Вы находитесь на странице: 1из 18

Kinh tế phát triển 1

Giảng viên:
Giảng đường C201 sáng thứ 6
Danh sách nhóm:
1. Nguyễn Thị Hoàng Oanh 67
2. Nguyễn Thị Thơ 67
3. Thái Thị Hà Ly 67
4. Trần Thị Thu Nga 67
5. Huỳnh Thạnh Phát 67
6. Lê Thị Giao Linh 67
7. Võ Thị Lan Chi 67
8. Nguyễn Thị Ngọc Giang 67
9. Nguyễn Thị Tuyết Vân 35
10. Đào Thị Kiều Tiên 05
11. Trần Thị Ngọc Hương 06
12. Lê Hiếu Thuận 31
13. Nguyễn Viết Quyết 67
Kinh tế phát triển 2

1.KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP


Theo Liên Hợp quốc: công nghiệp là một tập hợp các hoạt động sản xuất với
những đặc điểm nhất định thông qua các quá trình công nghệ để tạo ra sản phẩm.
hoạt động công nghiệp gồm cả 3 loại hình:
Công nghiệp khai thác tài nguyên
Công nhiệp chế biến
Các dịch vụ sản xuất theo sau nó

2.VAI TRÒ CỦA CN VÀ CHỨNG MINH BẰNG THỰC TIỄN Ở VIỆT


NAM
Công nghiệp có vai trò to lớn trong mọi hoạt động kinh tế, quốc phòng và đời
sống toàn xã hội
Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, các nước đang tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa công nghiệp ngày càng ngày càng phát huy vai trò của mình là
đầu tàu trong nền kinh tế
2.1 Công nghiệp có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đóng
góp vào tăng trưỡng kinh tế
Công nghiệp tạo ra khối lượng lớn sản phẩm cho xã hôi mà không ngành
nào có thể thay thế được ( máy móc, thiêt bị, tư liệu sản xuất, công cụ, đồ dung
sinh hoạt )
Công nghiệp là ngành có năng suất lao động cai, giá trị gia tăng lớn, tốc độ
tăng trưởng cao thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế
Qua bảng số liệu dưới đây:
Tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ tăng trưởng công nghiệp
Đơn vị %
Năm GDP Công nghiệp
2006 8,2 17,2
2007 8,5 11,3
2008 6,2 6,3
Nguồn CIA.fackbook
Ta thấy tốc độ tăng trưởng công nghiệp lúc nào cũng cao hơn tốc độ tăng trường
GDP
Công nghiệp là ngành chiếm tỉ trọng cao trong GDP
Kinh tế phát triển 3

Năm 2008 ở Việt Nam:


+ Nông nghiệp: 22% GDP
+ Công nghiệp: 39,9% GDP (cao nhất)
+ Dịch vụ: 38,1% GDP

2.2 Công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp và dịch vụ phát triển theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
- Đối với nông nghiệp:
+ Công nghiệp vừa tạo ra thị trường, vừa tạo ra những điều kiện cần thiết
cho nông nghiệp phát triển
+ Công nghiệp chế biến làm gia tăng giá trị và nâng cao sức cạnh tranh
trên thị trường
+ Công nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào cho nông nghiệp, nâng cao
năng suất lao động
+ Phát triển công nghiệp góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lao
động nông nghiệp
Công nghiệp có vai trò to lớn để thực hiện công nghiệp hóa nông thôn
• Đối với dịch vụ:Công nghiệp tác động đến các ngành như giao thông
vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, dịch vụ du lịch, đầu tư tài
chính…
Công nghiệp là tác nhân quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa
kinh tế_ xã hội
2.3 Công nghiệp góp phần đắc lực vào việc thay đổi phương pháp tổ
chức, phương pháp quản lý sản xuất và năng cao hiệu quả kinh tế-xã hội
- Phương pháp tổ chức sàn xuất theo chiều dọc và chiều sâu:
+ Theo chiều dọc: tạo dựng mối liên hệ từ nơi khai thác hoặc nơi sản
xuấtđến nơi chế biến và phân phối sản phẩm
+ Theo chiều ngang: tạo mối liên hệ trong một xí nghiệp chuyên môn hóa
mở mang sang nhiều xí nghiệp có liên hệ về sản phẩm và thị trường, mở rộng
không giang sản xuất và dịch vụ
• Phương pháp sản xuất dây chuyền và sản xuất hàng loạt nâng cao chất
lượng và hạ giá thành
• Rèn luyện tác phong công nghiệp( từ nền sản xuất lề lối làm việc, từ
cách suy nghĩ đến tác phong của người lao động
Kinh tế phát triển 4

• Công nghiệp góp phần cải tạo xã hội và nâng cao hiệu quả kinh tế -
xã hôi
2.4 Công nghiệp tạo điều kiện khai thác hệu quả các nguồn tài nguyên,
làm thay đổi dự phân công lao động, làm giảm mức chênh lệch về trình độ
phát triển các vùng
- Công nghiệp phát triển góp phần khai thác triệt để tài nguyên: dưới lòng
đất, trên mặt đất và dưới đại dương
- Công nghiệp làm cho không gian kinh tế biến đổi sâu sắc, tạo dựng các
trung tâm kinh tế mới, chuyển hóa chức năng của nhiều đô thị
- Làm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông
thôn, thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn
2.5 Công nghiệp có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm mới mà không
ngành sản xuất vật chất nào sánh được,góp phần vào việc mở rộng sản xuất
và thị trường lao động và giải quyết việc làm
2.6 Công nghiệp đóng góp vào tích lũy của nền kinh tế và nâng cao đời
sống nhân dân
- Tích lũy cho nền kinh tế bao gồm nguồn tài chính, nhân lực và trình độ
khoa học công nghệ
- Tăng nguồn ngân sách cho nhà nước, tăng tích lũy cho các doanh nghiệp
và nâng cao đời sống nhân dân
- Sự phát triển công nghiệp là thước đo trình độ phát trien3, biểu thị sự
vững mạnh của nền kinh tế, phát triển công nghiệp là điều kiện quyết định
để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

3.CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ
Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước, Việt Nam đặt ra mục
tiêu về cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020. Đây là giai
đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng, giai đoạn tăng tốc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá (CNH, HĐH), trong đó khu vực công nghiệp giữ một vai trò quan trọng.

3.1 Thực trạng kinh tế công nghiệp nước ta thời gian qua
Nhìn một cách tổng quát, trong những năm đổi mới vừa qua, đi đôi với
tăng trưởng và ổn định, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh
mẽ. Xu hướng của quá trình này là công nghiệp tăng nhanh và nền kinh tế được
hiện đại hóa. Nếu năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) cả nước là 8,15%
Kinh tế phát triển 5

thì năm 2007 ước đạt 8,44%, trong đó, ứng với thời gian trên, khu vực nông - lâm
- thủy sản là 4,3% và 3,0%, khu vực công nghiệp – xây dựng là 12,6% và 10,4%;
khu vực dịch vụ là 7,14% và 8,5%.
Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với
sự phát triển các ngành theo hướng da dạng hóa, từng bước hình thành một số
ngành trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường,
có khả năng xuất khẩu. Từng bước phát triển các ngành khai thác các nguồn lực
của nền kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài để sản xuất hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu và một số hàng công nghiệp nặng cần thiết. Các sản phẩm công
nghiệp quan trọng đều tăng khá như điện, thép, phân bón, dầu thô, xi măng,
than… Sự phát triển này đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ
trọng GDP tính theo giá thực tế trong khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ
23,2% năm 1996 lên 41,0% năm 2005, 41,6% năm 2006 và năm 2007 ước đạt
41,7% (năm 2007 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống mức
khoảng 20,9% và khu vực dịch vụ tăng lên khoảng 37,6%). Tỷ trọng của khu vực
công nghiệp trong GDP tăng dần thực sự trở thành động lực cho phát triển kinh tế
quốc dân (năm 2007 chỉ tính riêng khu vực công nghiệp chiếm khoảng 34,6%).
Đây là năm thứ ba liên tiếp ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao.

Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp bình quân khoảng 10%/năm trong
giai đoạn 1997-2007. Về giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá so sánh năm
1994) năm 2007 ước tăng 17,1% so với năm 2006, trong đó khu vực kinh tế nhà
nước tăng 10,3%; khu vực ngoài nhà nước tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài tăng 18,2%. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp cũng chuyển dịch tích
cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến từ 83,9% năm 2006 lên
khoảng 84,4% năm 2007. Đối với nhóm ngành chế biến nông, lâm, thủy, hải sản,
nhất là chế biến thực phẩm và đồ uống đóng góp quan trọng vào cơ cấu chế biến
với tỷ trọng là 21,0% năm 2006 và khoảng 21,3% năm 2007.
Lợi thế so sánh trong các ngành chế biến, chế tạo sử dụng nhiều lao động
đã được khai thác với ưu thế của ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu so với
các sản phẩm xuất khẩu thô. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã có những thay đổi cơ
bản, theo hướng vừa không ngừng nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm, tạo
ra sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều sản phẩm công nghiệp không chỉ
đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế như điện, than, phân bón, sắt
thép… mà còn tham gia vào xuất khẩu và chiếm tỷ trọng cao (76,3%) như: mặt
hàng nhựa, dệt may, điện tử và linh kiện máy tính, thủ công mỹ nghệ… Tăng
trưởng xuất khẩu của khu vực này chủ yếu do một số ngành công nghiệp nhẹ;
chẳng hạn, năm 2007, ngành dệt may đã chuyển từ sản xuất theo kiểu gia công
xuất khẩu (có tỷ lệ lãi khoảng từ 3-6%) sang sản xuất theo phương thức mua đứt,
Kinh tế phát triển 6

bán đoạn (có tỷ lệ lãi khoảng từ 5-8%); kim ngạch xuất khẩu đạt 7,8 tỷ USD tăng
khoảng 30% so với năm 2006.
Các sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may và giày dép lần đầu tiên đạt
trên 10 tỷ USD, dẫn đầu trong các ngành hàng tham gia xuất khẩu. Đặc biệt, các
sản phẩm cơ khí xuất khẩu cũng là lần đầu tiên được bổ sung vào danh sách 10
nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD (năm 2007 sản phẩm cơ
khí tăng trưởng trên 120% so với năm 2006, đem lại kim ngạch xuất khẩu trên
2,2 tỷ USD). Đứng đầu danh sách nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt
trên 1 tỷ USD phải kể đến là dầu thô (trên 8,4 tỷ USD); tiếp theo là dệt may (7,7
tỷ USD); giày dép (3,9 tỷ USD)...
Chuyển dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển
một số ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu, ở khía cạnh hiệu quả kinh tế,
một số lọai sản phẩm được sản xuất ra với khối lượng ngày càng lớn như: lắp ráp
ôtô, xe máy, đồ điện tử, đường, xi măng… đã cung cấp cho thị trường nội địa,
vốn cần thiết cho đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nhiều mặt hàng có chất
lượng cao đã chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Mặt khác, khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) trong nền kinh tế nước ta phát
triển với tốc độ cao. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, tập trung
vào nhóm ngành chế biến thực phẩm và dầu khí, đóng góp đáng kể vào tăng
trưởng xuất khẩu của nước ta và có vị trí chủ yếu trong một số mặt hàng xuất
khẩu chủ lực. Khu vực này đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ, xây dựng
mô hình tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác tiềm năng và huy
động các nguồn lực tốt hơn vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây được
coi là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH…

Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu trong khu vực công nghiệp
trong thời gian qua là do:
- Một là, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống luật
pháp và chính sách thương mại, thông qua mối quan hệ giữa các chính
sách thuế và các chính sách khác như trợ cấp, đầu tư… và trên thực tế đã
cải thiện rõ môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho các ngành công
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh;
- Hai là, nhiều doanh nghiệp đã và đang tận dụng mọi cơ hội để vươn lên
trong môi trường cạnh tranh, giành lấy và mở rộng thị phần trên thị trường.
- Ba là, ở giai đoạn trước mắt đã định hướng đúng việc tập trung vào nhóm
các sản phẩm có lợi thế so sánh trong xuất khẩu và khả năng cạnh tranh
cao, có nguồn gốc từ nông nghiệp và công nghiệp tiêu dùng, thực phẩm
như hàng may mặc, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, dầu thô, than đá…
Kinh tế phát triển 7

Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của khu vực công nghiệp còn yếu ngay cả
với các nước trong khu vực. Trong khi tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghiệp khá cao thì tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm còn thấp (năm 2007
con số này là khoảng 17,1% so với khoảng 10,2%). Tỷ lệ nội địa hóa của sản
phẩm chưa cao. Hầu hết các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu ở nước ta dưới
dạng nguyên liệu hoặc dưới dạng gia công (giày dép, dệt may), lắp ráp (điện
tử, máy vi tính), tỷ lệ sản phẩm chế tạo rất thấp, giá trị mới tạo ra trong sản
phẩm chiếm tỷ trọng nhỏ. Công nghiệp chế biến phụ thuộc vào nguyên, vật
liệu phụ nhập khẩu với chi phí cao dẫn đến giá bán cao (năm 2007 các doanh
nghiệp trong ngành dệt may phải nhập khẩu khoảng trên 70% nguyên phụ liệu
từ nước ngoài; các ngành hàng khác như giày, dép, sản phẩm nhựa… cũng ở
tình trạng tương tự). Điều này cho thấy nước ta đang thiếu trầm trọng ngành
công nghiệp chế biến mà đây là một trong những nội dung quan trọng của tiến
trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp công nghiệp
có quy mô nhỏ, chưa chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn,
chủng loại sản phẩm chưa phong phú, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực
quản lý, trình độ khoa học công nghệ... yếu kém.
Những tồn tại trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có thể
nhấn mạnh đến một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Một là, cho đến nay qúa trình cải cách thể chế còn chậm, nhất là chính sách thuế
còn một số bất cập, không ổn định và thiếu tính hệ thống. Bên cạnh những ngành
được hưởng lợi, với tư cách là thành viên của WTO, thì những ngành bị ảnh
hưởng tiêu cực là những ngành bị cắt giảm thuế quan nhiều nhất, như mía đường,
ô tô, giấy…; hoặc một số ngành phải chịu sự cạnh tranh gay gắt nhất từ phía hàng
nhập khẩu, như thép, giấy, hóa chất, phân bón…, nhất là mặt hàng dệt may;
- Hai là, cơ cấu sản xuất công nghiệp dịch chuyển chậm, công nghiệp phụ trợ
kém phát triển dẫn đến tình trạng các ngành sản xuất phụ thuộc quá nhiều vào thị
trường thế giới;
- Ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta còn thiếu; trình độ kỹ thuật
công nghệ lạc hậu đã trở thành rào cản lớn nhất đối với khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế, nhất là trong khu vực công nghiệp.

2. Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển khu vực công nghiệp ở
nước ta
Nước ta đang từng bước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế
giới, cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau một năm Việt Nam ra nhập WTO,
có thể nhận thấy những tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế, nhất là trong một số
lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, tài chính, ngân
hàng… mặc dù sự tác động đến các ngành là không như nhau. Nghĩa là có ngành
Kinh tế phát triển 8

hưởng lợi và có ngành chịu tác động tiêu cực. Mặt khác, thực hiện các cam kết
khi ra nhập WTO, ngoài việc phải giảm đáng kể mức thuế áp dụng, còn phải dỡ
bỏ các hàng rào phi thuế như: hạn ngạch, giấy phép, thủ tục hải quan… Điều này
sẽ làm giảm đáng kể mức độ bảo hộ và tăng áp lực cạnh tranh đối với ngành công
nghiệp trong nước.
Từ những phân tích đánh giá trên đây, cũng như xuất phát từ đòi hỏi thực
tiễn của quá trình CNH, HĐH đất nước trong giai đọan tới, đặc biệt trên cơ sở
“Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng
lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg, cần tiến hành triển khai một hệ
thống giải pháp đồng bộ, trước hết là các giải pháp về cơ chế, chính sách và
nguồn nhân lực chất lượng cao. Ở đây chỉ xin đề cập đến một số giải pháp sau:
- Thứ nhất, tập trung xây dựng chiến lược quy hoạch, hoàn chỉnh và ban
hành đồng bộ hệ thống luật pháp, chính sách thương mại. Cần nhấn mạnh rằng
vấn đề mấu chốt trong thương mại quốc tế của mỗi quốc gia trong khuôn khổ của
WTO chính là năng lực cạnh tranh của hệ thống chính sách thương mại, của
doanh nghiệp và của hàng hoá. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các
văn bản pháp luật, các chính sách liên quan đến thương mại, tài chính, khoa học
công nghệ và chính sách đào tạo nguồn nhân lực... một cách đồng bộ và phù hợp
với thông lệ quốc tế để các thành phần kinh tế có thể tham gia vào phát triển khu
vực công nghiệp. Kiện toàn và tăng cường công tác quản lý nhà nước tạo điều
kiện cho phát triển công nghiệp theo hướng, vừa hoàn thiện và tăng cường chính
sách quản lý nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển, vừa tăng cường
biện pháp kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo phát triển đúng hướng. Sớm hình thành
một mạng lưới công nghiệp trong cả nước trên cơ sở đa dạng hóa về quy mô và
chế độ sở hữu. Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm điểm công nghiệp
trên phạm vi cả nước, hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm. Ưu tiên ngân
sách và huy động các nguồn lực khác, theo kinh nghiệm của các quốc gia phát
triển, để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và
trên phạm vi cả nước - đây được coi là một trong những khâu đột phá trong phát
triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
- Thứ hai, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp
một cách hợp lý trên cơ sở huy động tối đa sức mạnh của các thành phần kinh tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, việc phát huy lợi thế của các ngành sử
dụng nhiều lao động ở nước ta là hết sức cần thiết, với đặc điểm kinh tế - kỹ thuật
đặc thù, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động luôn duy trì được chỉ số
ICOR tương đối lâu dài. Mặt khác, công nghệ vận hành không quá phức tạp, sử
dụng được lao động không đòi hỏi trình độ lành nghề cao và có thể đi ngay vào
sản xuất trong thời gian ngắn dưới hình thức chuyển giao công nghệ, gia công
xuất khẩu. Theo đó, cần thay đổi định hướng cơ cấu đầu tư công nghiệp, đối với
Kinh tế phát triển 9

khu vực doanh nghiệp nhà nước đầu tư để phát triển các ngành xuất khẩu thay vì
đầu tư cho thay thế nhập khẩu. Đối với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cần
ưu tiên lựa chọn các dự án có triển vọng công nghệ và thị trường quốc tế.
Chuyển hướng đầu tư tập trung cho các ngành sử dụng nhiều lao động và những
ngành có hàm lượng công nghệ - kỹ thuật cao.
Xác định có trọng tâm và đầu tư đúng mức vào những ngành kinh tế mũi
nhọn, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất theo các nhóm ngành: nhóm ngành có lợi thế
cạnh tranh, nhóm ngành nền tảng và nhóm ngành tiềm năng. Trước mắt, dựa trên
cơ sở lợi thế so sánh động, cần xác định ưu tiên và xây dựng kế hoạch ngắn,
trung và dài hạn đối với các ngành công nghiệp trọng điểm. Chẳng hạn, các
ngành công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên có chọn lọc phù
hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường giúp cho quá trình tích lũy vốn
nhanh hơn, tạo ra cơ sở ổn định lâu dài cho việc cung cấp những nguyên liệu cơ
bản của toàn bộ sự phát triển công nghiệp, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội, bao gồm các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, dầu khô,
khí đốt, than, luyện thép, vật liệu xây dựng... Các ngành công nghiệp sử dụng
nhiều vốn, kỹ thuật, công nghệ như các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu, sản xuất
hàng tiêu dùng cao cấp... có ý nghĩa chiến lược xét về trung và dài hạn. Hiện đại
hóa một số ngành cơ khí có đủ khả năng cung cấp công cụ và thiết bị cho một số
ngành nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp chế biến.
Chú trọng đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cần thiết cho một số
ngành dựa vào công nghệ - kỹ thuật cao của nền kinh tế công nghiệp hiện đại
như: công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử, tự động hóa và xây dựng cơ sở tiền
đề cho việc chuyển một bước sang nền kinh tế dựa trên tri thức. Tập trung phát
triển công nghiệp sản xuất phần mềm tin học thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
- Thứ ba, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công
nghệ và tỷ trọng giá trị tăng thêm trong sản phẩm công nghiệp xuất khẩu.
Cần nhận thức rằng mục tiêu đặt ra cho công nghiệp nước ta là phải thay
đổi căn bản tỷ lệ của 3 nhóm sản phẩm công nghiệp phục vụ xuất khẩu, gồm:
- Một, chế tạo,
- Hai, gia công- chế biến
- Ba, nguyênliệu...
Thay đổi tỷ lệ này là thay đổi đáng kể đến cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu vàcó tác động rất lớn đến cơ cấu các ngành sản xuất công nghiệp trong
nước, cũng như cơcấu nội bộ mỗi phân ngành công nghiệp. Theo đó, trước mắt
tập trung nguồn lực vào pháttriển nhóm ngành đang có lợi thế cạnh tranh và có
thị trường, gồm các ngành điện, than,dầu khí, hàng may mặc, giày dép, chế biến
khoáng sản... và các ngành có thể nâng caonhanh chóng kim ngạch xuất khẩu
trong thời gian ngắn, có khả năng chiếm lĩnh được thị trường về hàng tiêu dùng
thiết yếu. Đây là những ngành chủ yếu dựa trên nguồn lao động rẻ và tài nguyên
Kinh tế phát triển 10

thiên nhiên sẵn có, nhưng cũng cần lưu ý là những lợi thế này cũng đang có xu
hướng giảm nhanh.
Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu và tạo ra những đột phá mới trong xuất
khẩu hang công nghiệp chế biến, chế tạo hàng có hàm lượng khoa học công nghệ,
tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, giá trị gia tăng xuất khẩu cao. Chuyển
xu hướng gia tăng mạnh xuất khẩu sản phẩm “thô” trong thời gian qua sang xu
hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến trong kim ngạch xuất
khẩu, phục vụ xuất khẩu trên cơ sở định hướng công nghiệp kỹ thuật cao. Hạn
chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và các mặt hàng chưa
qua chế biến, thông qua việc thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất
lượng tăng giá trị hàng hóa là biện pháp vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính lâu
dài.
- Thứ tư, tăng cường phát triển công nghiệp hỗ trợ, đẩy mạnh nội địa hoá
các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về phụ tùng, thiết bị tại chỗ cho doanh nghiệp.
Bài học kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy công
nghiệp hỗ trợ giữ vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp. Phát triển công
nghiệp hỗ trợ thuộc các ngành trọng điểm của nền kinh tế không chỉ giúp các
doanh nghiệp chủ động trong sản xuất, giảm giá thành sản phẩm; mà còn giúp
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đẩy mạnh hợp tác, góp phần thực
hiện mục tiêu tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm. Vì vậy, cần xem xét giải quyết
những khó khăn vướng mắc trong xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp
phụ trợ ở nước ta hiện nay. Đồng thời, để nâng cao khả năng cung ứng nguyên,
phụ liệu một cách kịp thời và hiệu quả hơn, cần xây dựng ngay một số cơ sở đầu
mối (có thể đặt tập trung tại các khu công nghiệp...) đóng vai trò trung tâm tổ
chức nhập khẩu và cung ứng nguyên, phụ liệu trong một số lĩnh vực như sản xuất
hàng dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa cho các doanh nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu trong nước. Từng bước xây dựng và tiến tới chuyên nghiệp
hóa các dịch vụ hỗ trợ cho ngành công nghiệp như thiết kế tạo mẫu, họat động
quản trị sản xuất, marketing... để cung ứng đầu vào và phát triển đầu ra.

4. NGÀNH CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Trong tương lai Việt Nam đã xác định một số nghành công nghiệp trọng điểm
,đó là:công nghiệp chế biến thực phẩm(xuất khẩu gạo,cà phê,hồ tiêu,điều,thủy hải
sản,…);công nghiệp khai khoáng(khai thác và chế biến dầu mỏ,kim loại,khoáng
sản…);công nghiệp da giầy,dệt may ,trong đó công nghiệp công nghệ thông tin
là một nghành công nghiệp mũi nhọn có vai trò quan trọng trong việc phát triển
của đát nước ta trong tương lai.
4.1 Định nghĩa:
Kinh tế phát triển 11

Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology
hay là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin
CNTT là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi,
lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Người làm việc trong ngành
này thường được gọi là dân CNTT (IT specialist) hoặc cố vấn quy trình doanh
nghiệp (Business Process Consultant)
Ở Việt Nam: Khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các
phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là
kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực
hoạt động của con người và xã hội.
4.2 Vai trò:
Công nghệ thông tin (CNTT) là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
kích thích tăng lực đổi mới đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế
quốc dân của mỗi nước nói riêng. Theo tính toán của IDC, doanh thu của thị
trường sản phẩm và dịch vụ CNTT trên thế giới trong năm 2002 đã đạt trên 1.000
tỷ USD, dự báo đến năm 2005 doanh thu của thị trường này sẽ đạt 1.400 tỷ USD.
Sự phát triển của CNTT đã tạo ra hàng loạt ngành nghề mới có giá trị gia
tăng cao, đã đào tạo được hàng triệu nhân công CNTT có tay nghề cao; tạo ra
nguồn thu rất lớn cho ngân sách Nhà nước, từ thu thuế (nhiều chục tỷ USD mỗi
năm). Chỉ riêng trong lĩnh vực đảm bảo lập trình trong 2 năm 1996-1997, mỗi
năm Tập đoàn Microsoft đã nộp thuế cho ngân sách của các nước trên phạm vi
toàn thế giới 28 tỷ USD, trong đó ở Mỹ là 7 tỷ USD, ở các nước khác là 21 tỷ
USD. Năm 2001, thuế thu từ khu vực CNTT ở các nước (trừ Mỹ) là 34 tỷ USD;
Trong 28 nước được nghiên cứu, tốc độ phát triển của CNTT vẫn tăng lên và
mang tính ổn định. Mặc dù, có những khó khăn về kinh tế, nhưng tốc độ phát
triển của lĩnh vực CNTT vẫn tăng hàng năm từ 4,1 đến 43,7% trong suốt thời kỳ
1995-2001;
Dự báo cho giai đoạn 2001-2005, tốc độ phát triển của CNTT ở các nước
này tăng trung bình mỗi năm từ 4,94 đến 31,6%, trong đó 16 nước có khả năng
tăng mỗi năm 45% và hơn nữa;
Đến năm 2005, dịch vụ CNTT sẽ trở thành bộ phận lớn nhất của lĩnh vực
CNTT ở hầu hết các nước được nghiên cứu;
Số nhân công làm việc trong lĩnh vực CNTT giai đoạn 1995-2001 đã tăng
không dưới 35%.
Mặc dù gần đây có hiện tượng suy thoái kinh tế, nhưng các doanh nghiệp
CNTT vẫn giữ vai trò then chốt trong việc làm sống lại nền kinh tế của các quốc
gia và đóng góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế trong 10 năm gần đây.
Kinh tế phát triển 12

Theo số liệu của Bộ Thương mại Mỹ, tỷ trọng của ngành công nghiệp máy
tính và viễn thông trong nửa sau của những năm 90 đã đóng góp tới 1/3 tăng
trưởng kinh tế của siêu cường này.
4.3Tiềm năng:
CNTT là lĩnh vực rất đa dạng trong nền kinh tế. Theo chiều ngang, CNTT có
thể chia thành 3 lĩnh vực nhỏ: trang thiết bị, đảm bảo chương trình và dịch vụ.
Về trang thiết bị CNTT: theo đánh giá của IDC, chi phí cho trang thiết bị
CNTT trên toàn thế giới năm 2001 đã lên đến trên 381 tỷ USD. Dự báo tốc độ
tăng trung bình hàng năm của chi phí này trong 4 năm tới (đến năm 2005) là
4,3% và đạt giá trị tuyệt đối 450 tỷ USD vào năm 2005.
Về đảm bảo chương trình: chỉ tính riêng chi phí cho đảm bảo chương trình
gói năm 2001, trên toàn thế giới đạt 192 tỷ USD, dự tính tốc độ tăng trung bình
hàng năm cho 4 năm tiếp theo là 15%/năm và đến năm 2005 sẽ đạt con số 355 tỷ
USD.
Về dịch vụ CNTT: chi phí cho dịch vụ CNTT năm 2001 trên toàn thế giới lên
tới 426 tỷ USD, dự tính tốc độ tăng trung bình hàng năm cho 4 năm tiếp theo là
11,1%/năm, đến năm 2005 đạt 650 tỷ USD.
4.4 Hiện trạng nghành công nghệ thông tin tại Việt Nam:
* Đạt được
Theo báo cáo của Vụ Công nghiệp CNTT (Bộ TT&TT), ngành công
nghiệp CNTT Việt Nam hiện nay là ngành kinh tế mũi nhọn với doanh thu 3 tỷ
USD năm 2006. Trong đó, công nghiệp điện tử và máy tính chiếm tới 2 tỷ USD
(1,8 tỷ là xuất khẩu), phần mềm 350 triệu USD (doanh thu từ phần mềm nội địa
là 250 triệu USD, còn lại xuất khẩu) và công nghiệp nội dung số đạt 110 triệu
USD.
Hiện nay ngành công nghiệp phần cứng và phần mềm của Việt Nam đều
đã có những dấu hiệu phát triển rất đáng mừng. Với công nghiệp phần cứng, chưa
bao giờ Việt Nam lại thu hút được nhiều nhà đầu tư, hãng CNTT lớn của nước
ngoài đã lựa chọn Việt Nam là địa điểm để đầu tư như thời điểm bây giờ.
Năm ngoái điển hình là sự kiện Intel với việc xây dựng nhà máy sản xuất
chip tại TP.Hồ Chí Minh, năm nay, Canon, HP, thậm chí có nhiều người cho rằng
với sự kiện HP đầu tư vào Việt Nam chúng ta sẽ trở thành một trong những
cường quốc số 1 thế giới về máy in... Không chỉ có phần cứng, trong lĩnh vực
phần mềm, các tập đoàn lớn của nước ngoài cũng đã bắt đầu quan tâm vào việc
đầu tư cho các doanh nghiệp Việt Nam. IBM cũng đã có trung tâm dịch vụ toàn
cầu đặt ở TP.HCM và đang dự kiến sẽ phát triển ở Hà Nội.
Hiện phần mềm là ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng dẫn đầu trong
nền kinh tế. Dự kiến với tốc độ tăng trưởng này và theo kế hoạch của Chính phủ
thì năm 2010 sẽ đạt doanh số 800 triệu đô-la Mỹ. ngành công nghiệp phần mềm
ở Việt Nam đang có mức tăng trưởng khá tốt, đạt từ 30 - 40% năm, tỷ trọng trên
Kinh tế phát triển 13

GDP chiếm 0,4% với hơn 720 doanh nghiệp, và gần 9000 kỹ sư, cử nhân CNTT
đang được đào tạo tại các trường Đại học, Cao đẳng hàng năm.
Hiện các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tập trung làm những phần mềm
nhỏ mang tính chuyên ngành như kế toán, tiền lương, nhân sự, bán hàng…
Nhưng cũng phải thấy rằng đã có thời kỳ nhiều công ty đầu tư làm phần mềm
đóng gói nhưng do tỷ lệ vi phạm bản quyền tại nước ta cao nên các doanh nghiệp
đã không đầu tư theo hướng này vì như vậy là quá mạo hiểm. Nên các công ty
phần mềm tránh làm những phần mềm đóng gói phổ dụng đại trà. Họ chuyển
sang hướng sản xuất phần mềm đóng gói theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp.
Ngoài ra, doanh nghiệp phần mềm tập trung vào hướng gia công bởi đây là
hướng phát triển an toàn, liên thông quốc tế, lợi nhuận cao và tăng trưởng tốt.
So với nhu cầu hơn 1,5 triệu nhân lực thiếu hụt hiện nay trên thế giới, Việt Nam
đang có lợi thế lớn bởi nguồn nhân lực trẻ
Đặc biệt trong lĩnh vực gia công phần mềm, thứ hạng của Việt Nam tăng
nhanh gần đây. Năm nay, Việt Nam lần đầu tiên có mặt trong nhóm 10 quốc gia
hấp dẫn nhất về gia công phần mềm và dịch vụ theo xếp hạng của A.T.Kearney.
Theo Gartner đánh giá, Việt Nam thuộc nhóm 30 quốc gia về gia công với ưu thế
chi phí thấp. Trong khi theo danh sách của Global Services - Tholon Study 2009,
thì cả TP.HCM và Hà Nội đều lọt vào bảng xếp hạng về gia công với vị trí thứ 4
và thứ 10 trong năm nay. TPHCM cũng nằm trong nhóm 10 thành phố có triển
vọng tại châu Á – Thái Bình Dương của KPMG. “Riêng trong lĩnh vực gia công,
Việt Nam đã nổi lên như một địa chỉ mới. Đây có lẽ là thành quả lớn nhất sau
những năm hoạt động: Việt Nam được thế giới biết đến trong một lĩnh vực đặc
thù.
*Hạn chế:
Không thể phủ nhận tiềm năng phát triển của ngành công nghiệp phần
mềm Việt Nam. Điều này đã được chứng minh qua việc nhiều tập đoàn quốc tế
đã đưa Việt Nam vào chuỗi dịch vụ toàn cầu. Các tổ chức xếp hạng cũng đánh
giá Việt Nam là nơi có thứ hạng gia công tốt trên thế giới.
Tuy nhiên, lâu nay chúng ta đã chưa biến được tiềm năng đó thành năng
lực thực tế. Thậm chí, nếu cứ như thời gian qua, có thể đánh mất nhiều cơ hội
phát triển.
Dù Việt Nam đã xác định đây là ngành công nghiệp mũi nhọn từ 10 năm
trước nhưng các số liệu thống kê cho thấy quy mô của ngành còn rất nhỏ bé, với
vốn đầu tư trung bình tại mỗi doanh nghiệp là 2 tỷ đồng, quy mô nhân lực trung
bình là 15 người và mức đóng góp cho GDP của ngành còn khá khiêm tốn,
khoảng 0,5%,
Toàn cảnh ngành CNTT Việt Nam do HCA khảo sát cho thấy, doanh thu
phần mềm và dịch vụ CNTT năm 2008 đạt khoảng 680 triệu đô-la Mỹ, trong đó
riêng phần mềm là 424 triệu đô-la, lợi nhuận đầu tư bình quân trên vốn khoảng
Kinh tế phát triển 14

25%. Vấn đề đáng quan tâm trong cuộc khảo sát này là các doanh nghiệp đông về
số lượng nhưng “xấu đều và tự phát”.
Chỉ khoảng 5% số doanh nghiệp (khoảng 40 doanh nghiệp) đang chi phối
95% tổng doanh thu về phần mềm và dịch vụ, 95% doanh nghiệp còn lại chỉ
đóng góp có 5% tổng doanh thu. Tuy nhiên, doanh nghiệp phần mềm vẫn chưa
đạt đến quy mô lớn, khi chỉ có rất ít doanh nghiệp có hơn 1.000 nhân sự và dưới
5% doanh nghiệp có doanh thu trên 1 triệu đô-la/năm.
Tổng nhân lực toàn ngành gia công phần mềm khoảng 30.000 người với
năng suất lao động bình quân là 11.000 đô-la Mỹ/người/năm, bằng 45% so với
Ấn Độ và 65% so với Trung Quốc. Nguyên nhân chính là đa số các hợp đồng có
mức độ yêu cầu kỹ thuật còn thấp và đơn giản, giá thấp. Nếu nguồn nhân lực này
được nâng cao tay nghề kỹ thuật và doanh nghiệp thực hiện được những đơn
hàng có yêu cầu cao thì năng suất lao động sẽ đạt khoảng 22.000 đô-la Mỹ.
“Bước sang năm 2009 doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về thị trường. Cần đánh
giá lại hiệu quả hoạt động của ngành này trong thực tế để xác định hướng phát
triển phù hợp hơn cho ngành
Số doanh nghiệp có quy mô lớn và quy trình chuyên nghiệp hiện còn rất ít.
Trong toàn cục, phần lớn các doanh nghiệp ở giai đoạn “ăn đong”, chưa đủ khả
năng đầu tư dài hạn.
Nhiều doanh nghiệp trước đây tập trung đầu tư chuyên sâu vào lĩnh vực phần
mềm nhưng nay đã vội vàng đầu tư sang lĩnh vực khác nhằm tránh rủi ro.
Điều này chứng tỏ niềm tin vào ngành và sức hút của ngành chưa đủ để
giúp doanh nghiệp vượt qua những “cửa ải” khó khăn với chiến lược dài hạn.
Việc phát triển như vậy làm kéo dài tình trạng nhỏ, lẻ tẻ và thiếu chuyên nghiệp,
khiến quy mô của ngành nhỏ bé, khó tiếp cận thị trường quốc tế.
Mặt khác, khó khăn về nhân lực trong những năm trước đã đẩy giá nhân
công tại Việt Nam lên cao, làm cho lợi thế này của Việt Nam đang giảm dần. Nếu
như ở giai đoạn 2004-2007 các doanh nghiệp chủ yếu thiếu người thì hiện nay
vừa thiếu người lại vừa thiếu việc nên càng khó khăn hơn nhiều. Nếu bước vào
giai đoạn kinh tế hồi phục với một lực lượng “mỏng” như thế thì ngành công
nghiệp phần mềm Việt Nam khó lòng bứt phá.
Nguồn nhân lực lại là vấn đề khiến Việt Nam phải băn khoăn, lo lắng nhất.
Một câu hỏi đang cần phải trả lời thoả đáng đó là: Làm thế nào nguồn nhân lực
CNTT Việt Nam đáp ứng được nhu cầu để phát triển ngành công nghiệp công
nghệ thông tin? Hiện trạng nhân lực Việt Nam đã được nói tới nhiều. Nguồn
nhân lực là một trong những yếu tố giúp ngành công nghiệp CNTT thu hút được
sự đầu tư của nước ngoài, từ đó tăng cường tiềm lực của đất nước trong lĩnh vực
CNTT.
Điểm lại quá trình phát triển 10 năm qua, ta thấy những điểm yếu của
ngành CNTT vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Hiện số lượng nhân lực đạt một
Kinh tế phát triển 15

trình độ nhất định còn rất thiếu so với nhu cầu về nhân lực của các doanh nghiệp.
Quy mô và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam còn
hạn chế.
4.5.Chiến lược phát triển công nghệ thông tin của chính phủ Việt Nam:
“Chiến lược Cất cánh” giai đoạn 2011 - 2020 theo những nội dung cơ bản
dưới đây:
1.Các phương châm và quan điểm của chiến lược
“Chiến lược Cất cánh” giai đoạn 2011 - 2020 bám sát hai phương châm, đó
là:
•Lấy phát triển nguồn nhân lực Công nghệ thông tin và Truyền thông có trình độ
và chất lượng cao làm khâu đột phá;
•Lấy việc nhanh chóng làm chủ thị trường trong nước để từng bước vững chắc
mở rộng sang thị trường khu vực và toàn cầu làm khâu quyết định.
Cùng với hai phương châm nêu trên, ba quan điểm cơ bản cần quán triệt, nhấn
mạnh khi xây dựng và triển khai “Chiến lược Cất cánh” là:
•Chuyển mạnh từ phát triển chiều rộng sang chiều sâu; từ số lượng sang chất
lượng; tăng cường hiệu quả, năng suất.
•Tận dụng hiệu quả ngoại lực để tăng cường nội lực. Nội lực phải trở thành nòng
cốt và chủ yếu, ngoại lực giữ vai trò quan trọng.
•Phát huy tính chủ động và sáng tạo trong mọi hoạt động kinh doanh theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực cạnh tranh toàn
ngành.

2.Các mục tiêu định hướng cơ bản của chiến lược đến năm 2020
Đến năm 2020 Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam trở thành
một ngành quan trọng đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP với tỷ lệ ngày
càng tăng. Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam đạt trình độ tiên tiến
trong các nước ASEAN góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông
tin.
Hạ tầng Bưu chính Viễn thông và Công nghệ thông tin đạt các chỉ tiêu về
mức độ sử dụng dịch vụ tương đương với mức bình quân của các nước công
nghiệp phát triển, đa dạng các loại hình dịch vụ, bắt kịp xu thế hội tụ công nghệ
và dịch vụ Viễn thông - Công nghệ thông tin - Truyền thông, hình thành hệ thống
mạng tích hợp theo công nghệ thế hệ mới, băng thông rộng, dung lượng lớn, mọi
nơi, mọi lúc với mọi thiết bị truy cập, đáp ứng nhu cầu ứng dụng Công nghệ
thông tin và Truyền thông, rút ngắn khoảng cách số, bảo đảm tốt an ninh, quốc
phòng.
Ứng dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông và Internet sâu rộng trong
Kinh tế phát triển 16

mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quản lý tạo nên sức mạnh và
động lực để chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu suất
lao động, tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân, thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ; góp phần xây dựng nhà nước minh
bạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ và phục vụ người dân ngày càng tốt hơn. Khai
thác có hiệu quả thông tin và tri thức trong tất cả các ngành. Xây dựng và phát
triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, chính phủ điện tử và doanh nghiệp
điện tử, giao dịch và thương mại điện tử đạt trình độ nhóm các nước dẫn đầu khu
vực ASEAN.
Công nghiệp Công nghệ thông tin và Truyền thông trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn và khâu quan trọng trong dây chuyền gia công, sản xuất và cung cấp
toàn cầu, đảm bảo tăng trưởng tốc độ cao, công nghệ hiện đại, sản xuất nhiều sản
phẩm Việt Nam ngày càng có hàm lượng sáng tạo cao. Một số sản phẩm công
nghiệp quan trọng trong lĩnh vực điện tử, phần cứng, phần mềm đạt trình độ
nhóm nước phát triển trên thế giới. Phát triển mạnh công nghiệp phần mềm, công
nghiệp nội dung, coi trọng sở hữu trí tuệ và bản quyền tác giả.
Nguồn nhân lực Công nghệ thông tin và Truyền thông đạt trình độ nhóm
các nước dẫn đầu khu vực ASEAN về số lượng, trình độ và chất lượng đáp ứng
các yêu cầu quản lý, sản xuất, dịch vụ và ứng dụng trong nước và xuất khẩu quốc
tế. Phổ cập, xóa mù tin học, nâng cao trình độ, kỹ năng ứng dụng Công nghệ
thông tin và Truyền thông cho người dân, đặc biệt thanh thiếu niên.

3.Các giải pháp tạo tiền đề cho việc thực hiện chiến lược
a)Nâng cao nhận thức về vai trò của Công nghệ thông tin và Truyền
thông:
Nâng cao nhận thức về xã hội thông tin, kinh tế tri thức và vai trò
của Công nghệ thông tin và Truyền thông trong toàn xã hội thông qua mọi
hình thức tuyên truyền, phổ biến, đặc biệt chú ý tận dụng các phương tiện
thông tin đại chúng. Lãnh đạo các cấp cần thực sự nhận thức được Công
nghệ thông tin và Truyền thông là lĩnh vực quan trọng và ưu tiên của quốc
gia; quan tâm tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ mạnh mẽ cho ứng dụng và
phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông; gương mẫu, đi đầu trong
việc ứng dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông.
b)Hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp
Rà soát và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế,
chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ ứng dụng và phát triển
Công nghệ thông tin và Truyền thông đáp ứng các yêu cầu về hội nhập
toàn diện kinh tế quốc tế, bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia; tăng
cường và phát huy nội lực, thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp; tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế có cơ hội bình
Kinh tế phát triển 17

đẳng tham gia thị trường; hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực Công nghệ thông tin và Truyền
thông và bắt kịp xu hướng hội tụ công nghệ và dịch vụ Viễn thông - Công
nghệ thông tin - Truyền thông.
c) Thực hiện tốt các chiến lược và quy hoạch
Xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch ngành nhằm sử dụng
hiệu quả và tiết kiệm nguồn vốn đầu tư, nguồn tài nguyên và các nguồn lực
quốc gia khác bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, giữ vững chủ quyền quốc gia. Từng lĩnh vực cụ thể cần
xây dựng chiến lược và quy hoạch bảo đảm phát huy cao độ tính độc lập,
tự chủ và sáng tạo.
d) Tăng cường tổ chức bộ máy quản lý của nhà nước; Đổi mới mô hình
doanh nghiệp;
Tăng cường bộ máy quản lý nhà nước về Công nghệ thông tin và
Truyền thông theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực phù hợp với xu
thế hội tụ công nghệ và dịch vụ Viễn thông - Công nghệ thông tin - Truyền
thông. Tổ chức hợp lý bộ máy quản lý nhà nước trên cơ sở phân biệt rõ các
tổ chức có chức năng xây dựng chính sách, luật pháp với các tổ chức có
chức năng thực thi pháp luật; đảm bảo hình thành hệ thống quản lý nhà
nước mạnh theo nguyên tắc “Năng lực quản lý đón đầu yêu cầu phát triển”.

Đổi mới tổ chức, cải tiến quy trình, nâng cao trình độ quản lý, năng
suất lao động, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Bưu chính, Viễn thông và Công nghệ thông tin. Nghiên cứu áp
dụng các mô hình doanh nghiệp sáng tạo mới với các hình thức khác nhau
nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Hình thành các tập đoàn kinh tế
mạnh, thiết lập các liên minh, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp
trong lĩnh vực Bưu chính, Viễn thông và Công nghệ thông tin.
đ) Mở rộng và phát triển thị trường Công nghệ thông tin và Truyền thông.
Phát huy thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, nhanh chóng làm
chủ thị trường trong nước, từng bước mở rộng ra thị trường khu vực và thế
giới, đồng thời tăng cường xây dựng và làm giầu hình ảnh thương hiệu
“Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam”. Tập trung đầu tư phát
triển các sản phẩm và dịch vụ Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt
Nam với hàm lượng sáng tạo ngày càng cao. Các doanh nghiệp chủ lực về
Bưu chính, Viễn thông và Công nghệ thông tin đảm bảo có kế hoạch, lộ
trình tăng cường năng lực cạnh tranh, chuyển sang kinh doanh đa ngành,
đa lĩnh vực trong đó Công nghệ thông tin và Truyền thông là ngành kinh
doanh chính và có trình độ chuyên môn hóa cao.
e) Phát triển mạnh nguồn nhân lực
Kinh tế phát triển 18

Hoàn thiện hệ thống chương trình đào tạo, dạy nghề thống nhất và
chuyên nghiệp về Công nghệ thông tin trong cả nước ở tất cả các bậc học,
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất và hợp tác quốc tế
trong đào tạo Công nghệ thông tin và Truyền thông, đảm bảo cung cấp
nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao.
Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ công
chức, người lao động ở các doanh nghiệp, đặc biệt là nâng cao trình độ ứng
dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông vào hoạt động quản lý nhà
nước và sản xuất kinh doanh.
Khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các mô hình xã hội hóa, mô
hình đào tạo theo nhu cầu của thị trường, mô hình đào tạo liên kết Doanh
nghiệp – Viện – Trường, mô hình liên danh, liên kết quốc tế... để cung cấp
cho thị trường nguồn nhân lực Công nghệ thông tin đủ về số lượng, cao về
trình độ và chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Có chính sách và chế độ đãi ngộ đặc biệt để thu hút nhân tài, khuyến
khích chuyên gia trong và ngoài nước, đặc biệt đối với người Việt Nam ở
nước ngoài có trình độ, năng lực, kinh nghiệm, vị trí và điều kiện thuận lợi
trong lĩnh vực Công nghệ thông tin và Truyền thông tích cực, nhiệt tình
tham gia đóng góp cho phát triển ngành Công nghệ thông tin và Truyền
thông của đất nước.
g) Thu hút đầu tư và huy động nguồn vốn
Hình thành môi trường nuôi dưỡng, phát triển và đón đầu cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, sẵn sàng về cơ sở hạ tầng vật chất, hậu cần,
nguồn nhân lực để thu hút các tập đoàn Công nghệ thông tin và Truyền
thông lớn trên thế giới đầu tư, triển khai hoạt động nghiên cứu và phát triển
Công nghệ thông tin và Truyền thông tại Việt Nam.
Huy động vốn đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và quốc tế, ưu
tiên nguồn vốn tín dụng ngân hàng, cổ phần hoá, thị trường chứng khoán,
tích luỹ, ODA… cho phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông.

Вам также может понравиться