượng được xem là dương vật
dựng đứng (sa. liṅga, en. phallus) của Thấp-bà có lẽ chỉ là một sợi thắt lưng lõng và vì
những thần thể này mang trang vật trên cánh tay nên các nhà khảo cổ chưa xác định được
đây là hình tượng nam hay nữ. Tắm rửa theo nghi lễ giữ một vai trò quan trọng vì có
nhiều dấu tích của những nhà tắm trang trọng được xây rất công phu (có thể được hấp thụ
bởi các nhánh tôn giáo Ấn Độ sau này dưới dạng cái ao ở đền thờ). Tuy nhiên, người ta
không tìm thấy dấu tích của một ngôi đền thờ nào. Việc diễn giảng những vòng đá như
dương vật Thấp-bà và âm hộ (nền của các vòng đá) và các tượng phụ nữ bằng đất nung
như các vị Thiên mẫu vẫn là những phỏng đoán.

[sửa] Ấn giáo Phệ-đà

[sửa] Nguồn gốc và thánh điển

Một trang của Lê-câu-phệ-đà bản tập (sa. ṛgvedasaṃhitā), ấn bản của nhà Ấn Độ học
Max Müller, trình bày hai câu kệ Puruṣasūkta, 10.90, với chú giải của Sāyaṇa

Với tư cách là tôn giáo cổ nhất Ấn Độ với thánh điển còn lưu lại, Ấn giáo Phệ-đà (vedic
religion) giữ một vai trò đặc biệt trong việc nghiên cứu tôn giáo sử của Ấn Độ. Tôn giáo
này có nhiều điểm rất giống tôn giáo Cổ Iran và qua tên của các vị thần, người ta có thể
thấy được mối quan hệ với tôn giáo La Mã, Hy Lạp và Điều Đốn (en. teuton, người Đức
thời xưa). Trong một văn bản hợp đồng của Mitanni (một đế quốc Ấn-Ba Tư miền bắc
khu vực Lưỡng Hà), người ta tìm thấy tên của các vị thần Phệ-đà như Mật-đa-la (密多羅,
sa. mitra), Phạt-lâu-na (zh. 伐樓那, sa. varuṇa), Nhân-đà-la (zh. 因陀羅, sa. indra) và
các Mã Đồng (zh. 馬童, sa. aśvin). Tín đồ Phệ-đà giáo là những bộ tộc bán du mục, du
nhập Ấn Độ từ miền Tây và Tây bắc trong khoảng thời gian 1700-1200 trước CN qua
nhiều đợt. Họ tự gọi là Nhã-lợi-an (zh. 雅利安, sa. ārya, de. arier, en. aryan). Tôn giáo
của họ thuộc hệ đa thần với cơ sở nghi lễ tôn giáo là việc cúng tế thần linh. Người thực
hiện cầu đảo thần linh bằng một bài tán tụng. Đàn tế lễ được lập một cách nghiêm trang
với ba loại lửa, việc tế lễ được thực hiện bởi nhiều tế sư khác nhau cùng với các bài kệ
tụng (sa. ṛc), ca vịnh (sa. sāman), câu tế đảo (sa. yajus), và các chân ngôn (sa. mantra).
Vật tế lễ là Tô-ma (zh. 蘇摩, sa. soma), thú vật, bơ lỏng, ngũ cốc và thực phẩm đã được
nấu chín. Tổ tiên (sa. pitṛ) cũng được cúng tế. Bốn bộ Phệ-đà (Tứ Phệ-đà 四吠陀) là
những tác phẩm tôn giáo và thi ca sớm nhất của gia đình hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Trong bốn
bộ này, Lê-câu-phệ-đà (zh. 棃俱吠陀, sa. ṛgveda) giữ một vai trò đặc biệt, bao gồm mười
mạn-đà-la (sa. maṇḍala) với 1028 bài tán tụng (vì vậy cũng được dịch nghĩa là Tán tụng
minh luận 讚誦明論). Lê-câu-phệ-đà được xem là nguồn văn bản cổ nhất ghi lại các khái
niệm thượng đế và thần thoại của những người Nhã-lợi-an Phệ-đà. Công trình biên tập
Lê-câu-phệ-đà có lẽ được kết thúc vào khoảng 1000 TCN. Bốn bộ Phệ-đà cùng với các
bộ Phạm thư (zh. 梵書, sa. brāhmaṇa, có nội dung chỉ rõ nghi thức tụng niệm, làm lễ),
Sâm lâm thư (zh. 森林書, sa. āraṇyaka, có nội dung phỏng đoán về những vấn đề siêu
hình), cũng như Áo nghĩa thư (zh. 奧義書, sa. upaniṣad) được xem là những văn bản
Thiên khải (zh. 天啓, sa. śruti), tức là được "trời khai mở cho thấy". Chúng đã gây ảnh
hưởng rất lớn đến các nhánh tôn giáo sau này tại Ấn Độ. Người Ấn Độ thời Phệ-đà cầu
mong các thần thánh ban cho nhiều con, sức khoẻ, phồn vinh, thắng kẻ thù, một cuộc
sống trăm năm cũng như sự thứ lỗi cho những lần vi phạm quy luật vũ trụ hoặc "chân lí"
(sa. ṛta), và sau khi chết được lên thiên đường (sa. svarga), trú xứ của Đế Thích (sa.
indra, Nhân-đà-la) và chư thiên khác. Trách nhiệm của những người sùng tín là: 1.
nghiên cứu kinh điển, giữ đúng lễ nghi tế tự, 2. tế tự chư thiên và tổ tiên và 3. nuôi dưỡng
con trai để có thể giữ truyền thống cúng tế lâu dài.

[sửa] "Bà-la-môn giáo" và những bước phát triển mới

Sự phát triển của tôn giáo Phệ-đà theo hướng nhấn mạnh sự thanh tịnh trong khi thực
hiện tế lễ thần thánh đã mang lại một sự chuyên hoá trong giới Bà-la-môn trong thời đoạn
1000-500 TCN. Nó cũng đồng thời loại những người ở cấp dưới, phần lớn là không thuộc
nhóm Nhã-lợi-an, thuộc cấp nô lệ (zh. 奴隸, sa. śūdra, cũng gọi là Thủ-đà-la 首陀羅), ra
khỏi việc thực hành tế lễ cũng như nghiên cứu Phệ-đà. Trong tay của các Bà-la-môn, bộ
môn tế lễ đã trở thành một khoa học xử lí mối tương quan giữa năng lực hữu hiệu trong
quá trình tế lễ và quy luật vũ trụ. Những mối tương quan giữa đại vũ trụ và vi quan vũ
trụ, giữa chân ngôn với năng lực đi kèm và đối tượng được chân ngôn chỉ đến cũng như
giữa hành vi tế lễ và sự việc xảy ra trong tương lai, tất cả đã dẫn đến một quan niệm bao
gồm thế gian và sự tế lễ mà trong đó, người ta không cần thần thánh nữa. Thời đoạn này
của Phệ-đà giáo cũng được gọi là Bà-la-môn giáo. Trong thời gian này, người ta tìm thấy
những gì ban đầu chỉ được nhắc đến sơ qua trong Phạm thư, và không lâu sau đó được
các Áo nghĩa thư trình bày rõ ràng: Khái niệm tái sinh và quy luật nhân quả (nghiệp, sa.
karman). Giáo lí mới này cho rằng, những hành động tốt cũng như xấu trong đời này sẽ
mang kết quả trong đời sau và như thế, nó cũng khiến người ta rút lui dần từ mục đích
nguyên thuỷ của Phệ-đà giáo: Một cuộc sống trên thiên đường giờ đây không còn là sự
việc cứu cánh vì nơi đó vẫn chịu quy luật tái sinh tái tử cũng như nghiệp quả. Như vậy thì
chỗ giải thoát không thể có được nơi chư thiên và cũng không thể đạt được qua việc cúng
tế. Giải thoát chỉ có thể được thực hiện qua trí huệ và mục đích của nhận thức này là
trạng thái bất tử (sa. amṛtatva), cơ sở của tất cả những hiện hữu: brahman (Phạm 梵),
hoàn toàn tương đồng với ātman, cái tiểu ngã. Với khái niệm này, tôn giáo Phệ-đà đã
vượt qua cái bóng của chính nó. Ý nghĩa của sự cúng tế được nghi vấn lại và con đường
được mở rộng cho những phong trào tôn giáo cải cách mới như Phật giáo, Kì-na giáo,
cũng như những nhánh vô thần khác (ví như Số luận phái, xem thêm Triết học Ấn giáo),
hệ Bất nhị nhất nguyên (sa. advaitavedānta) và những tôn giáo thờ Nhất thần. Một vài
phong trào nêu trên phản đối độc quyền thực hiện nghi lễ của Bà-la-môn và phản đối chế
độ chủng tính (sa. varṇa) nói chung.

Tôn giáo Phệ-đà mất vị trí hàng đầu ở Bắc Ấn trong những thế kỉ cuối trước CN, tại Nam
Ấn thế kỉ thứ nhất. Nó vẫn tồn tại, nhưng chỉ trong một phạm vi hạn chế và gây ảnh
hưởng nhất định trong lĩnh vực triết học dưới dạng Di-mạn-sai (zh. 彌曼差學派, sa.
mīmāṃsā). Sau sự phát hiện Phệ-đà của các nhà nghiên cứu châu Âu và được kích động
bởi tâm tư hào hứng truy nguyên của họ, người Ấn Độ cũng đã quay về với giáo lí Phệ-đà
với những dấu hiệu rõ rệt trong trào lưu Tân Ấn Độ giáo cải cách sau này.

[sửa] Ấn giáo Tì-thấp-nô

Hắc Thần (sa. kṛṣṇa), hiện thân của Tì-thấp-nô (sa. viṣṇu), và người yêu là Radhā

Tì-thấp-nô giáo (viṣṇuism, vaiṣṇavism) là một tôn giáo nhất thần với cơ sở xuất phát từ
sự đồng hoá vị thần Tì-thấp-nô (sa. viṣṇu) trong tôn giáo Phệ-đà và vị thần siêu việt Na-
la-diên-na (zh. 那羅延那, sa. nārāyaṇa), cũng như từ sự hoà nhập của một số lễ nghi phổ
biến, đặc biệt là việc tôn xưng Hắc Thần (sa. kṛṣṇa) ở Bắc Ấn Độ giữa thế kỉ thứ 6 và
thứ 2 TCN. Tì-thấp-nô Na-la-diên-na (sa. viṣṇu-nārāyaṇa) được tôn xưng là Bạc-già-
phạm (sa. 薄伽梵, sa. bhagavat) - nghĩa là Thế Tôn - và các tín đồ được gọi là Bạc-già-
phạm đồ (sa. bhāgavata). Nên lưu ý là cách gọi Tì-thấp-nô giáo hoặc Tín đồ Tì-thấp-nô
(sa. vaiṣṇava) chỉ mới xuất hiện ở thế kỉ thứ 5. Trong hình tượng Hắc Thần, người ta
thấy được sự hoà hợp của nhiều trào lưu tế lễ thành một đơn vị. Cùng với Ba-la-la-ma
(sa. balarāma = saṃkarṣaṇa) - một Thần thể có những nét âm phủ cũng như tương quan
đến phong tục tôn thờ rắn rồng và được xem là người anh - Hắc Thần được tôn thờ như
một cặp thần và được xây đền thờ. Hắc Thần cũng được thờ trong nhóm Ngũ Anh Hùng
(sa. pañcavīra) gồm chính Hắc Thần, em là Ba-la-la-ma, hai con trai là Tam-ba (sa.
sāmba), Đại Hùng Kiệt (sa. pradyumna) và cháu là A-nậu-lâu-đà (sa. aniruddha) trong bộ
tộc Vrishni (sa. vṛṣṇi). Sau việc loại Tam-ba ra khỏi nhóm này thì những đại biểu của
một trong hai nhóm quan trọng còn lại - các vị thuộc nhóm Ngũ Dạ (sa. pañcarātrin) -
trong bốn thiên nhân còn lại những bước phân tán (sa. vyūha) đầu tiên của thần thể tối
cao. Nội bộ những đại biểu của nhóm thứ hai, các tín đồ Bạc-già-phạm, thì Hắc Thần Bà-
tu-đề-bà (sa. kṛṣṇavāsudeva = con của Vasudeva) được xem là hiện thân toàn vẹn (sa.
pūrṇāvatāra) của thần Tì-thấp-nô Na-la-diên-na (sa. viṣṇu-nārāyaṇa), được tôn xưng là
vị thần tối cao. Vào khoảng thế kỉ thứ 6, 7, Tì-thấp-nô giáo lại đạt được một vị trí quan
trọng vì đã hấp thụ phần lớn của một trào lưu thờ tự thần mặt trời. Hai trường sử thi Ấn
Độ, Rāmāyaṇa, miêu tả cuộc đời của vị anh hùng Rāma, hiện thân của thần Tì-thấp-nô,
và Mahābhārata, bao gồm toàn bộ Chí Tôn ca, đã giúp phổ biến Tì-thấp-nô giáo đến
những nước Đông Nam Á.

Hai nhóm quan trọng nhất của Tì-thấp-nô giáo là Ngũ Dạ (sa. pañcarātrin) và Bạc-già-
phạm (sa. bhāgavata). Nhóm Bạc-già-phạm tuân thủ giáo lí của Bà-la-môn giáo trước
đây trong khi nhóm Ngũ Dạ được xem là phi chính thống. Từ thời vương triều Cấp-đa
(tk. 5) thì ranh giới giữa hai nhóm này đã mờ dần. Những nhóm quan trọng xuất hiện sau
và tồn tại đến ngày nay là nhóm Śrīsaṃpradāya, có nguồn từ giáo lí Chế hạn bất nhị (sa.
viśiṣṭādvaita) của La-ma-nã-già (sa. rāmānuja, 1055-1137) và được phân thành nhiều
nhánh nhỏ khác nhau; nhóm Brahmasaṃpradāya với học thuyết Nhị nguyên (sa.
dvaitavāda) của Madhva (~1238-1317); nhóm Rudrasaṃpradāya theo giáo lí Bất nhị
nhất nguyên thuần tuý (sa. śuddhādvaita) của Viṣṇusvāmin với hai nhánh được lập bởi
Vallabha và Caitanya; và nhóm Sanakādisaṃpradāya, được Nimbārka sáng lập, theo giáo
lí Nhị nguyên kiêm bất nhị (sa. dvaitādvaita). Ngày nay, Tì-thấp-nô giáo được xem là
một trong hai trào lưu tôn giáo Ấn Độ quan trọng nhất song song với Thấp-bà giáo.

[sửa] Ấn giáo Thấp-bà

Thấp-bà dưới dạng Du-già sư (yogin) đang toạ thiền, Bangalore


Thấp-bà giáo (śivaism) là một tôn giáo phần lớn theo thể hệ nhất thần, nhưng một vài
nhánh thiên về mối quan hệ nhị nguyên Thấp-bà (śiva)-Tính lực (śakti) hoặc thừa nhận
tính đa nguyên với nhiều linh hồn vĩnh cữu. Tôn giáo này cũng xuất phát từ mối quan hệ
với một vị thần đã được nhắc đến trong thánh điển Phệ-đà là Lỗ-đặc-la (zh. 嚕特羅, sa.
rudra). Lỗ-đặc-la được miêu tả là hung bạo, nguy hiểm. Ông cai quản lĩnh vực bệnh tật
và chữa trị; mũi tên của ông là những điều âu lo của các vị thần khác và những cơn bão
tố, hiện thân của thần gió (Phong thần 風神, marut, rudra), được xem là những hiện
tượng tuỳ tòng ông. Thấp-bà (śiva), dịch ý là "cát tường", "thiện", là một uyển ngữ được
dùng để hoãn hoà vị thần hung tợn này. Ông được gọi là Tự tại chủ (zh. 自在主, sa.
īśvara), Đại tự tại chủ (zh. 大自在主, sa. maheśvara).

Theo giáo lí cao nhất thì Thấp-bà dưới dạng tối cao không mang bất cứ một thuộc tính
nào (nirguṇa) và đồng nhất với Phạm thiên (sa. brahman) của hệ thống Phệ-đàn-đa (sa.
vedānta). Về khía cạnh nhân cách thì Thấp-bà có thuộc tính (saguṇa), bao hàm hai
nguyên lí nam cũng như nữ. Nguyên lí nữ được thể hiện qua tính lực (śakti), tức là nhân
tố chủ động trong nhận thức, ý muốn, hành động, tự che đậy và ban ân của Thượng đế.
Trong thần thoại, nguyên lí nữ được xem là vợ của thần Thấp-bà, dạng hiền hậu tịch tĩnh
là Tuyết sơn thần nữ (zh. 雪山神女, sa. pārvatī), dạng phẫn nộ hoặc tàn phá là Đỗ-nhĩ-ca
(zh. 杜爾嘉, sa. durgā).

Chính thần Thấp-bà lại xuất hiện trong thần thoại như một Du-già sư hoặc một vị thần
hàng phục yêu quái, tàn phá thế giới. Hai hình tượng có liên hệ đến con đường giải thoát
của tín đồ Thấp-bà giáo. Con đường xuất phát từ việc tôn xưng thần Thấp-bà, qua thiền
quán cho đến sự giải thoát khỏi những trói buộc (sa. pāśa) của của tâm linh cá biệt (sa.
paśu) mang hình tướng trong thế gian. Sau đó, tâm linh này đạt tâm thức tối thượng của
đấng tối cao (sa. pati). Các trói buộc phát sinh từ sự vướng mắc vào vật chất và qua đó,
năng lực tri thức và hoạt động vô biên của tâm thức tối thượng bị những nhân tố như sau
hạn chế tối đa: Thời gian (kāla), không gian và quy luật nhân quả (niyati), giới hạn của
cảm nhận (rāga), giới hạn của tri thức (vidyā) và khả năng hành động (kalā). Qua sự vây
phủ làm u tối tâm thức (tirobhāva) nên dị biệt và đa dạng của các hiện tượng xuất hiện,
thay thế cái đơn nhất trong tâm thức tối cao của tất cả những hiện hữu. Diệt trừ cái thiên
hình vạn trạng này - và như thế cũng có nghĩa là diệt trừ thế gian qua ân sủng của thần
Thấp-bà - được thực hiện bằng sự bộc phát của tri thức giải thoát, phá huỷ tấm màn vô
minh, giải phóng linh hồn của tín đồ ra khỏi vòng sinh tử.

108 Liṅga được khắc trên đá, bờ sông Tungabhadra, Hampi, Ấn Độ


Đồ tượng quan trọng nhất của tín đồ Thấp-bà là Liṅga, được xem là biểu tượng của
dương vật. Thánh điển bao gồm các bộ A-hàm (āgama) và Đát-đặc-la (tantra). Với thời
gian, Thấp-bà giáo hấp thụ một loạt truyền thống sùng bái độc lập khác, trong đó có
truyền thống thờ cúng vị thần chiến tranh Skanda (cũng được gọi là Kārttikeya hay
Kumāra) và Gaṇeśa (cả hai đều được xem là con của Thấp-bà), sự sùng bái rắn rồng, một
phần của truyền thống tôn thờ mặt trời và nhiều thần thể và nghi thức thờ phụng của các
địa phương khác.

Có nhiều trường phái khác nhau trong Thấp-bà giáo. Trường phái Tôn thờ Thú chủ
(pāśupata) giữ một vị trí quan trọng trong thời gian đầu với phong cách tu tập khổ hạnh,
tự tách li ra khỏi xã hội một cách khiêu kích. Từ phái này lại phát triển một số nhánh nhỏ
với những quan điểm rất cực đoan, ví dụ như nhánh Kāpālika. Ngược lại, trường phái
Tôn thờ Thấp-bà (śaiva) lại theo các phong tục Bà-la-môn giáo rất sớm. Cả hai trường
phái đều chú trọng việc luyện tập Du-già và đã góp phần rất nhiều trong việc phát triển
phương pháp này. Khống chế du-già (haṭhayoga) hoặc Kuṇḍalinī du-già được nhánh
Nātha (nāthasampradāya) tại Đông Bắc Ấn Độ phát triển. Tại Nam Ấn, trào lưu Tín
ngưỡng (bhakti) đã dẫn chấn hưng Thấp-bà giáo. Song song với những bộ A-hàm
(āgama) và sự tiếp xúc tư tưởng Phệ-đàn-đa (vedānta), những bài tụng niệm sùng tín của
nhóm Nāyanār cũng được xem là nguồn gốc của trường phái Thấp-bà tất-đàn-đa
(śaivasiddhānta), tự cho là sự hoàn tất tối hậu của Thấp-bà giáo.

Trong thế kỉ 12, một trường phái khác là Vīraśaiva (hoặc Liṅgāyat) xuất hiện, hàm chứa
một thành tố cải cách xã hội khá lớn. Dưới ảnh hưởng của học thuyết Bất nhị phệ-đàn-đa
(advaita-vedānta), trường phái Thấp-bà Kashmir được thành lập trong thế kỉ thứ 8, nhấn
mạnh vào sự hoà hợp tín ngưỡng (bhakti) và Đát-đặc-la thành một giáo lí nhất nguyên.
Thấp-bà giáo vẫn gây ảnh hưởng lớn đến xã hội Ấn Độ và song song với Tì-thấp-nô giáo,
nó vẫn là nhánh tôn giáo lớn và quan trọng nhất của tín đồ Ấn Độ giáo.

[sửa] Ấn giáo Tính lực

Giữ vị trí trung tâm sùng bái của Tính lực giáo (śāktism) là Thiên nữ Tính lực (devī hoặc
śakti). Chỉ Thiên nữ này nhận thức và hành động, tạo tác, gìn giữ và tiêu huỷ thế giới,
làm toại nguyện, ban ân, giải thoát. Thiên nữ Tính lực (śakti) là sự tổng hợp của tất cả
những năng lực, nghĩa là năng lực của tất cả các vị thần, đặc biệt là thần Thấp-bà và Tì-
thấp-nô. Về mặt lịch sử thì Tính lực giáo xuất phát từ những trào lưu tôn giáo bộ tộc. Có
thuyết cho rằng, Tính lực giáo có thể bắt nguồn từ việc tôn thờ Thiên nữ thời Văn minh
lưu vực sông Ấn Độ nhưng thuyết này vẫn chưa được chứng minh một cách thuyết phục.
Từ những thế kỉ đầu CN, Tính lực giáo được hoà nhập vào Thấp-bà giáo, và khoảng từ
thế kỉ thứ sáu lại đạt vị trí quan trọng qua sự hỗ trợ của truyền thống Bà-la-môn, sau lại
được chủng tính Sát-đế-lợi (kṣatriya, chủng tính vua chúa và quân đội) tôn sùng vì được
xem là nữ thần chiến tranh. Nhưng chỉ từ thế kỉ thứ 10, Thiên nữ Tính lực mới vượt hẳn
các vị thần nam tính khác, đặc biệt là Thấp-bà, và kể từ đây, mối quan hệ nam nữ được
đảo ngược: Không có Thiên nữ Tính lực thì các vị thần khác không còn khả năng nhận
thức và hoạt động. Với thời gian, Tính lực giáo đã hấp thụ nhiều truyền thống tôn sùng
các nữ thần địa phương, hoà nhập họ vào truyền thống thờ phụng Thiên nữ Đỗ-nhĩ-ca
hoặc Ka-li (durgā/kālī) và qua đó, đã góp phần rất lớn trong việc Ấn giáo hoá các trào lưu
tín ngưỡng bộ tộc. Hiện nay, Tính lực giáo vẫn còn giữ một vị trí quan trọng trong đời
sống tôn giáo tại Ấn Độ. Song song với các bộ Đát-đặc-la (tantra) có cùng với Thấp-bà
giáo, Tính lực giáo còn có những bộ thánh điển riêng, xuất hiện kể từ thế kỉ thứ 10. Việc
sùng bái Thiên nữ Tính lực bao gồm việc cúng tế súc vật (cá, gà trống, dê, bò), thậm chí
cả người cho đến thời đế quốc Anh. Công phu tu luyện bao gồm các nghi lễ Đát-đặc-la
với chân ngôn (mantra) và những biểu tượng bí mật, thỉnh thoảng bao gồm sự giao hợp
theo nghi thức Mật giáo.

[sửa] Ấn giáo Bất nhị Phệ-đàn-đa nhất nguyên

Giáo lí Bất nhị Phệ-đàn-đa nhất nguyên (monistic advaitavedānta) cũng tự phát triển
thành một giáo phái riêng biệt. Đại biểu xuất sắc nhất của tông phái này là Thương-yết-la
(śaṅkara), theo truyền thuyết thì sống vào khoảng 788-820 (theo các nhà nghiên cứu hiện
đại thì phải trước đó khoảng 100 năm). Ba điểm khởi phát (prasthānatrayī) của Thương-
yết-la là Áo nghĩa thư (sa. upaniṣad), Chí Tôn ca (bhagavadgītā) và các bộ Phạm kinh
(brahmasūtra). Trên cơ sở này, Thương-yết-la đã kiến lập một thế giới quan và một giáo
lí giải thoát đi xa những quan điểm của Phệ-đà giáo trước đây: Thế giới, cùng với các vị
thần, là sản phẩm của huyễn ảnh (māyā), là huyễn tượng. Chỉ Phạm thiên (brahman) mới
sở hữu hiện thực tối cao và Phạm thiên lại đồng nhất với tiểu ngã (ātman). Từ việc hoá
đồng Phạm thiên và tiểu ngã, Thương-yết-la kết luận là không có những linh hồn cá biệt.
Tất cả những đa dạng đều là hư huyễn, chỉ có giá trị tạm thời, chỉ là những hiện thực
tương đối. Sự đa dạng biến mất khi trí huệ cứu cánh dẫn dắt tâm thức cá nhân hoà nhập
với Phạm thiên và như vậy có nghĩa là dẫn đến giải thoát. Bất nhị Phệ-đàn-đa đã gây ảnh
hưởng lớn đến Thấp-bà giáo, đã đóng dấu ấn của nó trong Thấp-bà giáo nhánh Kashmir.
Bất nhị Phệ-đàn-đa được Tì-thấp-nô giáo cải biến rất nhiều, ví dụ như trong giáo lí Chế
hạn bất nhị (sa. viśiṣṭādvaita) của La-ma-nã-già (sa. rāmānuja). Nhưng điểm nổi bật của
giáo lí Bất nhị Phệ-đàn-đa này là việc nó ảnh hưởng rất lớn đến trào lưu Tân Ấn Độ giáo
sau này.

[sửa] Tân Ấn Độ giáo

Tân Ấn Độ giáo (neo-hinduism) khởi đầu như một phong trào cải cách, đã góp phần rất
lớn trong phong trào đấu tranh giành độc lập tự do của Ấn Độ trong thế kỉ 19, 20 và đặc
biệt được phổ biến trong giới thượng lưu thành thị. Tuy nhiên, Tân Ấn giáo sớm đã cho
thấy khuynh hướng tập hợp rất mạnh, tìm cách dung hợp các truyền thống tôn giáo Ấn
Độ và tiếp nối chúng với những khái niệm và lí tưởng có nguồn từ Thiên chúa giáo và
Hồi giáo. Phong trào này thể hiện dưới nhiều dạng - địa phương cũng như toàn quốc - và
những nhánh quan trọng đáng kể nhất là:

• Brāhma Samāj ("Phạm hội"), được thành lập bởi Rām Mohan Roy (1772-1833)
năm 1828, sau lại mang đậm dấu ấn của hai nhà lĩnh đạo Devendranāth Tagore
(1817-1905, bố của Rabindranath Tagore) và Keshab Chandra Sen (1838–1884).
Brāhma Samāj bác bỏ chế độ chủng tính Ấn Độ cũng như những tín ngưỡng cực
đoan của truyền thống Ấn Độ giáo như việc hoả thiêu goá phụ (satī), phản đối
việc tôn thờ thánh tượng. Nhìn chung, quan điểm luân lí và thực hành của Brāhma
Samāj chịu ảnh hưởng Thiên Chúa giáo rất mạnh.
Svāmī Vivekānanda (1863-1902), người sáng lập hiệp hội Rāmakṛṣṇa. Ông là tín đồ Ấn
Độ giáo đầu tiên đứng phát biểu tại Hội nghị tôn giáo thế giới (World Parliament of
Religions) năm 1893 tại Chicago, Illinois.

• Ārya Samāj ("Thánh hội"), được Dayānanda Sarasvati thành lập vào năm 1875.
Nhóm này độc duy dựa vào nền tảng của thánh điển Phệ-đà (veda), nhưng lại
dùng nó một cách rất tuyển trích. Chủ trương không tôn thờ thánh tượng tuy bị
ảnh hưởng với Thiên Chúa giáo, nhưng lại được giải thích theo Phệ-đà. Nhìn
chung, Ārya Samāj tìm cách đối đầu các nhà truyền giáo Thiên Chúa bằng một
truyền thống tôn giáo tương đương, đặc thù Ấn Độ.
• Rāmakṛṣṇa ("La-ma Hắc Thần"), được thành lập năm 1897 bởi Svāmī
Vivekānanda (1863-1902) để tưởng niệm đến tôn sư là Rāmakṛṣṇa Paramahaṃsa
(1836-1886). Trên cơ sở Bất nhị Phệ-đàn-đa (advaitavedānta), tất cả các tôn giáo
đều được xem là những con đường dẫn đến mục đích tối hậu mặc dù chúng được
xem là thấp vì còn vướng mắc vào những hiện thực cấp bên dưới. Từ Thiên Chúa
giáo, hiệp hội Rāmakṛṣṇa hấp thụ thành phần tham gia công tác xã hội, nhưng lại
giải thích bằng những truyền thống Ấn Độ như chúng được ghi lại trong Chí Tôn
ca (bhagavadgītā) và giáo lí nghiệp quả (karman).

Các nhánh truyền đạo Ấn Độ được dẫn đầu bởi các "Gurus" gốc Ấn tại phương Tây có
thể được liệt kê vào Tân Ấn Độ giáo. Tại Ấn Độ, Tân Ấn Độ giáo chính nó lại có khuynh
hướng dễ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa duy vật (materialism) và chủ nghĩa bất khả tri
(agnosticism) của phương Tây hơn là hai tôn giáo có truyền thống lâu dài là Thấp-bà giáo
và Tì-thấp-nô giáo.

[sửa] Các tôn giáo khác

Tích-khắc giáo (en. sikhism), Kì-na giáo (sa. jaina, en. jainism, jinism) và Phật giáo được
pháp luật Ấn Độ quy vào Ấn Độ giáo, nhưng được giới học thuật phương Tây xem là
những tôn giáo độc lập.
[sửa] Cơ sở chung của các nhánh Ấn Độ giáo
Vì xuất phát từ những truyền thống tương quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng liên tục lẫn
nhau và phát triển lâu dài trong một môi trường, dưới những điều kiện chính trị, xã hội và
kinh tế gần như giống nhau nên tất cả những nhánh tôn giáo Ấn Độ đều mang những
điểm tương đồng rất rõ.

[sửa] Luân hồi

Thuộc về những điểm căn bản chung là quan điểm luân hồi, là thừa nhận hiện tượng
thành, trụ, hoại và diệt của thế giới hiện tượng theo chu kì. Cùng với nó, người ta thấy
một sự đánh giá rất cao của cội nguồn, được xem là thanh tịnh và toàn hảo. Từ đó lại phát
xuất một cách đánh giá đạo đức ngược dòng: Thế giới không tiến bộ theo thời gian mà
chỉ suy đồi cho đến lúc một vị thần xác định một khởi điểm mới. Trong giai đoạn ở giữa,
luân lí suy đồi, trí huệ hạ giảm. Loài người hiện đang sống trong thời mạt thế (sa.
kaliyuga), thời kì cuối của bốn thời kì của kiếp này (sa. kalpa). Quan điểm này lại khởi
phát một sự tôn kính truyền thống. Kiến thức truyền thống được tôn kính và gìn giữ vì
tuổi tác mặc dù thực tế nó đã được thay thế bằng những kiến thức mới. Qua đó người ta
có thể hiểu được vì sao tất cả tín đồ Ấn Độ giáo tôn kính các bộ Phệ-đà (veda) mặc dù
thực tế họ gần như không biết chúng và cũng chẳng cần chúng trong giáo lí hoặc quá
trình tu tập của họ.

Đi cùng với thuyết luân hồi là thuyết tái sinh (sa. punarjanman) và thuyết nhân quả (sa.
karman). Tất cả những truyền thống tôn giáo cao cấp xuất phát từ tiểu lục địa Ấn Độ - kể
cả Phật giáo và Kì-na giáo - đều thừa nhận thuyết này mặc dù có một vài điểm trong đó
được biến đổi. Thuyết này đòi hỏi học thức nên chỉ ảnh hưởng đến những giai cấp trung
lưu và thượng lưu: Trong giai cấp thấp hoặc ở những bộ tộc - như vậy là phần lớn của
dân số Ấn Độ - thì thuyết này chỉ có ít, hoặc không có ảnh hưởng gì.

HI LAP

Chính thống giáo Hy Lạp được hiến pháp công nhận là tôn giáo chính thức tại Hy Lạp,
song thực tế người dân hoàn toàn có quyền tự do tôn giáo. Chính thống giáo Hy Lạp là
tôn giáo phổ biến nhất tại nước này, chiếm tới 97% tổng dân số và phân bố rộng khắp
toàn đất nước Hy Lạp. Hồi giáo là tôn giáo phổ biến thứ hai với số tín đồ ước tính từ
khoảng 98.000 đến 140.000 người, tập trung chủ yếu ở tỉnh Thrace. Bên cạnh đó còn có
cộng đồng người Hồi giáo nhập cư vào khoảng 200.000 đến 300.000 người. Cộng đồng
Thiên chúa giáo tại Hy Lạp có số tín đồ ước tính khoảng 250.000 người. Còn đạo Nhân
Chứng Giê-hô-va và đạo Tin lành đều có khoảng 30.000 tín đồ. Cộng đồng theo đạo Do
Thái trước kia rất đông tại Hy Lạp, nay chỉ còn 5000 người và phân bố chủ yếu ở
Thessaloniki.
LUONG HA

Tôn giáo Lưỡng Hà là tôn giáo cổ nhất được ghi chép tới ngày nay. Người dân Lưỡng Hà
tin rằng thế giới là một cái đĩa phẳng, được bao quanh bởi một khoảng không gian to lớn
và trống rỗng, phía trên thế giới là thiên đường. Họ cũng tin rằng nước có mặt ở mọi nơi,
ở trên, dưới, và hai bên, và rằng vũ trụ đã sinh ra từ trong biển cả vô biên đó. Tôn giáo
Lưỡng Hà là đa thần giáo, người dân ở đây tin vào rất nhiều vị thần.

Dù những niềm tin được miêu tả như ở trên là điều thông thường đối với mọi người dân
Lưỡng Hà, vẫn có một số khác biệt theo từng vùng. Từ của người Summer để chỉ vũ trụ
là an-ki, gồm tên nam thần An và nữ thần Ki. Con của họ là Enlil, vị thần không khí. Họ
tin rằng Enlil là vị thần có nhiều quyền lực nhất. Ông ta là người đứng đầu các thần
Pantheon, tương tự thần Zeus của người Hy Lạp và thần Jupiter của người La Mã. Người
Sumer cũng tự đặt ra một số câu hỏi triết học như: Chúng ta là ai? Chúng ta đang ở đâu?
Tại sao chúng ta lại ở đây. Họ cho rằng những câu hỏi đó sẽ được các vị thần linh của họ
giải đáp.

Nếu ai đó bị ốm, họ sẽ cầu nguyện các vị thánh để được lành bệnh. Như đã đề cập ở trên,
các bác sĩ Lưỡng Hà không có trình độ cao về y học, vì thế người dân phải trông đợi sự
giúp đỡ của các thánh thần

Вам также может понравиться