Вы находитесь на странице: 1из 1

Một số phát hiện mới về Zeolit

(Đăng ngày 30.08.2007 11:49 & 4915 lượt xem)


Zeolit là loại vật liệu có ích, có nhiều ứng dụng trong công nghiệp,
trong đời sống: làm các chất xúc tác, trao đổi ion, chất hấp phụ...
Zeolit là nhôm silicat có cấu trúc tinh thể xác định, có các lỗ xốp
với kích thước nano đều đặn. Trong tinh thể zeolit, các tứ diện SiO4
và AlO4 liên kết với nhau qua nguyên tử oxy. Không gian bên trong
tinh thể gồm các hốc nhỏ được nối với nhau bằng các đường rãnh có
kích thước ổn định. Nhờ hệ thống lỗ xốp và các đường rãnh mà zeolit
có thể hấp phụ những phân tử có kích thước nhỏ hơn kích thước lỗ Cấu trúc của Zeolite
và đẩy ra những phân tử có kích thước lớn hơn.
Giả sử nếu zeolit chỉ thuần có SiO4 thì nó kị nước và mạng tinh thể của nó sẽ trung hòa về điện tích.
Tuy nhiên do zeolit được tạo thành khi nhôm thay thế một số nguyên tử silic trong mạng lưới tinh thể của
SiO4 kết tinh, nên mạng lưới tinh thể zeolit mang điện tích âm. để đảm bảo tính trung hòa về điện tích,
zeolit cần có các ion dương (cation) để bù trừ điện tích âm dư. Trong thiên nhiên hay ở dạng tổng hợp
ban đầu những cation đó thường là cation kim loại kiềm (Na+, K+...) hay kiềm thổ (Mg2+, Ca2+...). Những
cation này nằm ngoài mạng lưới tinh thể zeolit và dễ dàng tham gia vào các quá trình trao đổi ion với các
cation khác. Chính nhờ đặc tính đó mà người ta có thể biến tính zeolit và đem đến cho nó những tính
chất và ứng dụng mới trong các quá trình hấp phụ và xúc tác.
Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số kết quả mới trong lĩnh vực nghiên cứu về zeolit:
- Thông thường người ta điều chế zeolit nhân tạo từ gel được đun trong autoclav chứa các hợp chất
nhôm, silic; một loại dung môi; chất khoáng hóa và một tác nhân định hình cấu trúc (SDA). Tính chất của
gel, các điều kiện phản ứng và kích thước của tác nhân SDA là những yếu tố quan trọng giúp zeolit có
được những kích thước lỗ xốp (đặc biệt là loại lỗ vi xốp) mà người ta mong muốn. Trước đây các nhà
khoa học chỉ dựa trên cơ sở thực nghiệm để điều chế zeolit nhân tạo với các kích thước lỗ xốp theo yêu
cầu. Ngày nay dựa trên các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật người ta đã thiết kế và tổng hợp được
các tác nhân SDA mới, nhờ đó tạo ra nhiều cấu trúc tinh thể zeolit mới với các tính chất ưu việt. Các
SDA với kích thước lớn có giá thành khá đắt. đặc biệt, nó lại bị đốt cháy trong quá trình nung để tạo ra
các lỗ xốp mở, vì vậy giá thành sản xuất zeolit bị tăng cao. để tránh nhược điểm này người ta đã điều
chế một số loại SDA chứa xetal, sau khi làm xong việc định hình các lỗ xốp zeolit, nó có thể được tách ra
nhờ trao đổi ion và được tái sinh để sử dụng lại.
- Người ta đã phát hiện ra một loại zeolit mới, đó là nhôm photphat (AlPO4). Loại zeolit này khi được
thế bởi nhóm thế khác hóa trị sẽ có tính axit và làm xúc tác cho phản ứng oxy hóa - khử.
- Việc thế kim loại vào zeolit sẽ làm cho nó có một số tính chất mới. Thí dụ: khi thế kim loại thiếc (Sn)
vào zeolit sẽ tạo ra zeolit b có thể làm xúc tác cho phản ứng oxy hóa xeton thành este và lacton.
- Khi thế mangan hoặc coban vào zeolit nhôm photphat sẽ tạo ra loại zeolit có lỗ xốp nhỏ và có khả
năng oxy hóa chọn lọc các nguyên tử cacbon cuối của alcan (CnH2n+2).
- Người ta đã tổng hợp được titansilicat mà kích thước lỗ xốp của nó được thay đổi tùy theo sự điều
chỉnh nhiệt độ nung. Titansilicat được sử dụng như một loại rây phân tử để tách một số hỗn hợp khí quan
trọng.
- Scanđi (Sc) có tính chất gần như nhôm nhưng vì trước đây có giá đắt nên người ta khó áp dụng
trong các nghiên cứu về zeolit. Tuy nhiên, hiện nay do giá scanđi hạ nên việc này có thuận lợi hơn.
Người ta đã điều chế được scanđisilicat có cấu trúc rất giống với cấu trúc của zeolit ZSM - 5 với nhiều
tính chất đặc biệt.
Ngày nay các zeolit nhân tạo đang được áp dụng ngày càng rộng rãi. Một số loại zeolit có những tính
chất rất độc đáo (ví dụ: khi làm nóng lên nó sẽ co lại...) sẽ là đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa
học để tìm ra các ứng dụng mới (điều chỉnh độ dài sóng của tia laser, chế tạo các linh kiện điện tử cực
nhỏ v.v...).
VŨ TRUNG
Theo Chemistry & Industry, 4/2006

Вам также может понравиться