Вы находитесь на странице: 1из 5

2/28/2018 Tap chi Han Nom so 1/2005

NHO GIÁO VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM
CAO TỰ THANH

Hiện diện trong nhiều thế kỷ như một mô hình tổ chức và quản lý xã hội mang tính chất chính thống, một phương thức hoạt động và phát triển văn
hóa đóng vai trò chủ đạo, Nho giáo đã để lại ảnh hưởng sâu đậm của nó trong lịch sử và văn hóa Việt Nam, những ảnh hưởng vẫn tiếp tục tác động tới
đời sống xã hội Việt Nam sau thế kỷ XIX. Là một giá trị ngoại sinh được tiếp nhận và vận dụng như một học thuyết chính trị để xây dựng và bảo vệ
đất nước, một hệ thống chuẩn mực giĩp tổ chức và quản lý xã hội, Nho giáo sau thời Bắc thuộc cũng được khuôn nắn lại về nội dung và cơ cấu rồi trên
cơ sở đó trở thành một yếu tố vừa góp phần thực hiện vừa góp phần phản ảnh tiến trình lịch sử Việt Nam. Tìm hiểu Nho giáo với con đường phát triển
và ảnh hưởng văn hóa của nó trong lịch sử Việt Nam là góp thêm dữ kiện vào việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói chung cũng như lịch sử Nho giáo
nói riêng.

Sau hàng ngàn năm bị đô hộ, xã hội Việt Nam bước ra khỏi thời Bắc thuộc với một di sản nặng nề trong đó nổi bật là tình trạng chưa toàn diện và
đồng bộ của hệ thống quản lý xã hội. Tầng lớp trí thức còn mỏng manh về số lượng, phân tán về học vấn và chưa có kinh nghiệm quản lý, chưa đảm
trách được vai trò người dẫn đạo tinh thần và điều hành đất nước, tình hình này bộc lộ qua nhiều biến động chính trị dưới các triều Ngô Đinh và Tiền
Lê. Trong khi đó các chính quyền ở Trung Hoa từ thời Đường mạt Ngũ đại đến thời Tống đều lăm le áp đặt lại ách thống trị của người Hán ở khu vực
này, đồng thời những xung động từ tình trạng phân tranh ở Trung Quốc trước đó cũng để lại dư âm của nó ở một Việt Nam vừa giành độc lập, với
không ít trường hợp sự thống nhất quốc gia bị coi nhẹ hơn các lợi ích địa phương. Không phải ngẫu nhiên mà các vua khai sáng bốn triều Ngô ­ Đinh ­
Lê ­ Lý đều là những người xuất thân võ tướng. Nhu cầu khách quan trong hoạt động bảo vệ chính quyền và quản lý xã hội đương thời đòi hỏi xác lập
một mô hình chính trị, nhưng từ nhà nước tam giáo hòa đồng thời Lý ­ Trần tới nhà nước thế tục Nho giáo thời Lê thì lịch sử pháp quyền và lịch sử tư
tưởng ở Việt Nam đã không song hành suốt mấy trăm năm. Sự phát triển quanh co của Nho giáo sau thời Bắc thuộc đến thế ky XV do đó ngoài ý nghĩa
là kết quả của quá trình đấu tranh với phong kiến Bắc phương để gìn giữ sự độc lập chính trị và quyền tự quyết văn hóa của dân tộc Việt Nam còn là
bằng chứng về quá trình đấu tranh trong xã hội Việt Nam để xác định mô hình phát triển của quốc gia phong kiến Đại Việt. Song mặc dù đã có một
Trần Nghệ Tông phê phán lối rập khuôn thể chế Trung Hoa của “bọn học trò mặt trắng”(1), một Hồ Quý Ly chê bai những cây đại thụ của Tống nho
Trung Quốc là “học rộng nhưng ít tài”(2), chính quyền cũng như giới trí thức Việt Nam thời Lý ­ Trần và cả Hồ sau đó vẫn không đưa ra được một
học thuyết chính trị nào hoàn toàn độc lập với mô hình phương Bắc. Như một dòng chảy ngầm, sự khủng hoảng tư tưởng ấy đã liên tục đặt xã hội Việt
Nam vào tình trạng bất ổn định về chính trị, kể cả sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh. Cho nên sau những xáo trộn chính trị buổi
đầu, nhà Lê đã dứt khoát chọn Nho giáo như lý thuyết độc tôn, mô hình chính thống. Dĩ nhiên hệ quả tất yếu của việc tiếp nhận Nho giáo là việc cải tạo
xã hội để tiếp nhận Nho giáo, điều này vô hình trung cũng tạo ra những khoảng cách mới giữa tư tưởng chính thống với văn hóa truyền thống, giữa xã
hội và chính quyền. Học thuyết chính trị của Khổng Tử chính là đặt vấn đề bổ sung và hoàn thiện mô hình xã hội tông pháp chế định hình ở Trung
Quốc từ thời Ân Thương, nhưng xã hội người Việt thời cổ không hề có chế độ tông pháp với quy định nghiêm ngặt về dòng đích dòng thứ như truyền
thuyết bánh chưng bánh dày đã ít nhiều cho thấy. Việc tiếp nhận Nho giáo do đó cũng vấp phải những trở ngại từ phía văn hóa truyền thống, chẳng
hạn thiết chế làng xã cổ truyền Việt Nam với những tàn dư dân chủ nguyên thủy đã chặn nhiều yếu tố Nho giáo chính thống lại ngoài lũy tre làng. Quá
trình dân tộc hóa như vậy khiến hệ thống Nho giáo quan phương thiên về hoạt động quản lý của chính quyền trở thành chỗ hội tụ nhiều mâu thuẫn xã
hội và chính trị trong đất nước, nơi phản ảnh nhiều xung đột quyền lợi và nhận thức của xã hội, mà bằng chứng điển hình là sự phân hóa phức tạp của
tầng lớp nho sĩ sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Cho nên cuộc đảo chính của Mạc Đăng Dung năm 1527 mặc dù mang cái hình thức chính
trị ít nhiều ngẫu nhiên cũng là một hệ quả tất yếu trên con đường phát triển của văn hóa dân tộc: sau Trần Thủ Độ ­ Trần Cảnh rồi Hồ Quý Ly, các lực
lượng chính trị trong quốc gia Đại Việt từ Mạc Đăng Dung rồi nhiều chúa Trịnh và chúa Nguyễn sau đó đã liên tục kế tiếp nhau phủ nhận lý thuyết
chính trị thiên mệnh của Nho giáo chính thống, đưa lịch sử chính trị Việt Nam thời phong kiến trở về quỹ đạo phù hợp với trình độ phát triển của sức
sản xuất đương thời. Cùng với việc mở rộng về phía nam của bản đồ Đại Việt và sự phát triển của kinh tế thương nghiệp từ thế kỷ XVI, tình hình này 1/5
http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0501v.htm#nghia68
2/28/2018 Tap chi Han Nom so 1/2005

sản xuất đương thời. Cùng với việc mở rộng về phía nam của bản đồ Đại Việt và sự phát triển của kinh tế thương nghiệp từ thế kỷ XVI, tình hình này
là tiền đề xã hội cho một giai đoạn phát triển khác, phong phú mà cũng phức tạp hơn của Nho giáo ở Việt Nam.

Là động lực tư tưởng dẫn tới cuộc chiến tranh trung hưng của nhà Lê sau khi bị nhà Mạc cướp ngôi, lý thuyết chính trị Nho giáo cũng chịu tác động
của cuộc chiến tranh này như một động lực phản hồi tương ứng. Cho nên mặc dù thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền thống trị với nhà Mạc,
nhà Lê Trung hưng vẫn không thể quay về với mô hình Nho giáo đời Lê Thánh Tông. Xung đột Lê ­ Mạc chưa chấm dứt thì mâu thuẫn Trịnh ­
Nguyễn đã nảy sinh, và tình hình không song hành giữa lịch sử pháp quyền với lịch sử tư tưởng trước kia lại tiếp tục trình hiện qua sự phát triển của
Nho giáo. Như một sản phẩm bất khả kháng của thực tế lịch sử, tổ chức quân chính lồng vào bộ máy quan liêu của các chính quyền từ Mạc, Lê ­
Trịnh, họ Nguyễn Đàng Trong rồi Tây Sơn, Nguyễn ánh và cả nhà Nguyễn đến đầu đời Minh Mạng luôn bộc lộ tính chất chông chênh trên đường
hướng trị đạo Nho giáo, còn với các ông vua không ngai trong vương tộc họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Tùng, Trịnh Tráng..., thiết chế “đã có vua
lại có chúa” quái gở của chính quyền Lê ­ Trịnh đã thật sự là một báng bổ đối với chuẩn mực chính trị Nho gia. Chính tình hình nói trên đã làm dấy
lên trào lưu thực học mà thật ra là sự đối phó học thuật trong cuộc đấu tranh không cân sức với lực lượng phong kiến quân phiệt của một bộ phận nho
sĩ quan liêu ở Đàng Ngoài thế kỷ XVIII. Không lạ gì mà sau Nguyễn Bỉnh Khiêm, các bậc đại nho Việt Nam từ Lê Quý Đôn tới Phan Huy Chú, Cao
Xuân Dục... hầu như đều là các sử gia, các nhà bách khoa chứ không có mấy người chuyên về triết học. Nguyên lý Nho giáo được vận dụng một cách
nửa vời đã hạn chế giới trí thức Nho học Việt Nam đi sâu vào các vấn đề triết học và phương pháp luận, trong khi thực tiễn đồ vương tranh bá lại
khiến các tập đoàn phong kiến đều đề cao đạo đức hiếu trung. Dưới áp lực chính trị ấy, các chuẩn mực xã hội Nho giáo cũng tán phát sâu rộng hơn vào
sinh hoạt xã hội ở Việt Nam, dĩ nhiên cũng dễ chuyển hóa thành tín điều hay sai lệch về nội dung vì không xác lập được mối quan hệ vững chắc với lý
luận. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục khoa cử đã bình thường hóa sự hiện diện của Nho giáo trong đời sống xã hội, tầng lớp nho sĩ đông đảo hơn trước
trở thành lực lượng phổ biến Nho giáo trong sinh hoạt làng xã, nên khác với giai đoạn trước được tiếp nhận chủ yếu bởi chính quyền và trí thức, từ thế
kỷ XVI trở đi Nho giáo đã thấm sâu hơn vào nhiều cơ tầng của văn hóa dân gian. Các bản hương ước ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thế kỷ
XVII ­ XVIII cũng như nhiều truyện Nôm khuyết danh thế kỷ XVIII ­ XIX cho thấy điều này. Chính trên cơ sở đó mà hệ thống Nho giáo nhân dân hóa
ở Việt Nam đã hình thành, hệ thống có thể coi như một dòng phái sinh không hoàn chỉnh trong ý nghĩa là một hệ thống chuẩn mực xã hội đồng thời
không thuần nhất trên phương diện là một hệ thống học thuật ­ lý luận song lại có vai trò cũng như tác dụng xã hội phổ biến hơn so với loại Nho giáo
quan phương của giai cấp phong kiến. Quá trình nhân dân hóa kế tiếp quá trình dân tộc hóa đã góp phần xác lập diện mạo của Nho giáo ở Việt Nam,
nhưng khác với Đàng Ngoài mà các quá trình xã hội luôn bị kìm chế bởi nền kinh tế tự cấp tự túc kiểu tiểu nông, quá trình này lại diễn ra một cách
sinh động ở Đàng Trong, trạm trung chuyển quan trọng đưa con người Việt Nam bước vào không gian Đông Nam Á.

Sau khi cục diện Nam Bắc triều chính thức mở ra, các chính quyền phong kiến ở Việt Nam đều phát triển theo xu thế quân phiệt hóa. Nhưng ở Thuận
Quảng thế kỷ XVI rồi Đàng Trong thế kỷ XVII trở đi thì sự khủng hoảng ấy của mô hình quân chủ Nho giáo lại được giải quyết trong những điều kiện
khác. Được kích thích bởi kinh tế ngoại thương, văn hóa Đông Nam á đương thời đã phát triển theo một quỹ đạo ngày càng xa lạ với mô hình Đông á.
Cho nên sau khi bước vào môi trường văn hóa Đông Nam á trong hoàn cảnh biệt lập về chính trị với Đàng Ngoài, chính quyền Đàng Trong thế kỷ
XVII ­ XVIII đã tiến tới thiết chế văn hóa ­ tư tưởng “Nho Thích song hành”(3), một thiết chế khá gần gũi với mô hình “chính trị ­ tôn giáo hợp nhất”
phổ biến ở nhiều quốc gia trong khu vực đương thời nhưng khác hẳn nếu không nói là trái ngược với lý thuyết chính trị Nho giáo. Nhưng mô hình này
lại đẩy mạnh xu thế nhân dân hóa của Nho giáo, vì vào thế kỷ XVII ­ XVIII thì Phật giáo đại thừa là tôn giáo phổ biến nhất trong xã hội người Việt ở
Đàng Trong. Sự phát triển “lệch chuẩn” của bộ phận Nho giáo ở Đàng Trong vì thế đã đưa tới những kết quả tích cực khách quan đối với lịch sử vùng
đất phía nam đất nước. Bởi vì nếu mô hình “quân bất quân thần bất thần” của Nho giáo ở Đàng Ngoài luôn tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ cung đình, nuôi
mầm biến loạn thì yếu tố “vô thần” trong thiết chế Nho Thích hỗn dung của Nho giáo ở Đàng Trong lại giúp chính quyền và nhân dân Việt Nam ở
vùng này nhất hóa chứ không đồng hóa nhiều nhóm cư dân có nguồn gốc văn hóa và lịch sử, phong tục và tín ngưỡng khác nhau thành một cộng đồng.
Phương thức phát triển hội tụ của văn hóa Việt Nam ở Đàng Trong đã đưa tới cho Nho giáo ở vùng này một nguồn sinh lực mới, mà biểu hiện tập
trung là quá trình nhân dân hóa qua thực tiễn xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, tổ chức xã hội và bảo vệ biên cương. Đáng chú ý là sự tan rã của
đế chế nhà Minh thế kỷ XVII đã đẩy nhiều di thần phản Thanh phục Minh Trung Hoa tỵ nạn chính trị xuống Đông Nam á trong đó có Đàng Trong, và 2/5
http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0501v.htm#nghia68
2/28/2018 Tap chi Han Nom so 1/2005

đế chế nhà Minh thế kỷ XVII đã đẩy nhiều di thần phản Thanh phục Minh Trung Hoa tỵ nạn chính trị xuống Đông Nam á trong đó có Đàng Trong, và
nhiều yếu tố văn hóa Hoa Nam trong đó có Nho giáo cũng được du nhập rồi tái tạo ở Đàng Trong trong những điều kiện mới, chẳng hạn phong khí nho
cổ (thương nhân là nhà nho) rất thịnh hành từ thời Minh Thanh được du nhập đã ảnh hưởng tới Nho giáo ở Đàng Trong thế kỷ XVII ­ XVIII. Các nho
sĩ Minh hương trong Sơn hội Gia Định như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Huỳnh Ngọc Uẩn đều là con nhà thương nhân, đều từng đi buôn trước
khi tham gia chính quyền Nguyễn ánh. Chính loại Nho giáo thương nhân tinh túy của hệ thống Nho giáo nhân dân hóa ở Đàng Trong này đã chiến
thắng loại Nho giáo sĩ tộc đỉnh cao của hệ thống Nho giáo quan phương ở Đàng Ngoài trong nội chiến Tây Sơn ­ Nguyễn ánh, giúp tập đoàn Nguyễn
ánh nhập thân vào trào lưu thống nhất đất nước cuối thế kỷ XVIII để đưa ngọn cờ phục thù của mình về lại Phú Xuân rồi tiến tới Thăng Long.

Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh lâu dài giữa hệ thống Nho giáo nhân dân hóa với hệ thống Nho giáo quan phương thì việc thống nhất đất nước năm
1802 chỉ là một trong những kết quả. Sau 1832, những nỗ lực về chính trị của Minh Mạng đã ít nhiều đưa Nho giáo quan phương ở Việt Nam trở vào
khuôn khổ Nho giáo chính thống, nhưng lúc bấy giờ thì hệ thống học thuật ­ lý luận Nho giáo đã không còn khả năng phản ảnh chính xác và toàn diện
các quá trình xã hội trong đất nước nữa. Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn với lý luận “dĩ nông vi bản” trong bối cảnh kinh tế thương
nghiệp mà đặc biệt là ngoại thương ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX là một ví dụ. Hệ thống Nho giáo quan phương vừa lạc hậu về học thuật ­ lý luận
vừa cực đoan về chuẩn mực xã hội của triều Nguyễn đã dẫn tới sự bế tắc của ý thức hệ chính thống. Trong khi đó, mặc dù không thể vươn tới chỗ trở
thành một học phái thống nhất trên toàn quốc, hệ thống Nho giáo nhân dân hóa vẫn tiếp tục phát triển một cách tự phát với nhiều biến thái địa
phương. ở miền Bắc, nhà nho tiến bộ Cao Bá Quát nêu ngọn cờ “Bình Dương Bồ Bản không Nghiêu Thuấn, Mục Dã Minh Điền có Vũ Thang” để đấu
tranh võ trang chống lại triều đình, còn ở miền Nam, nhà nho thương dân Nguyễn Đình Chiểu đề xướng việc cải tổ chính quyền “Thái sư cách chức về
nhà làm dân” trong Lục Vân Tiên, đưa ra một chủ trương chính trị dung hòa hơn để giải quyết các vấn đề xã hội. Cuộc đấu tranh dằng dai giữa hai hệ
thống này còn thể hiện qua nhiều hiện tượng, lãnh vực và quá trình xã hội khác, gây ra nhiều trở ngại cho việc ổn định xã hội cũng như thống nhất văn
hóa sau 1802. Nhưng từ 1858 trở đi thì hệ thống Nho giáo nhân dân hóa lại từng bước vươn lên chiếm phần ưu thắng. Từ ngọn cờ chống Pháp “chẳng
nghe Thiên tử chiếu” ở Nam Kỳ sau Hòa ước 1862 tới các cuộc vận động Minh tân, Duy tân, Đông du, Đông kinh nghĩa thục đầu thế kỷ XX, hệ thống
này đã quy tụ được lực lượng nhân dân và sĩ phu yêu nước để tiến hành các hoạt động yêu nước và tiến bộ. Trong điều kiện bị giới hạn về phương tiện
lý thuyết của toàn dân tộc trong cuộc đối đầu với phương Tây tư bản, hệ thống Nho giáo nhân dân hóa này đã thay thế Nho giáo quan phương của giai
cấp phong kiến, góp phần kéo dài sự tồn tại của nhiều chuẩn mực xã hội Nho giáo trong sinh hoạt xã hội ở Việt Nam thế kỷ XX.

Bên cạnh đó, tuy sau khi Minh Mạng xóa bỏ chế độ quân chính, bố trí các văn quan vào vị trí chủ chốt trong bộ máy hành chính từ trung ương tới địa
phương thì cuộc đấu tranh dằng dai giữa hai lực lượng phong kiến quân phiệt và phong kiến quan liêu từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đã bắt đầu
ngã ngũ, nhưng được sử dụng chủ yếu như một công cụ chính trị của các lực lượng quân phiệt trong một thời gian dài như vậy, Nho giáo quan phương
ở Việt Nam đã đi lệch khỏi quỹ đạo lý thuyết chính trị thiên mệnh của Nho giáo chính thống, điều này tô đậm thêm tình trạng phát triển không đồng
bộ giữa hệ thống học thuật ­ lý luận và hệ thống chuẩn mực xã hội của Nho giáo ở Việt Nam. Nho học quan phương thời Nguyễn mà đặc biệt là từ đời
Minh Mạng lại hướng hoạt động giáo dục vào con đường đào tạo đội ngũ cán bộ thừa hành, nên đã xảy ra tình hình áp đặt các chuẩn mực chính trị
vào đạo đức và mỹ học. Cho nên tìm hiểu Nho học ở Việt Nam, dễ nhận ra sự phiến diện về nội dung và nghèo nàn về sắc thái. Dường như ở Việt Nam,
Nho học chỉ mới là lý thuyết về một khuôn mẫu chính trị chứ chưa thực sự là một hệ tư tưởng, một thế giới quan. Thiếu một căn bản vững chắc về
triết học và phương pháp luận, nó không phản ảnh được các hiện tượng, lãnh vực và quá trình của hiện thực đời sống, của tiến trình lịch sử một cách
chính xác và toàn diện, và do đó cũng dễ dàng trở thành một loại ý thức hệ tán dương. Ngoại trừ một số lãnh vực có quan hệ trực tiếp với chính trị
như sử học và văn chương, ảnh hưởng của Nho học đối với nhiều lãnh vực sáng tạo tinh thần khác ở Việt Nam cũng mờ nhạt và phiến diện, chẳng hạn
ngoài một số nho sĩ Đàng Trong thế kỷ XVIII và Minh hương Nam Bộ thế kỷ XIX như Ngô Nhơn Tịnh, Trịnh Hoài Đức, Trương Hảo Hiệp giỏi cả cầm
kỳ thư họa, nho sĩ Việt Nam hầu như không có một truyền thống hội họa bác học. Tương tự, các bộ môn nghệ thuật truyền thống khác như âm nhạc,
điêu khắc, biểu diễn... dường như cũng không được tổng kết và nâng cao bằng các chế định mỹ học của Nho giáo chính thống, đây chính là nguyên

http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0501v.htm#nghia68 3/5
2/28/2018 Tap chi Han Nom so 1/2005

nhân lịch sử dẫn tới tình trạng ít nhiều giống như bị tách rời với truyền thống của nhiều bộ môn nghệ thuật khi Việt Nam chính thức bước vào thế giới
hiện đại một cách bị động từ thế kỷ XX.

*
* *

Khó mà tưởng tượng rằng nếu không có Nho giáo thì lịch sử và văn hóa Việt Nam đã phát triển ra sao, nhưng sự cố kết xã hội chung quanh một hệ
thống quan niệm bên ngoài đưa tới như vậy tất yếu cũng dẫn tới việc một quá trình cải tạo xã hội truyền thống. Bản thân sự cải tạo ấy mang một tính
chất hai mặt, nên kết quả của sự cải tạo ấy cũng mang một ý nghĩa hai mặt. Việc tìm hiểu Nho giáo với lịch sử Việt Nam do đó vẫn còn là một đề tài
nghiên cứu lớn, bởi vì như người ta đã thấy, các yếu tố Nho giáo mà đặc biệt là trong hệ thống chuẩn mực xã hội của nó vẫn tiếp tục song hành với sự
phát triển lịch sử và những biến động xã hội ở Việt Nam sau 1945 rồi sau 1975. Hơn thế nữa, quan sát việc tiếp thu chủ nghĩa xã hội khoa học với việc
tiếp thu Nho giáo, cũng dễ nhận ra những nét tương đồng: Việt Nam không có chế độ tông thân pháp nhưng vẫn tiếp nhận Nho giáo, cũng như không
có giai cấp vô sản công nghiệp nhưng vẫn tiếp thu chủ nghĩa M#c. Nho giáo là lý thuyết tổ chức xã hội nhưng được tiếp nhận để khẳng định chính
quyền, chủ nghĩa M#ác là học thuyết đấu tranh giai cấp nhưng được tiếp thu để giải phóng dân tộc. Sự tương đồng trong việc chuyển hóa chức năng ở
hai trường hợp này cũng đáng được tìm hiểu trên nhiều phương diện, và trong ý nghĩa ấy, việc tìm hiểu Nho giáo với lịch sử Việt Nam trong quá khứ
cũng có thể góp phần soi rọi nhiều khía cạnh trong hiện trạng và xu thế của lịch sử hiện đại Việt Nam.

C.T.T

CHÚ THÍCH:

(1) (2) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb. KHXH, H. 1985, tr.151 và 185.

(3) Xem Cao Tự Thanh: Nho giáo ở Gia Định, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1996, tr.22­28.

Tóm tắt nội dung:

Khởi đi từ cách hiểu “Hiện diện trong nhiều thế kỷ như một mô hình tổ chức và quản lý xã hội mang tính chất chính thống, một phương thức hoạt động
và phát triển văn hóa đóng vai trò chủ đạo, Nho giáo đã để lại ảnh hưởng sâu đậm của nó trong lịch sử và văn hóa Việt Nam”, bài viết đặt vấn đề tìm hiểu
Nho giáo ở Việt Nam sau thời Bắc thuộc với con đường phát triển và ảnh hưởng văn hóa của nó trong lịch sử Việt Nam.

Bài viết coi sự phát triển của Nho giáo ở Việt Nam là một quá trình gồm hai giai đoạn mang hai nội dung chủ yếu. Giai đoạn đầu là quá trình dân tộc hóa
từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, chủ yếu là về chính trị và pháp quyền, giai đoạn sau là quá trình nhân dân hóa từ thế kỷ XVI, chủ yếu là về văn hóa và xã hội.
Tình hình nói trên cùng với việc mở rộng về phía nam của bản đồ Đại Việt, sự phát triển của kinh tế thương nghiệp... từ thế kỷ XVI đã làm hình thành
trong Nho giáo ở Việt Nam hai hệ thống Nho giáo khác nhau là Nho giáo quan phương và Nho giáo nhân dân hóa. Cuộc đấu tranh dằng dai giữa hai hệ
thống này đã thể hiện trên nhiều phương diện, với nhiều hình thức và ở nhiều mức độ từ thế kỷ XVI trở đi. Nhưng mặc dù dựa vào hệ thống Nho giáo
nhân dân hóa ở Đàng Trong mà giành được thắng lợi trong nội chiến cuối thế kỷ XVIII, triều Nguyễn thế kỷ XIX lại quay về với Nho giáo quan phương
trên một đường hướng tư tưởng phục cổ, quân phiệt và ngu dân, nên trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX Nho giáo Việt Nam vẫn bất lực trong việc phản ảnh
các yếu tố và động thái mới trong đất nước.

Kết thúc, bài viết liên hệ việc tiếp nhận Nho giáo với việc tiếp nhận chủ nghĩa xã hội khoa học ở Việt Nam, và cho rằng việc tìm hiểu Nho giáo có thể góp
http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0501v.htm#nghia68 4/5
2/28/2018 Tap chi Han Nom so 1/2005

Kết thúc, bài viết liên hệ việc tiếp nhận Nho giáo với việc tiếp nhận chủ nghĩa xã hội khoa học ở Việt Nam, và cho rằng việc tìm hiểu Nho giáo có thể góp
phần soi rọi nhiều khía cạnh trong hiện trạng và x

http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0501v.htm#nghia68 5/5

Вам также может понравиться