Академический Документы
Профессиональный Документы
Культура Документы
• Tỉ trọng của khí hóa lỏng bằng một nửa tỉ trọng của nước, do vậy chúng luôn
nổi trên mặt nước và bay hơi rất nhanh;
• Khí hóa lỏng tinh khiết không ăn mòn kim loại, nhưng khi có lượng nhỏ tạp
chất hoặc các chất khác thì tốc độ ăn mòn xảy ra rất nhanh và nghiêm trọng;
• Khí hóa lỏng tinh khiết không có mùi cho nên khó nhận biết bằng khứu giác.
• Bản thân khí hóa lỏng không phải là chất có độc tính cao đối với người và
sinh vật, nhưng khi bị rò rỉ ra ngòai môi trường, chúng làm thiếu hụt oxy trong
không khí, gây khó thở cho người và sinh vật trong vùng bị ảnh hưởng.
• Propane và Butane đều là các khí gây nổ khi trộn lẫn lộn với không khí hoặc
oxy ở một tỉ lệ nhất định. Chúng nặng hơn không khí và tụ trên mặt đất và bay là là
theo chiều gió, kết hợp với không khí tạo thành hỗn hợp nổ. Khi cháy, chúng tạo ra
các chất thứ cấp gây ô nhiễm môi trường. Mức độ gây độc tới con người và sinh vật
của các hydrocacbon nói chung và và khí hóa lỏng nói riêng gồm:
• Hơi hydrocacbon nặng hơn không khí tập trung tại những điểm thấp trên mặt
đất. Với nồng độ hydrocacbon trong không khí khoảng 0,1%, người hít phải trong 5
phút sẽ bị chóng mặt. Nếu nồng độ hydrocacbon tăng lên 0,5% thì người hít phải
trong vòng 4 phút sẽ có hiện tượng như nghiện rượu. Nồng độ hydrocacbon cao
nhất (ngoại trừ hydrosulfur) không được vượt quá 0,1% để tránh gây độc cho người;
Hiện nay, chỉ riêng tại các tỉnh phía Nam đã có trên 87 cơ sở chiết nạp chai
LPG đang hoạt động. Các nhà máy này chủ yếu sử dụng công nghệ chiết nạp bán tự
động với công suất chiết nạp từ 20 tấn - 400 tấn/ngày, lượng hơi hữu cơ thất thoát
sau mỗi quá trình nạp bình đã tác động không nhỏ tới chất lượng không khí xung
quanh, đặc biệt ô nhiễm mùi của ethyl mercaptan hay dimethyl sulphide trong LPG.
Đây là những chất được hoà trộn vào LPG (khỏang 30 g-40 g mercaptan/1 tấn LPG)
để phát hiện mùi LPG ở nồng độ xấp xỉ 4000 ppm trong không khí. Tổng kho sản
phẩm dầu mỏ và LPG của tập đoàn Shell tại Gò Dầu – Đồng Nai cung cấp nhựa
đường, nhớt, LPG nhiên liệu cho các nhà máy; môi trường không khí tại đây có
nồng độ THC dao động 1,2-2,5 mg/m3 không khí.
• Khí propane và Butane cháy trong điều kiện thiếu không khí sẽ tạo ra oxít
cacbon (CO) do cháy không hoàn toàn. Khi tiếp xúc sẽ gây tổn thương cho da;
Thông thường một cơ sở có nhiều bồn chứa, tần xuất xảy ra sự cố lớn cho bất
kỳ một cơ sở nào ở vào khoảng 1/20.000 bồn/năm. Nếu thực hiện tốt các biện pháp
an toàn, tần xuất xảy ra cháy bồn chứa khí hóa lỏng có thể giảm xuống, từ 1/20.000
bồn/năm còn 1/100.000 bồn/năm.
Tại Việt Nam, do là nước chưa có nền công nghiệp dầu khí phát triển nên
SCMT trong sử dụng LPG ở nước ta trong thời gian vừa qua chưa ở mức độ đặc
biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên cũng đã xảy ra một số sự cố điển hình như sau:
• Rò rỉ và gây cháy nổ đường ống dẫn khí đốt hoá lỏng (LPG) tại cơ sở cán sắt
thuộc Tỉnh Phú Yên vào năm 1998. Nguyên nhân là do đường ống không bảo đảm
an toàn gây rò rỉ gas, tạo thành hỗn hợp cháy nổ, khi gặp nguồn nhiệt (do phoi cắt
nóng đỏ văng ra) gây cháy nổ.
• Ngày 17/3/2003 rò rỉ hydrocarbon tại đường ống dẫn butan-propan từ nhà
máy Nhà Máy Chế Biến Khí Dinh Cố tới Kho Cảng Thị Vải làm ô nhiễm môi
trường nước cục bộ tại đầm đánh bắt thủy sản sông Mỏ Nhát - Phước Hoà. Rò rỉ
này đã làm chết cua, cá trong đầm trong 02 ngày đầu sự cố.
• Sự cố đục đường ống dẫn lấy trộm condensat tại An Ngãi - Phước Hoà đầu
năm 2003 làm condensat rò rỉ đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn nước nông và
môi trường đất tại khu vực xung quanh (báo Người Lao Động 7/4/2003).
• 16 giờ ngày 17-10-2006, từ tầng 3 của trường mầm non tư thục Hoa Sen
(đường số 3A cư xá Bình Thới, phường 8 quận 11 đột ngột phát ra ngọn lửa dữ dội.
Lửa cháy lớn kèm theo tiếng phụt của hơi gas. Hàng trăm học sinh được di tản sang
những ngôi nhà lân cận và lực lượng chữa cháy quận 11 cũng kịp thời đến dập tắt
ngọn lửa. Nguyên nhân của vụ cháy là do một cô cấp dưỡng đến mở bếp gas đun
nước, bất ngờ lửa cháy lan theo vòi gas và bùng lên dữ dội. Trước đó, khi thay một
bình gas 50 kg,người bán gas đã cẩu thả khi lắp đặt van an toàn khiến bình gas bị
xì. May mắn là tai nạn này không gây thiệt hại về người, tổn thất tài sản không đáng
kể do nhà bếp của trường học được lắp đặt ở trên tầng lầu trên cùng và lửa không
bắt lan sang được các khu vực lân cận. Tuy nhiên, qua vụ cháy này, các cơ quan
đơn vị trường học ... nên kiểm tra lại việc an toàn phòng cháy chữa cháy, nhất là
những ngôi nhà cao tầng nằm xen lẫn trong khu dân cư, cầu thang hẹp, thiếu lối
thoát hiểm.
• Một vụ nổ bình gas đã xảy ra khoảng 20g ngày 22/10/2006, đốt cháy nhiều
đồ đạt và thiêu rụi căn nhà của bà Huỳnh Kim Loan tại ấp Hòa Hớn, xã Định Hòa,
huyện Gò Quao tỉnh Kiên Giang. Theo ước tính, thiệt hại của vụ cháy khoản 100
triệu đồng . Theo kết quả điều tra sơ bộ, trong lúc bà Loan đang đun nấu trên bếp
gas thì vỏ bình gas (loại bình 12kg, hiệu TTA Gas) bị “ phồng” lên rồi cháy. Mặc
dù những người trong nhà đã dùng chăn dập lửa nhưng đám cháy vẫn lan sang vách
và mái nhà. Năm người trong nhà đã chạy ra ngoài trước khi bình gas nổ nên không
thiệt hại về người.
5.2 TÁC ĐỘNG TỚI MÔI TRƯỜNG CỦA SỰ CỐ TRONG CHẾ BIẾN VÀ
SỬ DỤNG KHÍ HÓA LỎNG
5.2.1. Tác động do sự cố rò rỉ khí hoá lỏng
Thông thường trong trường hợp xảy ra rò rỉ LPG, nếu lỗ rò rỉ nhỏ và lượng
khí thoát ra ngoài ít thì quá trình phát tán sẽ làm giảm nhanh chóng nồng độ của
đám mây khí xuống dưới giới hạn cháy trước khi gặp nguồn cháy hoặc xảy ra rò rỉ
nhưng không có tác nhân gây cháy nổ thì sẽ không dẫn đến sự cố cháy nổ. Khi đó
lượng khí rò rỉ ra ngoài sẽ chỉ ảnh hưởng tới môi trường và con người xung quanh.
Do thành phần chủ yếu của LPG là các hydrocarbon, đây là những chất gây ô
nhiễm không khí, ở nồng độ cao sẽ gây độc đối với các loại sinh vật tồn tại trong
vùng không khí bị ô nhiễm. Đối với con người, khí hydrocarbon ở nồng độ cao làm
rối loạn hô hấp, sưng tấy màng phổi, làm teo hẹp cuống phổi, sưng tấy mắt gây
bệnh ngoài da…Không khí có chứa nồng độ hydrocacbon cao cũng làm giảm khả
năng hấp thụ oxy của thực vật. LPG được đánh giá có độc tính thấp đối với sinh vật.
Tuy nhiên, khi hô hấp một lượng lớn LPG sẽ dẫn đến triệu chứng choáng váng hoặc
ngất ở người và động vật. Khi LPG có mặt với nồng độ rất cao trong không khí sẽ
làm giảm nồng độ ôxy trong không khí xuống dưới ngưỡng có thể hô hấp và gây tử
vong cho con người và động vật. Khí hydrocacbon thoát ra từ có thể do các nguyên
nhân như xả khí trong trường hợp giảm áp sự cố, rò rỉ khí từ đường ống, van và các
chỗ nối hoặc do vỡ đường ống.
Đối với đoạn ống dưới nước, khí hydrocarbon rò rỉ từ đường ống dẫn khí
dưới nước sẽ làm xáo trộn trầm tích đáy, gây đục nước, làm tăng hàm lượng
hydrocarbon trong nước, cản trở sự hô hấp và phát triển của các loài sinh vật sống
trong nước do sự tạo váng trên bề mặt, nhưng chỉ gây ảnh hưởng cục bộ và trong
một thời gian ngắn đối với sinh vật đáy và sinh vật nổi do khí thoát ra sẽ nhanh
chóng bay hơi và phát tán vào khí quyển.
5.2.2. Tác động do sự cố cháy nổ
Cháy là một sự cố thường hay xảy ra đối với thiết bị phương tiện hoạt động
liên quan đến tồn trữ và sử dụng khí hóa lỏng. Cháy các phương tiện tồn trữ có thể
phát sinh do rò rỉ trong quá trình bơm nạp, bốc dỡ và vận chuyển sản phẩm. Khi khí
hoặc một đám hơi bén lửa có thể dẫn đến cháy hoặc nổ. Sự cố cháy khí hóa lỏng rất
nguy hiểm do nguy cơ bắt lửa và phát nổ của hơi khí tích tụ. Cháy là một mối nguy
hiểm lớn đối với con người, thiết bị và môi trường. Sự cố cháy có thể làm tổn
thương nghiêm trọng hoặc gây tử vong cho người và sinh vật trong phạm vi quầng
lửa. Cháy có thể dẫn đến các ảnh hưởng thứ cấp. Hậu quả của sự cố cháy nổ là để
lại một lượng lớn các chất ô nhiễm không khí như NOX, CO2, SOX. Sự cố cháy có
thể dẫn đến tràn đổ hóa chất, nhiên liệu, hydrocacbon … làm cho đám cháy lan rộng
thêm và gây tác động đến sức khỏe con người. Sự cố cháy sẽ tạo ra bức xạ nhiệt quá
mức chấp nhận được cho môi trường xung quanh. Trong một vài trường hợp, cháy
có thể dẫn đến nổ, làm tăng thêm các đám cháy, gây tổn hại cho môi trường và các
phương tiện hoạt động. Nổ hơi do chất lỏng sôi dãn nở là nguy hiểm lớn nhất, thu
hút sự quan tâm hàng đầu về mặt kỹ thuật và công nghệ để nâng cao mức độ an toàn
và giảm tối thiểu các rủi ro. Sau đây là một số tác hại của sự cố nổ thiết bị LPG:
5.3.2.1. Tác động tới môi trường
Hậu quả của sự cố cháy nổ là để lại một lượng lớn các chất ô nhiễm không
khí như COx, NOx, SOx, peroxit hữu cơ, gốc tự do hữu cơ, bụi cacbon ... trong môi
trường quanh khu vực xảy ra đám cháy. Sự cố cháy cũng sẽ tạo ra bức xạ nhiệt quá
giới hạn chịu đựng của con người và sinh vật xung quanh, nếu không được cứu
chữa kịp thời có thể sẽ phát triển rộng ra. Những đoạn đường ống đi qua các khu
rừng ngập mặn, rừng tràm, đám cháy có thể lan vào những khu vực này gây ra các
vụ cháy rừng, ảnh hưởng trực tiếp tới cây rừng và các loại sinh vật sống trong rừng
dẫn đến sự di cư của các loài sinh vật sống trong rừng, làm mất cân bằng sinh thái.
Thiệt hại môi trường do sự cố cháy nổ được xem như nằm trong khoảng từ nhỏ đến
nghiêm trọng.
nhiễm độc mãn tính có triệu chứng như nhức đầu, chóng mặt, suy nhược, khó thở,
dễ cáu gắt, buồn ngủ khi lao động.
• Các tác động của CO2 lên cơ thể con người ở hai mức. CO2 là khí không
màu, không mùi và có vị chua nhẹ, tồn tại trong không khí trong khỏang nồng độ từ
0,03% đến 0,06%. Đầu tiên CO2 sẽ gây tác động độc hại khi nồng độ lớn hơn 3%.
Nồng độ 5% CO2 trong không khí gây thở gấp và đau đầu. Sau khi đã hấp thụ vào
trong máu CO2 sẽ tác động nhanh lên não làm tăng nhịp thở để đưa oxy nhiều hơn
vào phổi. CO2 ở nồng độ thấp kích thích trung tâm hô hấp làm tăng nhịp hô hấp, nó
sản sinh trong cơ thể vào máu, được máu đem đến phổi và được thải ra theo hơi thở:
CO2 + O2Hb → CO 2Hb + O2
Khi CO2 trong không khí tăng cao dẫn tới tăng cường độ hô hấp, kích thích
não, trung tâm vận mạch, giảm cảm giác, đôi khi dẫn tới hôn mê và cũng có thể gây
tử vong, CO2 cũng làm tăng dự trữ kiềm và làm giảm pH trong máu. Người tiếp
xúc với không khí có nồng độ CO2 tới 10% có thể bị bất tỉnh và có thể dẫn đến chết
do thiếu ôxy. Người ta không thể nhận biết được nồng độ CO2 trong không khí ở
giới hạn gây ngạt cho đến khi bị ngất đi và không thể thoát ra được. Hàm lượng
CO2 trong không khí và các hậu quả kèm theo được tóm tắt trong bảng 5.3.
Bảng 5.3: Hàm lượng CO2 trong không khí và các hậu quả
• NOx cũng kết hợp với Hemoglobin tạo thành Methemoglobin làm cho Hb
không vận chuyển được O2 để hô hấp cho cơ thể gây ra ngạt cho cơ thể, nó cũng tác
dụng với hơi nước của không khí ẩm chứa trong các vùng trên và dưới của bộ máy
hô hấp, tác hại trên bề mặt phổi và gây ra các tổn thương ở phổi. Khi nhiễm độc
NOx con người sẽ bị kích thích mắt, rối loạn tiêu hoá, viêm phế quản, tổn thương
răng, có thể gây tử vong.
c. Tác động của nhiệt độ
Do ảnh hưởng bởi việc tăng nhiệt độ không khí xung quanh, nhiệt độ cơ thể
tăng hơn mức bình thường sẽ làm suy kiệt cơ thể. Khi nhiệt độ cơ thể tăng tới 40oC
có thể dẫn tới mất ý thức.
d. Hạn chế tầm nhìn
Lượng khói phát sinh từ sự cố cháy sẽ có thể làm giảm tầm nhìn, dẫn đến
làm giảm đáng kể tốc độ thoát hiểm của nhân viên và có các ảnh hưởng tương
đương như ảnh hưởng của bức xạ nhiệt ở cường độ 5kW/m2. Với lượng khói chiếm
15% thể tích không khí, sẽ gây khó khăn đến đường thoát hiểm do ảnh hưởng của
độ độc và tầm nhìn, và nó cũng có các ảnh hưởng đến con người tương tự như bức
xạ nhiệt ở cường độ 12,5 kW/m2.
e. Nổ áp suất cao:
Ở áp suất quá áp 0,2bar (2,9psi) được coi là giới hạn có thể gây chết ... Tất cả
những người trong vùng quá áp 0,2bar có thể bị chết, còn người ở ngoài vùng sẽ
không bị chết. Đối với những người bị kẹt trong đám cháy, không kể đến yếu tố áp
suất cao, hầu như 100% người bị chết vì lửa.
5.3.2.3. Hư hỏng thiết bị
Thời gian hư hỏng đối với dầm thép không được bảo vệ là 5 phút trong điều
kiện tia lửa (250 kW/m2), 10 phút trong điều kiện bể lửa (150 kW/m2) và 30 phút
trong điều kiện nhiệt lượng là 37,5 kW/m2 trong khi thời gian làm hỏng đường ống
và bồn chứa là 5,10 và 60 phút.
Bằng tính tóan đã xác định được vùng nguy hiểm khi xảy ra sự cố cháy các
bồn chứa LPG nằm trong khuôn viên khu vực kho cảng của công trình xử lý khí
Dinh Cố. Ngược lại, nếu xảy ra sự cố nổ quá áp 0,0207 bar do vỡ bồn chứa LPG,
bán kính nguy hiểm sẽ nằm ngoài khuôn viên khu vực kho cảng (504 m). Do vậy,
khuyến cáo đã được đưa ra là không xây dựng thêm bất kỳ công trình phúc lợi hay
cho các hoạt động cộng đồng gần kề khu vực kho cảng Phước Hòa.
Các tác động do quá áp trong trường hợp tổng quát được tóm tắt trong bảng
5.4
Trong trường hợp vỡ đường ống dẫn khí dưới nước, khí hydrocacbon với áp
suất cao sẽ thoát ra nhiều vào môi trường nước và sau đó vào khí quyển. Khi lên tới
mặt nước, khí sẽ bắt đầu trộn với không khí tạo ra hỗn hợp khí dễ bắt cháy nếu xuất
hiện nguồn lửa và gây nổ. Sự cố sẽ gây ảnh hưởng tới các tàu bè trong khu vực, trực
tiếp ảnh hưởng tới các sinh vật tầng mặt … Khí thoát ra sẽ làm xáo trộn mạnh trầm
tích đáy, tác động mạnh đến các động vật đáy. Tiếp theo, khí sẽ hoà tan một phần
trong nước và tác động đến các sinh vật nổi. Các tác động có thể tóm tắt như sau:
• Làm tăng hàm lượng metan trong nước từ 10 đến 100 lần so với ban đầu;
• Thay đổi đặc tính hoá học của nước như làm giảm hàm lượng ôxy hòa tan…;
• Gây xáo trộn trầm tích, tác động mạnh có thể dẫn đến chết đối với động vật
đáy và động vật nổi, cá, động vật ở biển….