Академический Документы
Профессиональный Документы
Культура Документы
Trong quá trình thi công xây dựng, mái nhà thường nằm ở công đoạn cuối. Thi công xong
phần mái là gia chủ có thể yên tâm tới 90%. Điều đó cũng như đóng một dấu ấn quan
trọng cho một quá trình. Không chỉ là một bộ phận của kiến trúc để che nắng che mưa,
mái nhà còn có ý nghĩa hơn thế để chỉ về một nơi cư trú hay một khái niệm cao hơn về
một sự sum họp, hạnh phúc quây quần
Và rồi sau đó, không thể phụ thuộc mãi vào thiên nhiên, những túp lều, những ngôi
nhà… ra đời bằng bàn tay và khối óc của con người. Mái nhà và kiến trúc song hành
cùng sự tiến bộ của cả nhân loại.
Suốt chiều dài lịch sử, kiến trúc đã thay đổi rất nhiều cùng khoa học công nghệ, xã hội;
những mái nhà cũng thay đổi theo. Nhưng khát vọng, mơ ước về một mái nhà hoàn mỹ
trên nhiều phương diện vẫn đeo đuổi con người.
Mái nhà tiếp theo chính là mái ngói đất nung. Mái ngói đã trở thành một hình ảnh điển
hình trong kiến trúc truyền thống Việt Nam. Mái ngói cùng hệ kết cấu khung gỗ là một
sự kết hợp tuyệt vời của vật liệu với vật liệu, của kiến trúc và điêu khắc. Mái nhà dân
gian có bốn mái hoặc hai mái, các công trình nhà ở quy mô nhỏ thường là hai mái. Tuỳ
từng loại công trình mà mái ngói đi kèm với những chi tiết trang trí khác ở bờ nóc, bờ
chảy, đầu đao, diềm mái... Nhiều hình tượng và những ước mơ, khát vọng của con người
được lồng ghép vào những chi tiết trang trí trên mái hay ở hệ khung vì kèo gỗ.
Thời gian đã minh chứng cho sự trường tồn về giá trị thẩm mỹ, bền vững và những yếu tố
công năng phù hợp của mái ngói với khí hậu và tập quán con người Việt Nam. Mỗi nơi
và mỗi thời kỳ có từng loại mái ngói và ngói khác nhau, tạo nên sự đa dạng, phong phú.
Cho tới bây giờ, mái ngói vẫn không hề cũ.
Người Pháp cũng đã để lại một số lượng lớn các biệt thự ở các đô thị Việt Nam, mà bây
giờ chúng ta vẫn thường gọi là biệt thự Pháp. Đa phần các biệt thự này sử dụng mái dốc
lợp ngói với hệ kết cấu vì kèo gỗ kết hợp với tường thu hồi. Cũng là mái ngói nhưng hình
thức mái biệt thự khá đa dạng trong mỗi phong cách kiến trúc khác nhau.
Đã có một thời kỳ, ở cả đô thị lẫn nông thôn, khi xi măng, sắt thép không còn hiếm nữa
thì việc “bằng hoá” (đổ mái bằng) cái mái là một mục tiêu phấn đấu của mọi nhà. Không
thể phủ nhận mái bằng – đổ bê tông kiên cố hơn mái ngói, bền vững hơn. Nhưng nếu xét
toàn diện thì mái bằng không phải toàn ưu điểm. Mái bằng đổ bê tông thoát nước kém,
hấp thụ nhiệt lớn… khả năng thích nghi với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều không
tốt. Bên cạnh đó mái bằng có phần nào hạn chế thẩm mỹ công trình so với mái ngói, mái
dốc.
Và cũng một thời kỳ, khi kinh tế khá giả, khi có điều kiện tiếp cận với thông tin thì người
dân xây nhà tự đưa những kiểu mái mà họ thích vào ngôi nhà của họ. Kết quả có nhiều
mái chóp, mái “củ hành”… và nhiều loại mái có kiến trúc xa lạ với khí hậu và văn hoá
Việt Nam. Trong khi ở Hà Nội mái chóp dán ngói nhiều tới mức người ta hát: “Em ơi, Hà
Nội chóp”; thì mái Nhà hát lớn được copy khắp nơi trên tỉnh thành phía Bắc, từ công sở
tới nhà dân.
Bây giờ có tới 1.001 loại mái khác nhau. Sự lựa chọn hình thức mái, vật liệu mái cho
kiến trúc sư và cả chủ nhà là… thoải mái. Tuy nhiên, hiện nay vai trò của kiến trúc sư
được đánh giá đúng mức hơn nên các dạng mái “quái chiêu”, mái “vô duyên”… cũng dần
ít đi.
Mái ngói Nhà Thái Học - Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội), công trình được phục dựng
theo đúng kiến trúc truyền thống
Việt Nam là nước nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều – là một điều kiện thuận lợi cho rêu mốc
phát triển trên bề mặt kiến trúc, đặc biệt là mái. Việc lựa chọn và sử dụng hình thức mái
và vật liệu mái phù hợp không bao giờ là đơn giản.
Nhà hát lớn, công trình có mái bị sao chép lại nhiều nhất
Bên cạnh đó, với những vật liệu mới, kết cấu mới, công nghệ xây dựng hiện đại, nhiều
dạng mái mới đã và đang được ứng dụng nhiều trong các công trình xây dựng từ quy mô
nhỏ đến lớn. Mái kính được sử dụng khá nhiều để khai thác ánh sáng và hiệu quả không
gian nội thất. Mái giàn thép không gian cũng đang được ứng dụng khá nhiều trong các
công trình công cộng, công nghiệp.
“Mái xanh” hay “vườn trên mái” là một xu hướng đang phát triển với tinh thần hướng tới
thiên nhiên và tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên ở nước ta “mái xanh” vẫn chỉ là những
mảng xanh nhỏ lẻ trên mái mang tính trang trí, chưa có nhiều nghiên cứu đầy đủ và đột
phá ở khía cạnh kiến trúc - môi trường.
Sự trở về với kiến trúc truyền thống và niềm trăn trở của giới kiến trúc sư nói chung về
một cái gọi là bản sắc kiến trúc là một điều đáng mừng, nhưng cũng tồn tại nhiều mâu
thuẫn khi mà vật liệu và công nghệ vẫn đang ầm ầm tiến về phía trước.
Mái Trung tâm hội nghị Quốc gia (Hà Nội) với hình tượng sóng Biển Đông
Đã có nhiều ca dao tục ngữ nói về mái nhà hoặc có hình tượng mái nhà như: “Con không
cha như nhà không nóc”, “Ngó lên nuộc lạt mái nhà/ Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy
nhiêu”… hay mượn mái nhà để nói về quan điểm sống: “Một mái nhà tranh hai trái tim
vàng”…
Mái nhà vượt ra ngoài khái niệm là một thành phần, một bộ phận kiến trúc; mái nhà trở
thành hình tượng, ý niệm về gia đình, về sự sum họp quây quần. Mái nhà là nơi trở về.
“Chung một mái nhà” thể hiện một tình đoàn kết, tình cảm gắn bó và đồng thuận trong
suy nghĩ. Mái nhà - mái ấm luôn là khát vọng muôn đời.
Mái nhà có lẽ cũng là “bộ phận kiến trúc” có mặt nhiều nhất vào thơ ca, âm nhạc..
Mái nhà đọng trong ký ức, đi vào giấc mơ, tiềm thức của mỗi con người…
+ Mái bằng: Mái nằm song song với phương mặt đất với độ dốc được coi như bằng 0 độ,
độ dốc đủ để thoát nước bề mặt, không có ý nghĩa tạo hình kiến trúc. Mái bằng có ưu
điểm tạo được sàn có thể để các cấu kiện, vật dụng khác trên mái (bể nước…), dễ di
chuyển, thao tác trên mái khi có sự cố.
+ Mái dốc: Mái được tạo với phương ngang một góc nhất định. Tuỳ loại vật liệu lợp mái
và vật liệu khung mái cùng độ rộng diện tích che phủ mà mái có độ dốc khác nhau. Mái
nhà tranh, tre, nứa, lá có độ dốc từ 33 – 45 độ, mái ngói trong kiến trúc dân gian truyền
thống có độ dốc từ 30 – 33 độ, mái nhà Rông Tây Nguyên dốc tới 70 – 80 độ, mái tôn có
độ dốc thấp hơn – khoảng 12 – 15 độ. Các loại vật liệu lợp mái ở mái dốc cũng có những
hệ kết cấu tương ứng. Nếu vật liệu lợp mái là tranh thì sử dụng kèo tre, lợp ngói thì ứng
với kèo gỗ, mái tôn được sử dụng với hệ kèo thép… Mái dốc về cơ bản khó di chuyển,
thao tác trên bề mặt và không tận dụng được diện mái như mái bằng. Mái dốc góp phần
tạo hình kiến trúc.
+ Mái bê tông cốt thép: Là mái được đổ bê tông toàn khối hoặc lắp ghép những cấu kiện
bê tông (panel). Mái bê tông cốt thép có ưu điểm bền vững, chịu tải tốt nhưng nhược
điểm là khó có khả năng tháo lắp khi cần di chuyển hay phá dỡ công trình.
+ Mái khung (giàn) phẳng (với vật liệu tre – gỗ, thép): Là những dạng mái sử dụng kèo,
vì kèo, tường thu hồi… chịu lực cùng các lớp kết cấu khác (tuỳ loại vật liệu lợp mái).
Mái ngói có các lớp kết cấu: vì kèo, hoành, rui, mè (hoặc vì kèo, xà gồ, cầu phong, litô),
mái tôn có các lớp: vì kèo, xà gồ… Loại mái này dễ tháo lắp các cấu kiện.
+ Mái giàn không gian (hay còn gọi là giàn thép không gian): Hiện nay mái giàn không
gian được sử dụng nhiều trong các công trình cần không gian lớn như ga hàng không,
triển lãm, sân vận động, nhà thi đấu… Giàn không gian cho phép vượt được những nhịp
lớn và khá linh hoạt trong giải pháp tổ hợp hệ khung cũng như việc tháo lắp, di chuyển.
+ Mái có kết cấu đặc biệt: Các dạng mái kết cấu vỏ mỏng, dây treo…
Có thể phân loại theo vật liệu lợp mái hay kết hợp cả vật liệu của kết cấu chịu lực mái: ví
dụ như mái bê tông, mái ngói, mái kính, mái thép – kính, mái gỗ – kính, mái bê tông –
ngói… Hiện nay trên thị trường các loại ngói và tấm lợp mái rất đa dạng. Việc lựa chọn
một hình thức mái và vật liệu mái cần dựa trên nhiều yếu tố: thẩm mỹ kiến trúc, kỹ thuật,
kinh tế.
Mái kính kết cấu giàn không gian (Nhà ga T1 Nội Bài - Hà Nội)
Mái và chủ nghĩa biểu hiện trong kiến trúc
Như phần trên đã đề cập: mái góp phần lớn trong việc tạo nên hình thức công trình. Hình
hài, đặc trưng của công trình, hình thái kiến trúc và cảnh quan tổng thể nhiều khi được
thể hiện, biểu lộ phần lớn qua mái. Chính vì lẽ đó, từ xưa đến nay các kiến trúc sư vẫn
dành nhiều tâm sức sáng tạo cho mái nhằm đạt được yếu tố thẩm mỹ nhất định cho công
trình; và cao hơn là vươn tới một sự khái quát, tư tưởng cần biểu đạt. Chủ nghĩa biểu hiện
trong kiến trúc ở trên thế giới cũng như Việt Nam cũng khai thác nhiều yếu tố này. Ở cả
ý nghĩa vị trí và không gian (nằm trên cao nhất) và cả yếu tố tinh thần thì mái là bộ phận
kiến trúc rất phù hợp để biểu hiện. Từ những kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam,
trên các chi tiết mái, trên các hệ vì kèo kết cấu được trang trí các hoa văn, hoạ tiết thể
hiện quan niệm, ước mơ, khát vọng của con người. Trên thế giới nhiều công trình có
những hình thức mái độc đáo đã trở thành những kiệt tác kiến trúc của chủ nghĩa biểu
hiện. Có thể kể tới công trình Nhà thờ Ronchamp (Pháp) của kiến trúc sư người Pháp Le
Corbusier với mái nhà độc đáo - gợi nhiều liên tưởng tới những sự vật khác nhau; hay
công trình Nhà hát Opera Sydney (Australia) của kiến trúc sư người Đan Mạch Jorn
Utzon với hình ảnh những cánh buồm (hay con sò) bên bờ biển…
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là kết cấu xây dựng; một số công trình ở
Việt Nam cũng đã có những hình thức mái độc đáo theo chủ nghĩa biểu hiện. Công trình
Trung tâm hội chợ triển lãm Hải Phòng (KTS Nguyễn Tiến Thuận) có mái giàn không
gian như một cánh diều, hay con tàu. Công trình Trung tâm hội nghị Quốc gia (KTS
Meinhard von Gerkan và KTS Nikolaus Goetze - Đức) với mái cách điệu từ hình tượng
sóng biển Đông…