Вы находитесь на странице: 1из 304

BAN CHỈ ĐẠO ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU

CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM

CỘNG ĐỒNG
CÁC DÂN TỘC
VIỆT NAm

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM


BAN CHỈ ĐẠO biên soạn
TS. BẾ TRƯỜNG THÀNH Phó Chủ nhiệm Thường trực Uỷ ban Dân tộc, Trưởng Tiểu ban Nội dung
và Văn kiện Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam - Trưởng ban
PGS. TS. NGUYỄN VĂN HUY Nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
TS. NGUYỄN QUÝ THAO Phó Tổng Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
TS. HOÀNG VĂN PHẤN Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, UBDT, thành viên Tiểu ban Nội dung và Văn kiện
TS. PHAN VĂN HÙNG Viện trưởng Viện Dân tộc, UBDT, thành viên Tiểu ban Nội dung và Văn kiện
CN. BÙI VĂN LỊCH Phó Chánh Văn phòng, UBDT, thành viên Tiểu ban Nội dung và Văn kiện
TS. HÀ THỊ HẢI YẾN Giám đốc Công ty CP Sách dân tộc, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam

CÁC TÁC GIẢ THAM GIA BIÊN SOẠN


VI VĂN AN NGUYỄN ANH NGỌC MAI THANH SƠN
HOÀNG BÉ NGUYỄN VĂN HUY BẾ TRƯỜNG THÀNH
NGUYỄN TRUNG DŨNG LƯU HÙNG TRẦN THỊ THU THUỶ
LÊ DUY ĐẠI PHẠM VĂN LỢI CẦM TRỌNG
VÕ THU GIANG VÕ MAI PHƯƠNG LA CÔNG Ý
CHU THÁI SƠN
Lời nói đầu

Chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ
nhất - năm 2010, Ban Chỉ đạo Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam giao
cho Uỷ ban Dân tộc (Tiểu ban Nội dung và Văn kiện Đại hội) phối hợp với Bộ Giáo
dục và Đào tạo (Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) biên soạn, xuất bản cuốn sách
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam làm tài liệu và tặng phẩm cho Đại hội.
Cuốn sách gồm 3 phần:
Phần một giới thiệu khái quát về cộng đồng các dân tộc Việt Nam và nội dung,
ý nghĩa của Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Phần hai giới thiệu bức tranh chung với những nét khái quát về 54 dân tộc sinh
sống trên đất nước Việt Nam. Mỗi dân tộc có nét riêng về lịch sử, văn hoá, phong
tục tập quán, hoạt động kinh tế,… liên quan đến những nhu cầu thiết yếu nhất
của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng như ăn, mặc, ở, phương tiện vận chuyển, quan hệ
xã hội, cưới xin, sinh đẻ, ma chay, thờ cúng, lễ tết, học, văn nghệ,…
Những nội dung này là kết quả nghiên cứu của một số nhà dân tộc học đã
được công bố trong cuốn sách Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam do PGS.TS.
Nguyễn Văn Huy chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản lần đầu năm 1997 và
đã tái bản nhiều lần.
54 dân tộc giới thiệu trong cuốn sách này được sắp xếp theo thứ tự A, B, C,...
Cách viết tên các dân tộc về cơ bản được thống nhất theo Danh mục thành phần
các dân tộc Việt Nam do Tổng cục Thống kê công bố.
Về số liệu dân số, cuốn sách này sử dụng kết quả Tổng điều tra dân số năm 1999.
Phần ba giới thiệu các thông tin về Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc
thiểu số Việt Nam:
- Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 08 - 5 - 2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
lãnh đạo Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam;

3
- Quyết định số 757/QĐ-TTg ngày 08 - 06 - 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam;
- Quyết định số 05/QĐ-BCĐĐHDTTS ngày 26 - 02 - 2010 của Ban Chỉ đạo Đại
hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam phê duyệt Kế hoạch tổ chức Đại hội Đại
biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam;
- Danh sách các thành viên Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức, các Tiểu ban Đại hội Đại
biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam;
- Thông tin về các đại hội cấp tỉnh, huyện: thời gian đại hội, số lượng đại biểu
chính thức;
- Danh sách đại biểu chính thức tham dự Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân
tộc thiểu số Việt Nam.
Xin cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Văn Huy, nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam và các cộng sự đã tham gia biên soạn cuốn sách này.
Do thời gian biên soạn không nhiều, mặc dù Ban Chỉ đạo và Ban biên tập đã rất
cố gắng song cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong bạn đọc lượng
thứ. Mọi ý kiến đóng góp của bạn đọc về nội dung sách xin gửi về : Văn phòng
Uỷ ban Dân tộc - 80 Phan Đình Phùng - Ba Đình - Hà Nội. ĐT: 3.734 4737 hoặc
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam - 81 Trần Hưng Đạo - Hoàn Kiếm - Hà Nội.
ĐT : 3.826 4972.
Trân trọng giới thiệu với các đại biểu cùng bạn đọc.

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM

4
“Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí ấy
không bao giờ thay đổi.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội
các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plâycu
ngày 19 - 4 - 1946
(trích)

"Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia-rai hay Ê-đê, Xơ-đăng hay Ba-na
và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.
Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.
Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu dây liên lạc, hai là vì có kẻ
xui giục để chia rẽ chúng ta.
Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ
đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ” để săn sóc cho
tất cả các đồng bào.
Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy
nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để
ủng hộ Chính phủ ta.
Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để
mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không
bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự
do, độc lập của chúng ta."

6
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm hỏi các vị sư sãi, phật tử, đồng bào dân tộc Khmer ở chùa Ghositaram
ấp Cù Lao, xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. (Ảnh : TTXVN)

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng cộng sản việt nam
(trích)

"Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách
mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ
cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân
bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Củng cố và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát
huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu
số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt
công tác dân vận. Chống các biểu hiện kì thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc."

7
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết với các cháu thiếu niên nhi đồng huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. (Ảnh : TTXVN)

HIẾN PHÁP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NĂM 1946
(Đã được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua ngày 9-11-1946)
(trích)
"Điều 2: Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia."
"Điều 8: Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện
để chóng tiến kịp trình độ chung."

HIẾN PHÁP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NĂM 1959
(Đã được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua ngày 31-12-1959)
(trích)
"Điều 3: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc.
Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có
nhiệm vụ gìn giữ và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ
các dân tộc đều bị nghiêm cấm.
Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục, tập quán, dùng tiếng nói, chữ viết, phát
triển văn hoá dân tộc của mình."

8
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với đồng bào dân tộc. (Ảnh : TTXVN)

HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(Đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15-4-1992)
(trích)
"Điều 5: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các
dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi
hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số."

9
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng với đồng bào dân tộc buôn Kmrông Prông B,
xã Ea Tu, thành phố Buôn Ma Thuột. (Ảnh : TTXVN)

Nghị quyết Số 22-NQ/TW ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị


về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển
kinh tế - xã hội miền núi
(trích)

"Để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt, pháp luật phải đảm
bảo quyền bình đẳng đó; mặt khác, phải có chính sách và tạo điều kiện để nhân dân các dân
tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế, văn hoá, từng bước nâng cao năng suất lao
động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, coi trọng đào tạo cán bộ người dân
tộc; tôn trọng và phát huy những phong tục, tập quán và truyền thống văn hoá tốt đẹp của các
dân tộc. Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc
văn hoá của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá của dân tộc khác và góp phần phát triển nền
văn hoá chung của cả nước, tạo ra sự phong phú, đa dạng trong nền văn minh của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam."

10
CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM BÌNH ĐẲNG,
ĐOÀN KẾT, TÔN TRỌNG, GIÚP NHAU CÙNG PHÁT TRIỂN

Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước, các dân tộc luôn kề vai sát cánh, gắn bó máu thịt bên nhau trong
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai địch họa và dựng xây đất nước. Các dân
tộc trên đất nước ta là một cộng đồng thống nhất trong đa dạng, cư trú phân tán và đan
xen nhau trên mọi vùng miền của đất nước với cơ cấu dân số và trình độ phát triển không
đồng đều. Bản sắc văn hoá từng dân tộc góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền
văn hoá Việt Nam. Đoàn kết các dân tộc luôn là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự
nghiệp cách mạng nước ta.
Bình đẳng và đoàn kết các dân tộc là đường lối, chủ trương nhất quán của Đảng ta được
xác định ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra chủ trương, chính sách
dân tộc với nội dung cơ bản là: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc
ngày càng được củng cố và tăng cường. Giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc,
nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành chính quyền về
tay nhân dân, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; tiến hành chín năm kháng
chiến chống thực dân Pháp làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu”. Sau năm 1954, toàn dân tộc triệu người như một, vừa ra sức sản xuất
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Dân tộc ta đã viết nên bản anh hùng ca chói lọi về sức mạnh đại
đoàn kết, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975: giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước. Bước vào thời kì mới, cả nước tiếp tục phát huy truyền
thống đoàn kết trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã vượt qua bao khó khăn thử thách,
giành nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc Đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng cộng
đồng dân tộc thống nhất. Trong mối quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta thì đoàn kết
thống nhất là đặc điểm nổi bật nhất, xuyên suốt mọi thời kì trong lịch sử dân tộc. Các
dân tộc sinh sống trên đất nước ta trong những giai đoạn khác nhau, nhưng đều có chung
một vận mệnh lịch sử. Đoàn kết gắn bó là đảm bảo sự sống còn của từng dân tộc cũng
như của cả cộng đồng các dân tộc trong quá trình phát triển. Sự liên kết các thành phần
dân cư sớm có ý thức tự giác, cùng chung sống trong một đất nước ngay từ buổi bình
minh của lịch sử đã tạo nên một cộng đồng quốc gia dân tộc bền vững. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc ngày càng được củng cố và phát triển,
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng.

11
Các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng
về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Vùng dân tộc và
miền núi nước ta chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên, bao gồm 21 tỉnh miền núi vùng cao,
23 tỉnh có miền núi và 10 tỉnh đồng bằng có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Suốt
dọc biên giới phía Bắc và phía Tây có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với các nước
láng giềng trong khu vực và trên thế giới. Miền núi là nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, đa dạng phục vụ cho sự phát triển đất nước, nơi thượng nguồn của những con
sông lớn, có hệ thống rừng phòng hộ, rừng đặc dụng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc bảo vệ môi trường sinh thái. Trong lịch sử phát triển đất nước, địa bàn cư trú của đồng
bào các dân tộc thiểu số là địa bàn chiến lược xung yếu, là phên giậu trấn giữ, bảo vệ biên
cương của Tổ quốc. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược,
núi rừng Việt Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ… đã trở thành những khu
căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là nơi cung cấp sức người, sức của, góp phần tạo nên
thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Các dân tộc ở nước ta có quy mô dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều
nhau, song đồng bào các dân tộc có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng đất nước. Theo số liệu điều
tra dân số năm 2009, nước ta có 54 thành phần dân tộc, trong đó dân số của 53 dân tộc thiểu
số chiếm khoảng 14% số dân của cả nước. Trong các dân tộc thiểu số, quy mô dân số cũng có
sự chênh lệch đáng kể, có những dân tộc thiểu số có số dân trên một triệu người (Tày, Thái,
Mường, Khmer, Hoa), nhưng cũng có những dân tộc thiểu số có số dân rất ít, một số dân tộc
thiểu số có số dân dưới 1.000 người (Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu).
Hình thái cư trú phổ biến của các dân tộc ở nước ta là sống xen kẽ nhau. Xu hướng sống
xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng có chiều hướng gia tăng, điều đó tạo điều kiện thuận lợi để
các dân tộc tăng cường quan hệ mọi mặt, tăng cường hiểu biết lẫn nhau cùng tiến bộ trong
cuộc sống và phát triển sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các dân tộc, cùng
nhau thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trình độ
phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau giữa các dân tộc hiện nay do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó có nguyên nhân do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt ở địa bàn cư trú của
một số dân tộc thiểu số. Nhiều dân tộc đã đạt được đến trình độ cao về phát triển kinh tế - xã hội,
nhưng một số dân tộc vẫn còn ở trình độ phát triển rất thấp.
Mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá riêng, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng trong tính
thống nhất của nền văn hoá Việt Nam. Bản sắc văn hoá của các dân tộc được hình thành và
phát triển gắn liền với lịch sử dân tộc, điều đó đã tạo nên những sắc thái văn hoá riêng của
từng dân tộc. Sự thống nhất trong đa dạng là đặc điểm của nền văn hoá cộng đồng các dân
tộc ở nước ta.
Thực hiện sự nghiệp Đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhất là từ sau khi Bộ Chính
trị ra Nghị quyết 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội
miền núi (tháng 11 - 1989) và Ban Chấp hành Trung ương có Nghị quyết số 24-NQ/TW về
công tác dân tộc (tháng 3 - 2003), Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương và các địa phương
đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hoá chủ trương đường lối của Đảng thành các chính sách

12
cụ thể, các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường củng cố đoàn kết
các dân tộc, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ
vững quốc phòng, an ninh,...
Để hoạch định chính sách dân tộc phù hợp với đặc thù của mỗi vùng miền, của từng đối
tượng cụ thể và để chính sách ban hành ra sớm đi vào cuộc sống, miền núi, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số đã được phân định theo điều kiện địa lý tự nhiên và theo trình độ phát
triển kinh tế - xã hội. Bước đầu tiên là phân định: miền núi, vùng cao, vùng có miền núi và
vùng đồng bằng có dân tộc thiểu số sinh sống; tiếp đó, phân chia vùng đồng bào dân tộc
thiểu số thành 3 khu vực theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội với năm tiêu chí: về đời
sống; về cơ sở hạ tầng; về các yếu tố xã hội; về điều kiện sản xuất và về điều kiện tự nhiên
của địa bàn cư trú. Năm 1997 đã xác định: Khu vực I - Bước đầu phát triển, gồm 99 xã. Khu
vực II - Tạm thời ổn định, gồm 1.885 xã. Khu vực III - Đặc biệt khó khăn, gồm 1.715 xã.
Từ việc phân định này đã hình thành và triển khai thực hiện Chương trình phát triển kinh
tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa từ năm 1998 (giai đoạn
một 1999 - 2005 thực hiện tại 2.412 xã, giai đoạn hai 2006 – 2010 thực hiện tại 1.644 xã).
Tập trung giải quyết giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo theo Nghị
quyết 30A của Chính phủ. Việc lựa chọn các địa bàn đặc biệt khó khăn để tập trung đầu tư
thể hiện sự đổi mới về nhận thức và phương pháp xây dựng chính sách dân tộc và tổ chức
thực hiện công tác dân tộc của Đảng. Chọn nơi khó nhất, nghèo nhất để tập trung ưu tiên
đầu tư, hỗ trợ, cách làm này đã tác động rất lớn trong việc hạn chế khoảng cách chênh lệch
về đời sống kinh tế - xã hội giữa các vùng miền và các dân tộc. Giải quyết đúng đắn, hài
hoà việc tập trung đầu tư, hỗ trợ theo vùng và đối với từng dân tộc là yêu cầu cơ bản của
việc đổi mới nội dung và phương thức công tác dân tộc hiện nay.
Thực hiện công cuộc đổi mới, trong những năm qua, đời sống đồng bào các dân tộc thiểu
số đã được cải thiện một bước. Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3 - 4%/năm; kết cấu hạ tầng,
nhất là giao thông nông thôn, thuỷ lợi, điện, trường học, trạm xá được xây dựng khá; đất
sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt, nhà sinh hoạt cộng đồng được quan tâm giải quyết; số nhà
tạm bợ, dột nát giảm nhanh. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có
chuyển biến tích cực. Hệ thống chính trị được củng cố một bước, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số tại chỗ được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng; chính sách dân tộc được thực hiện tốt hơn.
Quốc phòng, an ninh ở vùng dân tộc và miền núi vùng sâu, vùng xa được tăng cường. Chính trị
ổn định, kinh tế phát triển, xã hội đồng thuận, dân tộc đoàn kết. Khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức tiếp
tục được củng cố và tăng cường, sức mạnh của toàn dân tộc được phát huy trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đạt được những kết quả trên là do đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, nội dung Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác dân tộc phù hợp, đáp
ứng được đòi hỏi của các giai cấp, tầng lớp xã hội; hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước
ngày càng được bổ sung, hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển của đời sống xã hội; cấp uỷ,
tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân có nhiều chuyển biến, tiến
bộ trong công tác vận động quần chúng; nhân dân các dân tộc luôn đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ

13
nhau trong xây dựng và phát triển; dân chủ ở cơ sở được phát huy, góp phần xây dựng quan hệ
gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng địa
phương ngày càng được sử dụng, phát huy có hiệu quả hơn.
Chính sách dân tộc là cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề
dân tộc, tác động trực tiếp đến các thành phần dân tộc, đến mối quan hệ giữa các dân tộc
trong nước và quan hệ với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Xét về mục tiêu, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là khai thác mọi tiềm năng đất nước để phục vụ nhân dân,
cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống con người, đưa đồng bào các dân tộc thoát khỏi
đói nghèo và lạc hậu, thực hiện được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Đại đoàn kết các dân tộc là sức mạnh Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dựng
nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, như lời Bác Hồ kính yêu đã dạy:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.

Sinh thời Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta đã tổ chức hai Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu
số ở hai miền Bắc và Nam. Nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của năm 2010, Ban Bí thư quyết
định tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đây là sự kiện chính
trị - xã hội quan trọng trong đời sống cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhằm tiếp tục tổng
kết, đánh giá công tác dân tộc, khẳng định đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc; khẳng định, tôn vinh và biểu dương công lao đóng
góp to lớn của các dân tộc thiểu số đối với thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam. Đại hội
là diễn đàn giao lưu, trao đổi, tạo sự đồng thuận và niềm tin vững chắc của đồng bào các dân
tộc vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Đây
cũng là nguyện vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc thiểu số trong cả nước. Đại hội là
biểu tượng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thống nhất ý chí và hành động vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Quá trình tiến hành Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu
toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, đặc biệt đối với vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời là dịp để tiếp tục nâng
cao nhận thức, hành động cách mạng của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân
trong việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước, đường lối chiến
lược của Đảng về chính sách dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để lãnh đạo việc tổ chức Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp tiến tới Đại hội Đại
biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam đạt kết quả tốt, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ
thị số 35-CT/TW, ngày 8 - 5 - 2009, yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa
phương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
- Quán triệt sâu rộng về mục đích, ý nghĩa của việc tổ chức Đại hội Đại biểu các dân tộc
thiểu số các cấp, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và

14
các tầng lớp nhân dân nhằm phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc,
tạo khí thế thi đua sôi nổi trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; đẩy mạnh phát triển kinh tế -
xã hội, xoá đói, giảm nghèo, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đảm bảo quốc
phòng - an ninh, thiết thực lập thành tích chào mừng đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI và các sự kiện chính trị, lịch sử lớn của đất nước.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền tới các tầng lớp nhân dân Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác dân tộc. Chú trọng tuyên
truyền trong nước và tuyên truyền đối ngoại về kết quả thực hiện chính sách dân tộc và đại
đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
- Các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương
căn cứ tinh thần Chỉ thị này thành lập Ban Chỉ đạo Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các
cấp. Ban Chỉ đạo Đại hội toàn quốc do đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban,
lãnh đạo Uỷ ban Dân tộc làm Phó Trưởng ban Thường trực, thành viên gồm các đồng chí lãnh
đạo các bộ, ban, ngành Trung ương có liên quan. Ban Chỉ đạo Đại hội cấp tỉnh và huyện do
đồng chí Thường trực cấp uỷ hoặc Uỷ ban nhân dân làm Trưởng ban, thành viên gồm các đồng
chí lãnh đạo các cơ quan liên quan trực thuộc tỉnh, huyện.
- Từ năm 2010 trở đi, định kì 10 năm tiến hành tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các
dân tộc thiểu số Việt Nam một lần. Đại hội nhằm tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các
tập thể, cá nhân có thành tích trong phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội qua các thời kì, đặc biệt là trong thời kì đổi mới. Do vậy, các cấp uỷ đảng
cần chỉ đạo việc giới thiệu, chọn, cử đại biểu tham dự đại hội các cấp bảo đảm thực sự
tiêu biểu, xuất sắc, đại diện cho các dân tộc thiểu số, các thành phần, các giới, các thế
hệ, lĩnh vực, vùng, miền. Việc bình xét khen thưởng cho các tập thể, cá nhân có thành
tích phải có tác dụng động viên, lôi cuốn phong trào, theo đúng Luật Thi đua - Khen
thưởng và các quy định hiện hành.
- Giao cho Ban Cán sự Đảng Uỷ ban Dân tộc chủ trì xây dựng đề án Đại hội, trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện; chủ trì, phối hợp với Ban Dân vận Trung ương,
Ban Tuyên giáo Trung ương, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan liên
quan hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cấp uỷ và chính quyền các cấp triển khai tổ chức Đại hội.
Ngày 8-6-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 757/QĐ-TTg phê duyệt Đề án
Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam. Mục đích của Đại hội nhằm tiếp tục tổng kết,
đánh giá công tác dân tộc, khẳng định đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề
dân tộc và đại đoàn kết dân tộc; khẳng định, tôn vinh và biểu dương công lao đóng góp to lớn
của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước qua các thời kì. Nội dung
Đại hội: Tổng kết, đánh giá phong trào thi đua yêu nước trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong các thời kì cách mạng, đặc biệt là thời kì đổi mới,
hội nhập và phát triển; đánh giá tình hình, kết quả thực hiện công tác dân tộc từ Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đến nay và định hướng đến năm 2020.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX)
về công tác dân tộc, cần tập trung vào những nhiệm vụ, giải pháp sau:

15
- Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện đạt kết quả cao các nội dung Nghị quyết; rà
soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách đã triển khai; nghiên cứu xây dựng chính sách mới, tạo
chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp, nhất là ở cơ sở. Xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy, tổ
chức đảng, chính quyền các cấp, các ngành trong việc thực hiện chủ trương, chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước.
- Tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội vùng dân tộc thiểu số, trước hết là hoàn thành việc xây dựng các tuyến đường giao
thông đến trung tâm các xã, đường điện, trường học, trạm y tế, chợ, các công trình nước
sạch v.v... Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho đồng bào, nhất là đồng bào ở các xã đặc biệt khó khăn trong các huyện nghèo nhất
hiện nay. Tập trung giải quyết tốt nhu cầu về đất sản xuất, đất ở, nhà ở; giải quyết cơ bản
tình trạng du canh, du cư, di dân tự do, nhà ở dột nát, thiếu lương thực, thiếu nước sinh
hoạt; ngăn chặn, chấm dứt nạn phá rừng làm nương rẫy. Đầu tư xây dựng khu kinh tế quốc
phòng hoặc khu dân cư tập trung cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng
miền núi, biên giới, hải đảo. Xây dựng chính sách đặc thù hỗ trợ và phát triển các dân tộc
thiểu số còn rất ít người, đang gặp khó khăn.
- Phát huy tiềm năng và lợi thế của từng vùng, phát triển đa dạng các mô hình kinh tế hộ
gia đình theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến và tiêu thụ sản
phẩm, phát triển hàng hoá xuất khẩu; có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư vào vùng
dân tộc thiểu số; hỗ trợ đồng bào phát triển chăn nuôi, phát triển kinh tế rừng v.v...
- Chú trọng các chính sách phát triển nguồn nhân lực đối với vùng dân tộc thiểu số.
Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, củng cố vững chắc chất lượng phổ cập giáo
dục tiểu học; nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, nhất là hệ thống trường phổ
thông dân tộc nội trú. Tăng cường đầu tư và nhân rộng mô hình nhà nội trú dân nuôi, các
trường trung học cơ sở, trung học phổ thông có hình thức dân nuôi ở khu vực miền núi.
Bổ sung, sửa đổi các chính sách đối với trường phổ thông dân tộc nội trú, chính sách cử
tuyển, dự bị đại học, bố trí sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số. Phát triển hệ thống trường
phổ thông trung học dân tộc nội trú ở cấp huyện; củng cố, tăng cường xây dựng hệ thống
trường dự bị đại học, các lớp dự bị đại học để đào tạo nguồn nhân lực cho con em vùng
dân tộc thiểu số; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề cho thanh niên dân tộc
thiểu số; khuyến khích các doanh nghiệp trên địa bàn ưu tiên tuyển dụng lao động là con
em dân tộc thiểu số vào làm việc.
- Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đồng bào dân tộc thiểu số. Thực
hiện chủ trương Nhà nước mua bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở
những vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn. Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế tại
chỗ và cán bộ y tế thôn, bản người dân tộc thiểu số; thực hiện có hiệu quả các hoạt động
văn hoá, thông tin, tuyên truyền ở cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương
trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số; thực hiện tốt việc sưu tầm, giữ gìn
và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.

16
- Tiếp tục tuyên truyền, giáo dục nâng cao kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ và
nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường
công tác an ninh cơ sở. Chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động kích động ly
khai tự trị và các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền nhằm
gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu số. Thường xuyên
kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả thực hiện các nghị quyết,
chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ở các cấp, đặc biệt là ở cơ sở. Có cơ chế
khuyến khích người dân, các tổ chức nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
chính sách, chương trình, dự án ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Tập trung củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở. Xây dựng cơ sở đảng và chính quyền cơ sở
vững mạnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội; đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong vùng dân tộc thiểu số; phấn đấu
để các thôn, bản đều có chi bộ, có đảng viên người dân tộc thiểu số; xây dựng lực lượng cốt
cán và chính sách phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc thiểu số.
Sớm giải quyết về tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác dân tộc, nhất là ở cấp tỉnh, huyện
cho phù hợp tình hình hiện nay, đủ sức làm tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền tỉnh,
huyện về lĩnh vực dân tộc, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác dân tộc trong điều
kiện mới. Đảm bảo các dân tộc thiểu số có tỷ lệ cán bộ hợp lý tham gia các cơ quan, tổ chức
trong hệ thống chính trị. Khẩn trương hoàn thành nghị định về công tác dân tộc. Tổ chức tốt
Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc vào năm 2010 và định kì 10 năm một lần.
Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất, khai mạc ngày 12
tháng 5 năm 2010 tại Thủ đô Hà Nội, với 1.702 đại biểu chính thức là đại diện tiêu biểu của
53 dân tộc thiểu số cả nước (gồm 53 Đoàn, trong đó có 52 Đoàn địa phương với 1.252 đại
biểu và Đoàn các cơ quan Trung ương với 450 đại biểu). Trước đó, 311 huyện đã tổ chức Đại
hội các dân tộc thiểu số với 51.117 đại biểu tham dự và Đại hội của 51 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương với 14.696 đại biểu tham dự.
Trong số 1.702 đại biểu chính thức dự Đại hội toàn quốc có 13 đồng chí là Uỷ viên Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X), trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; hơn
40 đồng chí là Lãnh đạo chủ chốt của một số Bộ, Ban, ngành Trung ương và 20 tỉnh miền núi,
vùng dân tộc; nhiều đại biểu là các đồng chí lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa,
Anh hùng Quân đội, Anh hùng Lao động, Anh hùng thời kì Đổi mới và tướng lĩnh trong các
lực lượng vũ trang. Hơn 200 đại biểu là người lao động trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề ở nông thôn là những tấm gương tiêu biểu trong
sản xuất, xoá đói giảm nghèo, làm ăn giỏi, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại,…
hơn 30 đại biểu là doanh nhân; 850 đại biểu có trình độ học vấn đại học và trên đại học, hơn
20 đại biểu được Nhà nước phong tặng các danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú,
Thầy thuốc Nhân dân, Thầy thuốc Ưu tú, Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú; hơn 70 đại biểu là
già làng trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng, gần 30 đại biểu là chức sắc tôn giáo,
hơn 100 đại biểu có độ tuổi dưới 30, đại biểu nam 66% và đại biểu nữ 34%. Đại biểu cao tuổi
nhất là cụ Thào Khua Chỉnh sinh năm 1908, dân tộc Mông ở Sơn La và đại biểu ít tuổi nhất là
cháu Lo Văn Thoả sinh năm 1998, dân tộc Ơ Đu ở Nghệ An.

17
Trước ngày khai mạc chính thức tại Thủ đô Hà Nội, nhiều hoạt động hướng tới Đại hội
được tổ chức: Triển lãm thành tựu phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội vùng đồng bào các
dân tộc; Thi tìm hiểu về cộng đồng các dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hoá truyền thống
các dân tộc thiểu số trên đài truyền hình, đài phát thanh và một số báo chí; Hội thảo quốc
gia “Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và chính sách đại đoàn kết dân tộc”; Đoàn
đại diện Đại biểu Đại hội (100 người) đến dâng hương tại Đền Hùng và Đoàn đại diện Đại
biểu Đại hội (54 người) gặp lãnh đạo Đảng và Nhà nước; Toàn thể Đại biểu Đại hội vào Lăng
viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Biên soạn và xuất bản ấn phẩm Cộng đồng các dân tộc Việt Nam là một trong những nội
dung trong Kế hoạch tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần
thứ nhất (Quyết định số 05/QĐ-BCĐĐHDTTS, ngày 26 tháng 2 năm 2010). Cuốn sách giới
thiệu tổng quan, khái quát bằng ảnh và lời về kinh tế, văn hoá, xã hội của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, làm tài liệu và tặng phẩm cho các đại biểu dự Đại hội. Kính chúc Đại hội
Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất thành công rực rỡ.

TS. Bế Trường Thành


Phó Chủ nhiệm Thường trực Uỷ ban Dân tộc

18
"Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều
dân tộc cùng sinh sống, kề vai sát cánh với nhau
trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Các
dân tộc thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn
rộng lớn, có vị trí đặc biệt quan trọng về chính trị,
kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường
sinh thái. Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền
thống đoàn kết lâu đời trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai
và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn
hoá riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú
của nền văn hoá Việt Nam thống nhất."
(Trích Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX)
NGƯỜI BA-NA

Tên tự gọi : Ba-na.


Tên gọi khác : Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...
Nhóm địa phương : Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar, Krem.
Dân số : 174.456 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử  : Dân tộc Ba-na là
một trong những cư dân sinh
tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây
Nguyên đã kiến lập nên nền
văn hóa độc đáo ở đây. Họ
là tộc người có dân số đông,
chiếm vị trí rất quan trọng
trong các lĩnh vực văn hóa,
xã hội ở các cao nguyên
miền Trung nước ta.

Việc sử dụng các loại mõ phổ biến


trên rẫy là một cách để bảo vệ hoa
màu khỏi bị chim muông phá hoại.
Trong ảnh, một chiếc mõ có 2 cánh
quạt bằng nan lồ ô để hứng gió làm
quay trục, khiến 3 que luân phiên
nhau gõ vào ống tre, gây ra tiếng
động khi nhanh khi chậm (tuỳ theo
sức gió mạnh hay yếu).
Ảnh : Lưu Hùng

20
Đàn ông Ba-na đan lát thành thạo, tạo nên những sản phẩm đẹp và bền : các loại gùi, nia, giỏ, đó, nón, v.v...
Người đàn ông trong ảnh đang đan nia.
Ảnh : Lưu Hùng

Hoạt động sản xuất : Người Ba-na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ
yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ
hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỉ XX, việc
làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa
canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như : đan, dệt, gốm, rèn
còn chưa phát triển.
ở : Địa bàn cư trú của người Ba-na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình
Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Họ cư trú trên những nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai
đầu đốc đều có trang trí hình sừng. ở giữa làng một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông được
xây cất với hai mái vồng và cao vút. Đó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung
của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...
Phương tiện vận chuyển : Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng cho cả nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi
nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.
Quan hệ xã hội : Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ
trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao
địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú

21
phía nhà vợ. Xã hội có người
giàu, người nghèo và tôi tớ.
Cưới xin : Hôn nhân một vợ,
một chồng là nguyên tắc cơ
bản trong việc xây dựng gia
đình. Hình thức luân cư sau
lễ cưới rất phổ biến. Kết thúc
các chu kì luân cư (ở bên vợ
rồi ở bên chồng) thì đôi vợ
chồng ra ở riêng, tạo lập cơ
ngơi của một gia đình mới,
một tế bào mới của cộng
đồng làng.

Mỗi làng thường có một vài máng


nước phục vụ sinh hoạt. Nước được
dẫn từ nguồn do mạch chảy ra. Hằng
ngày, dân làng đến đây lấy nước về
uống và nấu ăn. Mỗi lần, họ dùng
nhiều vỏ bầu khô để chứa nước, gùi
về dùng dần. Chủ yếu đây là việc của
phụ nữ.
Ảnh : Trọng Thanh

Học : Việc giáo dục truyền thống cho thanh thiếu niên được tổ chức thường xuyên tại nhà làng
(nhà rông) do các già làng đảm nhiệm. Đó là nơi dạy nghề, huấn luyện chiến đấu và học tập các
truyền thống văn hóa của cộng đồng làng.
Văn nghệ : Dân ca rất phong phú nhưng phổ biến là điệu hmon và roi. Nhạc cụ rất đa dạng gồm cả
bộ dây, bộ hơi và bộ gõ. Múa dân gian Ba-na trong đó có múa phục vụ nghi lễ và biểu diễn ở hội
hè được nhiều người ưa chuộng. Trường ca, truyện cổ của dân tộc Ba-na cũng là những tác phẩm
dân gian cổ truyền độc đáo, có giá trị trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Chơi : Phổ biến là các trò chơi : đuổi bắt (đru đra), cướp dây, hất đá, nhảy đập nhịp, thả diều, đá
cầu, đi cà kheo, đánh quay, đánh vòng...

22
Người Bố Y

Tên tự gọi : Bố Y.
Tên gọi khác : Chủng Chá, Trọng Gia...
Nhóm địa phương : Bố Y và Tu Dí.
Dân số : 1.864 người.
Ngôn ngữ : Nhóm Bố Y nói ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai), còn nhóm Tu Dí nói ngôn
ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).
Lịch sử : Người Bố Y di cư từ Trung Quốc sang cách đây khoảng 150 năm.
Hoạt động sản xuất : Người Bố Y vốn giỏi làm ruộng nước nhưng đến Việt Nam cư trú ở vùng cao
nên chủ yếu phải dựa vào canh tác nương rẫy và lấy ngô làm cây trồng chính. Bên cạnh đó, mỗi gia
đình thường có một mảnh vườn để trồng rau. Ngoài nuôi gia súc, gia cầm, họ còn nuôi cá ruộng và
biết làm nhiều nghề thủ công như dệt, rèn, gốm, đục đá, chạm bạc, đan lát, làm đồ gỗ...
Ăn : Người Bố Y ăn ngô xay nhỏ đem luộc cho chín dở rồi mới đồ lên gọi là mèn mén.
Mặc : Trước đây, phụ nữ mặc váy xòe như váy của
phụ nữ Mông, váy được tạo hoa văn bằng cách bôi
sáp ong lên mặt vải rồi đem nhuộm chàm. Áo ngắn
5 thân có ống tay rời, xiêm che ngực và bụng.
Phụ nữ đeo trang sức bằng bạc gồm dây chuyền,
vòng tay, khuyên tai ; tóc được búi ngược lên đỉnh
đầu, đội khăn chàm có thêu hoa văn bằng chỉ màu.
Ngày nay, họ  mặc giống như người Nùng trong
cùng địa phương. Phụ nữ nhóm Tu Dí ăn mặc theo
kiểu người Hán nhưng áo có ống tay rời.
Ở : Người Bố Y cư trú ở Quản Bạ (Hà Giang) và
Mường Khương (Lào Cai). Họ ở nhà đất có 2 mái
lợp gianh, gỗ hoặc ngói, trình tường đất. Nhà
có 3 gian, có sàn gác trên quá giang là chỗ để
lương thực và là chỗ ngủ của những người con
trai chưa vợ.

Bộ nữ phục Bố Y có một nét đẹp riêng ở gam màu lạnh, lối


tạo hoa văn bằng sáp ong trên váy và chiếc yếm dài trước
ngực. Nghề dệt, nhuộm và may mặc truyền thống của họ
đang bị mai một dần.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

23
Làng bản của người Bố Y đã định
cư từ nhiều đời. Hầu hết các kiến
trúc của họ đều kiên cố với các
vật liệu bền chắc. Ở đây, chúng
ta có thể bắt gặp nhiều mái
ngói âm dương (ngói máng) hay
ngói gỗ trên những căn nhà
trình tường.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

Quan hệ xã hội : Có sự phân hóa giai cấp rõ rệt. Tầng lớp trên gồm trưởng bản (pin thàu) và người
giúp việc (xeo phải).
Cưới xin : Gồm 3 bước :
Bước 1 : Nhà trai cử 2 bà mối sang nhà gái xin lá số cô gái về để so tuổi. Nhà gái thường tỏ thiện
chí bằng cách tặng nhà trai 10 quả trứng gà nhuộm đỏ. Nếu thấy “hợp tuổi”, nhà trai cử 2 ông
mối sang trả lá số và xin “giá ăn hỏi”.
Bước 2 : Lễ ăn hỏi. Sau lễ này, hôn nhân của đôi trai gái coi như được định đoạt.
Bước 3 : Lễ cưới. Nhà trai đưa sính lễ cho nhà gái. Ngoài một số thực phẩm còn có 1 bộ trang phục
nữ. Chú rể không đi đón dâu. Khi về nhà chồng, cô dâu cưỡi ngựa do em gái chồng dắt và mang
theo 1 cái kéo, 1 con gà mái nhỏ để đến giữa đường thì thả vào rừng.
Sinh đẻ : Xưa kia, người phụ nữ có tục đẻ ngồi, cắt rốn cho trẻ bằng mảnh nứa, nhau (rau) chôn
ngay dưới gầm giường. Khi đứa trẻ được 3 ngày làm lễ cúng mụ, đặt tên tục, đến khi được 2 - 3
tuổi mới đặt tên chính thức. Nếu đứa trẻ hay ốm đau thì phải tìm bố nuôi cho vía của nó có chỗ
nương tựa.
Ma chay : Ma chay là thể hiện tình cảm của người sống với người chết và đưa hồn người chết về
quê cũ. Trước khi đưa đám bắn 4 phát súng, lúc khiêng quan tài cho chân người chết đi trước.
Từ nhà đến huyệt phải nghỉ 3 lần (nếu vợ hoặc chồng còn sống) hoặc 4 lần (nếu vợ hoặc chồng
đã chết). Người nhà để tang 3 năm, trong thời gian có tang, con trai không được uống rượu, con
gái không được đeo đồ trang sức, con cái không được lấy vợ, lấy chồng.
Thờ cúng : Trên bàn thờ đặt 3 bát hương thờ trời, táo quân và tổ tiên. Dưới gầm bàn thờ đặt 1
bát hương thờ thổ địa. Nếu bố mẹ vợ chết không có người thờ cúng thì con rể lập bàn thờ nhỏ
cạnh cửa để thờ.
Lễ tết : Có nhiều Tết : Nguyên đán, Rằm tháng giêng, 30 tháng giêng, Hàn thực, Đoan ngọ, Mùng
6 tháng 6, Rằm tháng 7, Cơm mới. Tết Cơm mới tổ chức vào tháng 8 hay tháng 9 âm lịch, có bánh
chưng, bánh chay và xôi nhuộm màu.

24
Lịch : Người Bố Y tính ngày, tháng theo âm lịch.
Học : Trước đây có một số người dùng chữ Hán để ghi gia phả, viết bài cúng, làm lá số...
Văn nghệ : ở nhóm Tu Dí, nam nữ thanh niên thường hát đối đáp tại phiên chợ xuân hay tại nhà,
lời ca bằng tiếng Hán, được phụ họa bằng kèn lá.
Chơi : Trong dịp hội hè, người Bố Y có các trò chơi đánh đu, cờ tướng, đánh quay, đánh khăng.

Đi chợ luôn là nhu cầu của cư dân


vùng cao biên giới Việt - Trung, cả
người trẻ lẫn người già. Phút nghỉ
ngơi của người phụ nữ Bố Y (nhóm
Tu Dí) trong buổi chợ.
Ảnh : Trọng Thanh

25
Người BRâu

Tên gọi khác : Brao.


Dân số : 313 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Người Brâu chuyển cư vào Việt Nam cách đây khoảng 100 năm. Vùng Nam Lào và Đông
Bắc Campuchia là nơi sinh tụ của người Brâu. Hiện nay, đại bộ phận cộng đồng này vẫn quần cư
trên lưu vực các dòng sông Xê Xan (Xê Ca Máng) và Nậm Khoong (Mê Kông). Người Brâu có truyền
thuyết Un cha đắc lếp (Lửa bốc nước dâng) nói về nạn hồng thủy.
Hoạt động sản xuất : Nguồn sống chính là làm rẫy để trồng lúa nếp, lúa tẻ, ngô, sắn. Phương thức
canh tác là phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt, thu hái bằng tay. Việc săn bắn, hái lượm còn chiếm vị trí
quan trọng, đem lại thức ăn khá thường xuyên cho mọi gia đình. Trong làng người Brâu sinh sống
có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Đàn ông có khá nhiều người biết đan lát. Để có đồ mặc, người ta
thường đem lâm thổ sản đổi lấy váy áo hoặc vải của các dân tộc láng giềng.
Ăn : Người Brâu chủ yếu ăn cơm nếp đốt trong ống nứa non (cơm lam), thứ đến là cơm gạo tẻ nấu
trong nồi đất nung. Ngô, sắn chỉ dùng để chăn nuôi gia súc, gia cầm. Thức ăn có muối ớt, rau quả,
măng tươi, cá suối, chim thú săn bắn được. Thức uống có rượu cần. Trẻ, già, trai, gái đều thích
hút thuốc lá sợi bằng điếu khan.
Mặc : Đàn ông xưa đóng khố, đàn bà quấn váy tấm.
Mùa hè nam nữ thường ở trần hoặc mặc áo cánh ngắn
chui đầu. Mùa lạnh họ thường khoác thêm một tấm
mền. Nữ giới có tục căng tai để đeo những khoanh
nứa vàng hoặc khuyên bằng ngà voi. Nữ trang có
vòng cổ, vòng tay bằng đồng, bạc hay nhôm. Nam
nữ đến tuổi 15 - 16 đều theo tục cà bằng 4 răng
cửa hàm trên để chính thức hội nhập vào cộng
đồng những người trưởng thành.

Phụ nữ Brâu thích đeo những chuỗi cườm ở cổ, thõng


xuống ngực ; đeo vòng ở tay và đặc biệt đeo hoa tai
bằng ngà voi hoặc khoanh nứa vàng làm căng rộng lỗ ở
dái tai.
Ảnh : Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

26
Trong làng Đắc Mế hiện nay, nhà ở đều là nhà trệt, thưng ván, lợp ngói... Kiểu nhà cổ truyền Brâu chỉ còn hiện hình
ở ngôi nhà bếp, mà cũng rất ít thấy. Đó là loại nhà sàn, mái lợp cỏ tranh, cửa ra vào ở mặt trước phía mái.
Ảnh : Lưu Hùng
Ở : Người Brâu sống tại làng Đắc Mế, xã Bờ Y thuộc huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum. Họ cư trú trên
những ngôi nhà sàn có mái dốc cao. Nền sàn được cấu tạo thành hai nấc cao thấp khác nhau để
phân định chức năng sinh hoạt. Nhà chính đi sang nhà phụ qua một cầu sàn. Các ngôi nhà trong
làng được bố trí quay đầu hồi, mở cửa chính hướng về trung tâm - nơi có ngôi nhà làng - nhà
chung của cộng đồng. Như vậy làng có khuôn viên hình tròn, các ngôi nhà ở được sắp xếp như
chiếc nan hoa của bánh xe bò.
Phương tiện vận chuyển : Chủ yếu là cái gùi đan bằng tre nứa để cõng trên lưng.
Quan hệ xã hội : Xã hội Brâu đã phân hóa giàu nghèo ở giai đoạn ban đầu. Gia đình nhỏ phụ hệ
đã được thiết lập, nam nữ bình quyền. Những tàn tích của chế độ gia đình mẫu hệ vẫn tồn tại khá
đậm nét.
Cưới xin : Lễ cưới được tổ chức ở nhà gái song do nhà trai chi phí. Sau lễ kết hôn, tục ở rể được
kéo dài khoảng 4 - 5 năm và tiếp đó là thời kì luân cư của đôi trai gái.
Ma chay : Khi có người quá cố, tang chủ nổi chiêng trống để báo tang. Thi hài được liệm trong
quan tài bằng thân cây khoét rỗng để ở nhà tang mới dựng gần nhà ở. Quan tài chôn nửa chìm nửa
nổi là một đặc trưng trong tục lệ ma chay của người Brâu. Nhà mồ dựng trên mộ để chứa những tài
sản được chia cho người chết. Số tài sản này đều đã bị hủy thể một phần dưới hình thức bẻ gẫy,
chọc thủng, làm sứt mẻ...
27
Nhà mới : Khi ngôi nhà được khánh thành, người ta làm lễ lên nhà khá long trọng và được cả làng
cùng tham dự bữa tiệc sau lễ cúng các thần linh.
Lễ tết : Lễ ăn mừng cơm mới sau ngày thu hoạch là Tết. Ngày ăn Tết tùy thuộc vào thời vụ và từng
gia đình cụ thể, không quy định ngày nào thống nhất.
Lịch : Nông lịch tính theo tuần trăng và định ra tháng theo mùa vụ canh tác rẫy lúa của
ông bà xưa.
Học : Ngôi nhà làng ở trung tâm đồng thời là trường học của thanh thiếu niên do các già làng đảm
nhiệm. Trẻ được học nghề, học những truyền thống văn hóa của tộc người mình và rèn luyện tinh
thần chiến đấu để bảo vệ an ninh cho buôn làng, bảo vệ phong tục tập quán của ông bà xưa.
Văn nghệ : Dân ca có lời ca, truyện cổ về thần sáng tạo Pa Xây, huyền thoại Un cha đắp lếp, những
bài ca đám cưới, hát ru. Nhạc cụ có đàn klông pút được gọi là táp đinh bổ, nhưng quan trọng hơn cả
vẫn là những bộ chiêng đồng nổi tiếng với 3 loại có thang âm khác nhau là coong, mam và tha.
Chơi : Người Brâu có các trò vui chơi giải trí như đánh cù, thả diều sáo, hay diều bươm bướm, bơi
lội trên sông, cướp dây, bịt mắt đi tìm, đi cà kheo...

Người Brâu có các loại gùi khác nhau. Đẹp


nhất là kiểu gùi có hoa văn, có nắp đậy,
thường dùng để cất đồ đạc quý trong nhà
hoặc để đựng và vận chuyển thóc gạo.
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Ảnh : Phạm Ngọc Long

28
Người BRu - Vân Kiều

Tên tự gọi : Có người cho Bru là tên tự gọi.


Tên gọi khác : Bru, Vân Kiều.
Nhóm địa phương : Vân Kiều, Trì, Khùa, Ma Coong.
Dân số : 55.559 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á), gần gũi với tiếng
Tà-ôi, Cơ-tu. Chữ viết mới hình thành theo cách phiên âm bằng chữ cái La-tinh. Giữa các nhóm có
một số từ vựng không giống nhau.
Lịch sử : Họ thuộc số cư dân được coi là có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.
Hoạt động sản xuất : Canh tác rẫy, trồng lúa là chính ; nông cụ đơn giản : rìu, dao quắm, gậy
trỉa, cái nạo cỏ có lưỡi cong. Cách thức sản xuất : phát rừng, đốt, rồi chọc lỗ gieo hạt giống, làm
cỏ, tuốt lúa bằng tay ; đa canh - xen canh trên từng đám rẫy. Mùa rẫy kéo dài hằng năm từ tháng
3 đến tháng 10. Ngoài trồng các giống lúa tẻ, nếp, còn trồng sắn, bầu, chuối, cà, dứa, khoai,
mía v.v... Rừng và sông suối cung cấp nhiều thức ăn cùng nguồn lợi khác. Chăn nuôi trâu (về sau
có cả bò), lợn, gà, chó là phổ biến.
Nghề thủ công không phát triển. Quan hệ trao đổi hàng hóa chủ yếu với người Việt và
người Lào.

Đan lát là công việc dành riêng cho đàn ông. Họ cho ra đời các loại gùi, giỏ và nhiều đồ gia dụng cần thiết khác. Chiếc
gùi trong ảnh đang được đan bằng mây, dùng vào việc đi lấy củi, lấy nước... phục vụ cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày.
Ảnh : Phạm Lợi
29
Hút thuốc lá là thói quen phổ biến ở đàn ông và đàn bà Không biết dệt vải, nhưng trước đây
Bru - Vân Kiều. trong những ngày lễ tết, hội hè, phụ nữ
Bru - Vân Kiều lại có bộ y phục khá hoàn
Ảnh : Trọng Thanh
chỉnh, với váy và áo dài tay thường được
mua từ bên kia biên giới Việt - Lào.
Ảnh : Phạm Lợi

Ăn : Người Bru - Vân Kiều thích các món nướng. Canh thường nấu lẫn rau với gạo và cá hoặc ếch
nhái. Họ ăn cơm tẻ thường ngày ; khi lễ hội, cơm nếp nấu trong ống tre tươi ; quen ăn bốc, uống
nước lã, rượu cần (nay rượu cất là thông dụng). Nam nữ đều hút thuốc lá, tẩu bằng đất nung hoặc
làm từ cây le.

Mặc : Theo phong tục, nam đóng khố, nữ mặc váy, còn áo không có tay, mặc chui đầu. Vải
chủ yếu mua ở Lào. Y phục kiểu người Việt thời nay đã trở thành phổ biến, tập quán mặc váy
vẫn được bảo lưu. Trước kia thường dùng vỏ cây rừng đập dập lấy xơ để che thân. Đồ trang sức
thường đeo là các loại vòng ở cổ, tay, khuyên tai. Xưa đàn ông, đàn bà đều búi tóc, riêng thanh
nữ búi lệch tóc về phía bên trái, khi đã có chồng tóc được búi trên đỉnh đầu.

30
Người Bru - Vân Kiều thường chọn những khoảnh đất tương đối bằng phẳng làm nơi cư trú. Nhà có sàn cao, mái
tròn ở đầu hồi, dựng quây quần quanh sân chung của làng. Lối kiến trúc truyền thống này ít nhiều còn được
duy trì đến ngày nay.
Ảnh : Lưu Hùng

Ở : Người Bru - Vân Kiều sống ở vùng Trường Sơn thuộc miền Tây các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế,
Quảng Bình. Mỗi làng là một điểm cư trú quần tụ. Mỗi gia đình có nhà riêng, ở nhà sàn, bếp lửa
bố trí ngay trên sàn nhà, kiêng nằm ngang sàn. Nhóm Trì, Khùa, Ma Coong làm nhà thường ngăn
thành buồng làm chỗ ngủ riêng cho vợ chồng gia chủ, cho bố mẹ già (nếu có), cho con đã lớn.
Phương tiện vận chuyển : Người Bru - Vân Kiều dùng các loại gùi, đeo gùi sau lưng, 2 quai gùi
quàng vào đôi vai. Chiếc gùi gắn bó khăng khít với mỗi người như hình với bóng, là vật dụng vận
tải đa năng.
Quan hệ xã hội : Dân làng thuộc các dòng họ khác nhau, gắn bó đoàn kết với nhau, cùng sinh
sống trên một địa vực, trong đó đất trồng trọt thuộc về từng gia đình, kể cả khi bỏ hóa. Người
“già làng” có vai trò quan trọng đối với đời sống của làng. Sự giàu - nghèo hình thành, nhưng
hầu hết các hộ trong làng tương đối ít khác biệt nhau. Tài sản được xác định bằng chiêng, cồng,
ché, nồi đồng, trâu v.v... Hiện tượng người bóc lột người không phổ biến.
Cưới xin : Cô dâu về ở đằng nhà chồng, nhà trai tổ chức cưới vợ cho con và phải biếu đồ sính lễ
cho nhà gái, trong đó có thanh kiếm và thường cả chiếc nồi đồng nữa. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng
còn phải làm “lễ cưới” lần thứ 2 khi có điều kiện về kinh tế, gọi là lễ Khơi, để người vợ chính
thức được coi là thành viên dòng họ nhà chồng. Theo tục lệ, việc con trai cô lấy con gái cậu được
khuyến khích, việc kết hôn giữa vợ góa với anh hoặc em chồng cũng như giữa chồng góa với chị

31
hoặc em vợ đều được chấp thuận và khi dòng họ A đã gả con gái cho dòng họ B thì dòng họ B
không gả con gái cho dòng họ A nữa.
Sinh đẻ : Phụ nữ khi mang thai kiêng ăn thịt các con vật sa bẫy, không bước qua cây nằm ngang
đường v.v... Xưa kia, họ đẻ con tại nhà, có bà mụ vườn đỡ đẻ. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau vài ba
tháng, phải tránh trùng với tên của người đã khuất trong dòng họ, nhưng thường các tên trong
nhà được đặt cùng vần với nhau.
Ma chay : Tử thi ở nhóm Vân Kiều được đặt nằm ngang sàn nhà, chân hướng về phía cửa sổ,
ở các nhóm Khùa và Ma Coong thì tử thi được đặt dọc sàn, chân hướng về phía cửa chính. Sau
2 - 3 ngày mới đưa ma, chôn người chết vào bãi mộ chung của làng. Quan tài gỗ đẽo độc mộc,
gồm hòm và nắp ; xưa kia có nơi người chết được bó trong vỏ cây hoặc tấm đan bằng giang,
nứa. Chọn đất đào huyệt theo cách dùng trứng gà thả rơi, vỡ trứng là được. Tang gia trước khi
mai táng mỗi ngày cúng cơm đặt thức ăn vào miệng tử thi 3 lần (sáng, trưa, tối), khi chôn cất
phải dành phần cho người chết nhiều thứ từ đồ mặc đến vật dụng thông thường và cả giống
mía, ngô, khoai môn, v.v...
Thờ cúng : Người Bru - Vân Kiều chú trọng thờ cúng tổ tiên. Theo họ, hiện thân của “linh hồn”
các thân nhân quá cố là những mảnh nồi, mảnh bát v.v... đặt trong chòi nhỏ dựng riêng. Có nơi
thờ cúng cả thần bản mệnh : mỗi người trong gia đình có một chiếc bát đặt chung trên bàn thờ
tại nhà. Người ta rất tin vào các “thần linh” (Yang) : Thần Lúa, Thần Bếp lửa, Thần Núi, Thần Đất,
Thần Sông nước. v.v... Ma gia đình đằng vợ (Yang cu gia) cũng được con rể thờ cúng.
Lễ tết : Người Bru - Vân Kiều có nhiều lễ cúng khác nhau trong quá trình canh tác lúa rẫy nhằm
cầu mùa, gắn với các khâu phát, trỉa và thu hoạch. Đặc biệt lễ thức trước dịp trỉa lúa diễn ra như
một ngày hội của dân làng. Trong một đời người, mỗi người cũng có hàng loạt nghi lễ cúng quải
về bản thân mình : khi ra đời, lúc đau ốm, khi qua đời, lúc thành hôn, v.v... Lễ cúng có đâm trâu là
lễ trọng nhất. Tết đến từng làng sớm muộn khác nhau, nhưng đều vào thời gian sau kì tuốt lúa.
Lịch : Họ căn cứ vào Mặt Trăng để định ra các ngày và tên ngày trong tháng. Quan niệm có
những ngày tốt (nhất là mùng 4, 7, 9) và những ngày xấu (nhất là 30 và mùng 1). Mỗi năm,
lịch nông nghiệp Bru - Vân Kiều gồm 10 tháng, tiếp đến thời kì nghỉ ngơi, vui chơi trước khi
bước vào mùa rẫy mới.
Văn nghệ : Người Bru - Vân Kiều có nhiều truyện cổ được truyền miệng, kể về sự tích các dòng họ,
nguồn gốc dân tộc, về đề tài người mồ côi, v.v... Có các điệu hát như : Oat là loại hát đối đáp giao
duyên. Prdoak là hát chúc vui, chúc tụng khi có việc mừng. Xươt là hát vui trong các sinh hoạt vui
đùa đông người. Roai tol, Roai trong là loại hát kể lể nặng nề, oán trách. Adâng kon là hát ru trẻ
con. Trong đám ma và lễ hội đâm trâu thường có múa kết hợp với hát. Nhạc cụ phổ biến là : cồng,
chiêng, đàn Achung, Plưa, Talư, kèn Amam, Taral, khèn Pi, nhị, đàn môi, trống, sáo...

32
Người chăm

Tên gọi khác : Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...
Nhóm địa phương : Chăm Hroi, Chăm Pôông, Chà Và Ku, Chăm Châu Đốc.
Dân số : 132.873 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malaiô - Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Đảo).
Lịch sử : Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở Duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến
tạo nên một nền văn hóa rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ. Ngay từ những thế
kỉ đầu Công nguyên cho tới thế kỉ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm Pa.
Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính : Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu
theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người
Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Đồng Nai và
Thành phố Hồ Chí Minh, theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.
Hoạt động sản xuất : Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thủy lợi và
làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ
trên sườn núi.
Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn
bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.
Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên
các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng Duyên hải miền
Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.

Các sản phẩm gốm của người Chăm rất nổi


tiếng và phổ biến ở miền Trung. Phụ nữ
giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra các
sản phẩm đó.
Ảnh : Trọng Thanh

33
Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm
đang phát triển và thích ứng với
kinh tế hàng hóa, phục vụ đáng kể
cho nhu cầu du khách khắp cả nước.
Ảnh : Trọng Thanh

Ăn : Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt,
rau củ, do săn bắn, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo.
Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.
Mặc : Nam nữ đều quấn váy tấm. Đàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Đàn bà mặc áo dài
chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng
ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy
xuất hiện trong giới nữ cao niên.
Ở : Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những
ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm : nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ
tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn
và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.
Phương tiện vận chuyển : Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm
cũng là những người thợ đóng thuyền có kĩ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra
những chiếc xe trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.
Quan hệ xã hội : Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây
là xã hội đẳng cấp, phong kiến. ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang
phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong
quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị
tộc : Cau và Dừa như hai hệ dòng Niê và Mlô ở dân tộc Ê Đê. Về sau, thị tộc Cau biến thành tầng
lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ.
Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út.
Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội
Ấn Độ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt : không được thiết lập

34
quan hệ hôn nhân, không sống cùng một
xóm, không ăn cùng một mâm...
Cưới xin : Phụ nữ chủ động trong quan
hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà
vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ
do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một
chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.
Ma chay : Người Chăm có hai hình thức
đưa người chết về thế giới bên kia là thổ
táng và hỏa táng. Nhóm cư dân theo đạo
Bà la môn thường hỏa táng theo giáo
luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ
táng. Những người trong cùng một dòng
họ thì được chôn cất cùng một nơi theo
huyết hệ mẹ.
Nhà mới  : Người Chăm ở Ninh Thuận,
Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực
hiện một số nghi lễ cúng thần như : cúng
Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận
chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ
phạt mộc được tổ chức để khởi công cho
việc xây cất ngôi nhà. Đền tháp là di sản văn hóa độc đáo của người Chăm tồn tại
Lễ tết : Người ta thực hiện nhiều nghi hàng bao thế kỉ vẫn luôn gắn bó với đời sống tinh thần,
tình cảm của người dân.
lễ nông nghiệp trong một chu kì năm Ảnh : Tiến Dũng
như : lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền,
lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng.
Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được
tổ chức linh đình tại các đền tháp vào
giữa tháng mười âm lịch.
Lịch : Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.
Học : Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh thánh bằng chữ Chăm. Chữ
Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sanscrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn
hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề vẫn chủ yếu là truyền khẩu
và bắt chước, làm theo.
Văn nghệ : Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca -
nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như
trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra
tại các đền tháp.
Chơi : Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.

35
Người Chu-ru

Tên gọi khác : Chơ Ru, Kru, Thượng.


Dân số : 14.978 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malaiô - Polinêxia (ngữ hệ Nam Đảo), gần với tiếng
Chăm. Có một bộ phận người Chu-ru sống gần với người Cơ-ho nên nói tiếng Cơ-ho (thuộc nhóm
ngôn ngữ Môn - Khmer).
Lịch sử : Có lẽ xa xưa, tổ tiên người Chu-ru là một bộ phận trong khối cộng đồng Chăm ; về sau,
họ chuyển lên miền núi sống biệt lập với cộng đồng gốc nên thành người Chu-ru.
Hoạt động sản xuất : Người Chu-ru sống định cư, định canh trên cơ sở một truyền thống nông
nghiệp từ lâu đời. Ruộng ở đây có hai loại : ruộng sình và ruộng khô. Việc làm thủy lợi bằng
mương, phai, đê, đập được chú trọng. Vườn có trên rẫy và vườn ở gần nhà. Chăn nuôi có gia súc và
gia cầm. Săn bắn, hái lượm và đánh cá là hoạt động thường xuyên. Nghề thủ công gia đình được
phổ biến có đan lát, gốm thô.

Một kiểu nữ phục truyền thống


của dân tộc Chu-ru là váy và
tấm choàng để hở một bên vai.
Hầu hết trang phục của phụ
nữ Chu-ru là do người Cơ-ho
sản xuất.
Ảnh : Phạm Văn Dương

36
Ăn : Lương thực chính là gạo tẻ được
nấu trong những nồi đất nung tự tạo.
Lương thực phụ có ngô, khoai, sắn.
Thức ăn có măng rừng, rau đậu, cá suối,
chim thú săn bắn được. Thức uống có
rượu cần và rượu cất. Nam nữ đều thích
hút thuốc lá sợi bằng tẩu.
Mặc : Nghề dệt không phát triển nên
những sản phẩm của y phục như : váy,
áo, khố, mền, địu... có được đều do
trao đổi với các tộc láng giềng như :
Chăm, Cơ-ho, Ra-glai, Mạ...

Quần trắng, áo dài đen, đầu vấn khăn trắng là


bộ trang phục truyền thống của người đàn ông
Chu-ru, thường chỉ mặc vào các dịp cưới xin, lễ
hội, hay đi đám ma... Những sản phẩm này hầu
hết họ mua lại của người Chăm.
Ảnh : Phạm Văn Dương

Ở : Hiện tại, họ sống ở 2 xã Đơn và Loan thuộc huyện Đơn Dương, một số khác ở huyện Đức Trọng
và Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Tại huyện Đức Linh thuộc tỉnh Bình Thuận và vùng Phan Rang - Tháp
Chàm thuộc tỉnh Ninh Thuận cũng có vài ngàn người Chu-ru sinh sống. Người Chu-ru ở nhà sàn
làm bằng tre, gỗ, bương, mai, lợp bằng cỏ tranh. Họ cư trú theo đơn vị làng (plei) và những gia
đình thân thuộc thường xây cất nhà cửa gần gũi nhau.
Phương tiện vận chuyển : Chiếc gùi nan cõng trên lưng vẫn là phương tiện vận chuyển được sử
dụng thường xuyên cho mọi người.
Quan hệ xã hội : Quan hệ chủ đạo trong cơ cấu xã hội Chu-ru là gia đình mẫu hệ với vai
trò được tôn vinh là người phụ nữ, người thừa kế của gia đình, dòng họ mẹ. Nếu nhìn vào
bộ máy tự quản ở các làng thì ta thấy người đàn ông đang đứng mũi chịu sào trong mọi
lĩnh vực để cho xã hội được vận hành theo định hướng của ông bà xưa. Thực ra, họ đã hành
động theo ý chí của người vợ, người chủ nhân ngôi nhà mà họ đang cư ngụ theo tục cưới
chồng. Xã hội đã có sự phân hóa giàu, nghèo nhưng không có sự xung đột giữa hai tầng
lớp ấy trong làng.
Cưới xin : Người phụ nữ chủ động trong quan hệ lứa đôi. Việc “hỏi chồng” và “cưới chồng” được
thực hiện qua những thông tin ở việc trao tặng chàng trai chiếc nhẫn và chuỗi hạt cườm. Sau lễ
cưới, người con gái phải ở dâu nửa tháng tại gia đình chồng để chờ lễ đón rể về nhà. Họ cư trú
phía nhà gái.

37
Ma chay : Người Chu-ru theo tục thổ táng tại nghĩa địa chung của làng. Xưa kia, việc ma chay
thường được tổ chức linh đình với lễ hiến sinh trâu, bò.
Nhà mới : Việc dựng nhà mới được coi trọng với sự tập trung tâm lực của gia chủ và sự hỗ trợ tích
cực của cộng đồng làng. Khi khánh thành nhà mới và dọn về ở nhà mới, họ hàng và cả làng quây
quần giúp đỡ. Họ tổ chức tiệc mặn để cầu cúng thần linh, thụ lộc và chia vui cùng gia chủ.
Lễ tết : Một năm với chu kì canh tác ruộng nước, người Chu-ru có nhiều nghi lễ như : cúng Thần
Đập nước, Thần Mương nước, Thần Lúa khi gieo hạt, ăn mừng lúa mới, cúng sau mùa thu hoạch.
Đáng lưu ý là lễ cúng thần Bơnung vào tháng hai âm lịch, dân làng thường hiến sinh dê. Và lễ cúng
Yang Wer, một cây đại thụ ở gần làng, được coi là nơi ngự trị của các thần linh. Người ta thường
làm những hình nộm dã thú bằng gỗ hay củ chuối để đặt dưới gốc cây.
Lịch : Người Chu-ru theo âm lịch, tính tháng theo chu kì canh tác nông nghiệp của tổ tiên xưa.
Học  : Trước kia, người Chu-ru không có chữ viết, mọi sự truyền đạt, thông tin đều qua
truyền khẩu.
Văn nghệ : Vốn ca dao, tục ngữ rất phong
phú, phản ánh việc đề cao vai trò phụ nữ,
ca ngợi chế độ gia đình mẫu hệ. Về nhạc
cụ, đáng lưu ý là trống, kèn và chiêng.
Ngoài ra còn một số nhạc cụ khác như :
r’tông, kwao, terlia là những nhạc cụ đặc
sắc của người Chu-ru. Trong hội hè, nhạc
cổ truyền Chu-ru thường được cất lên
cùng với vũ điệu tamga nổi tiếng.
Chơi : Sở thích của trẻ em là đánh cù,
chơi thả diều (diều bướm và diều sáo).
Chúng cũng hay chơi trò kéo co, đi cà
kheo, đuổi bắt nhau...

Có nhiều cách địu trẻ, địu sau lưng và địu


phía trước.
Ảnh : Phạm Lợi

38
Người Chơ-Ro

Tên gọi khác : Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.


Dân số : 22.567 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Họ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Đông Dương.
Hoạt động sản xuất : Người Chơ-ro chủ yếu làm rẫy, canh tác theo lối phát đốt rồi chọc lỗ tra
hạt. Cách phân bố các loại cây trồng trên rẫy khá độc đáo. Vòng ngoài cùng của rẫy thì trồng
một số loại cây dây leo như : bầu, bí, mướp, đậu ván... vòng giữa trồng sắn. Toàn bộ diện tích
còn lại phía trong là trồng lúa có xen canh vừng. Hiện nay, ngoài lúa rẫy, một số nơi đã làm
ruộng nước có trâu cày. Việc săn bắn, hái lượm thường tập trung vào thời gian nông nhàn
(khoảng tháng 6, 7 âm lịch). Nghề làm vườn, chăn nuôi trong gia đình và thủ công nghiệp chưa
phát triển. Chỉ có nghề đan lát bằng tre, mây, nứa, là phổ biến. Trước đây, một số người Chơ-ro
đã là phu đồn điền nhưng chỉ với tư cách là những người thợ rừng, họ vẫn có rẫy để canh tác.

Người Chơ-ro cư trú ở vùng núi Người đàn ông Chơ-ro nào cũng biết đan thành thạo. Sản phẩm của
thấp, nhiều sông suối. Họ không họ là các loại gùi để vận chuyển lương thực, đi thu hái rau quả và
chỉ dùng lá độc cùng các loại công nhiều đồ gia dụng khác. Một trong những sản phẩm độc đáo của nghề
cụ như : rổ, đó... để đánh bắt đan nơi đây là chiếc võng đan bằng mây.
tôm, cá mà còn đan đó đnông Ảnh : Phạm Lợi
để nhốt cá, dự trữ thức ăn.
Ảnh : Phạm Lợi

Ăn : Người Chơ-ro ăn cơm tẻ là chính, hút thuốc lá sợi bằng tẩu. Thức uống có rượu cần. Nam nữ
đều ưa thích ăn trầu cau.

39
Mặc : Xa xưa đàn ông đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè ở trần hay mặc áo cánh ngắn, mùa
lạnh thường khoác trên mình một tấm chăn. Nhưng ngày nay, đại đa số người Chơ-ro đã ăn mặc
theo lối của người Việt cùng địa phương. Điều mà khách qua đường có thể nhận biết được người
Chơ-ro là họ thường cõng trên lưng một cái gùi. Đàn bà thường đeo ở cổ những chuỗi hạt cườm
ngũ sắc hoặc vòng đồng, vòng bạc hay nhôm. Thiếu nữ thường mang kiềng, dây chuyền và đeo
vòng tai rộng vành.
Ở : Hiện nay, người Chơ-ro sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và đông nam tỉnh Đồng
Nai. Nơi có số người Chơ-ro cư trú nhiều nhất là các xã  : Xuân Bình, Xuân Trường, Xuân Thọ, Xuân
Phú thuộc huyện Xuân Lộc ; rồi thứ đến là các xã : Hắc Dịch, Phước Thái, Ngãi Dao, Bàu Lâm thuộc
huyện Long Thành. Rải rác tại tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Dương ; Bình Phước) và Bà Rịa (nay
là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), ven quốc lộ 15 cũng có một số gia đình Chơ-ro sinh sống. Trước khi
có mặt tại những địa điểm nói trên, họ đã từng cư trú chủ yếu tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Từ giữa thế
kỉ XX trở lại đây, người Chơ-ro tiếp thu ngày càng mạnh mẽ văn hóa - nếp sống của người Việt ở
miền Đông Nam Bộ. Trước đây, họ ở trên những ngôi nhà sàn cao, cửa ra vào mở ở đầu hồi. Đến
nay phổ biến ở nhà đất. Họ đã tiếp thu lối kiến trúc nhà của người nông dân Nam Bộ : nhà có vì
kèo. Nét xưa còn giữ được trong ngôi nhà là cái sạp nằm, chiếm nửa diện tích theo chiều ngang
và dài suốt từ đầu đến cuối phần nội thất. Một số nhà có tường xây, mái ngói.
Phương tiện vận chuyển : Chủ yếu người Chơ-ro dùng cái gùi đan bằng tre, mây, cõng ở
trên lưng.

Hiện nay, nhà của người Chơ-ro đã có nhiều thay đổi. Một số gia đình dựng nhà với các vì kèo, cửa ra vào mở ở phía
mái của ngôi nhà như nhà người Việt ở nông thôn Nam Bộ. Nhiều hộ khá giả đã có nhà tường xây, mái ngói... Nét
kiến trúc truyền thống của họ chỉ còn hiện diện ở ngôi nhà bếp.
Ảnh : Phạm Lợi

40
Quan hệ xã hội : Trong cơ cấu xã hội Chơ-ro, các quan hệ của gia đình mẫu hệ đã tan rã ; nhưng
quan hệ của gia đình phụ hệ chưa xác lập được. Tính chất gia đình song phương có nhiều biểu
hiện, quyền thừa kế tài sản vẫn thuộc về người con gái. Trong gia đình, nữ giới vẫn được nể vì
hơn nam giới. Xã hội mới manh nha có sự phân hóa về tài sản. Trong một làng gồm có nhiều dòng
họ cùng cư trú.
Cưới xin : Việc lấy chồng, lấy vợ của người Chơ-ro tồn tại cả hai hình thức : nhà trai đi hỏi vợ hoặc
nhà gái đi hỏi chồng. Hôn lễ tổ chức tại nhà gái, sau lễ thành hôn thì cư trú phía nhà vợ, sau vài
năm sẽ dựng nhà ra ở riêng.
Ma chay : Người Chơ-ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên theo hình bán cầu.
Trong 3 ngày đầu, người ta gọi hồn người chết về ăn cơm  ; sau đó là lễ “mở cửa mả” với 100 ngày
cúng cơm. Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong tang lễ của người Chơ-ro và hằng năm cứ
vào ngày 23 tháng chạp âm lịch, người ta đi tảo mộ như người Việt ở địa phương.
Nhà mới : Lễ khánh thành nhà mới luôn là dịp chia vui giữa gia chủ với dòng họ và buôn làng.
Lễ tết  : Ngày cúng Thần Lúa là dịp lễ quan trọng hằng năm. Các loại bánh như  : bánh tét,
bánh ống và bánh giầy trộn vừng được mọi nhà chế biến để ăn mừng và tiếp khách. Lễ cúng
Thần Rừng được tổ chức như một dịp hội làng và hiện nay, cứ 3 năm một lần nghi lễ này lại được
tổ chức trọng thể.
Lịch : Người Chơ-ro cũng có nông lịch riêng theo chu kì canh tác rẫy và căn cứ vào tuần trăng.
Học : Xã hội truyền thống Chơ-ro chưa có chữ viết. Việc học hành, truyền bá kiến thức cho thế hệ
sau theo lối truyền khẩu.
Văn nghệ : Vốn văn nghệ dân gian chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất
lên lời khẩn cầu Thần Lúa và hiện nay, rất ít người biết đến. Nhạc cụ đáng lưu ý đến là bộ chiêng
đồng 7 chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn. Ngoài ra, đàn ống tre, sáo dọc còn thường thấy ở
vùng núi Châu Thành.
Chơi : Trẻ em thích chơi kéo co, cướp cành lá, bịt mắt bắt nhau, thả diều và đánh cù.

41
Người chứt

Tên tự gọi : Chứt.


Tên gọi khác : Rục, Arem, Sách.
Nhóm địa phương : Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng.
Dân số : 3.829 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch
và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khóa nặng nề cho nên họ phải chạy lên
nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hóa và
Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm
Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.
Hoạt động sản xuất : Người
Chứt sống bằng nông nghiệp
nương rẫy du canh và săn bắn,
hái lượm. Trừ nhóm Sách sống
bằng nông nghiệp còn các
nhóm khác hái lượm và săn
bắn chiếm vị trí quan trọng,
thậm chí là nguồn sống chính
trong những năm mất mùa.
Các giống cây trồng chính là
ngô, sắn, đỗ, lúa. Công cụ sản
xuất gồm : rìu, rựa, gậy chọc
lỗ, nơi làm ruộng có thêm
cày, bừa.

Người Chứt (nhóm Rục) có kĩ thuật


trèo cây nổi tiếng để lấy mật ở các
tổ ong trên cây cao. Họ leo thang
bằng dây mây. Mỗi nấc thang là
một vòng dây buộc vào thân cây,
có chỗ đặt bàn chân. Leo đến đâu,
buộc vòng thang đến đó.
Ảnh : Trọng Thanh
42
Vật dụng vừa là mâm, vừa là mủng, làm
bằng gỗ lồ ô. Chiếc mâm gồm hai phần
buộc liên kết với nhau : mặt mâm và chân
đế. Mặt mâm có hai lớp : lớp dưới đan hình
mắt cáo đặt trên 4 thanh tre buộc hình
vuông, lớp trên đan lóng 3 tạo thành cái
mủng có hình nghiêng, miệng loe, vành
miệng nức bằng mây. Chân đế gồm vành
trên và vành dưới đều bằng dây song uốn
tròn và được liên kết với nhau nhờ những
chân chống bằng tre hoặc gỗ. Đan mâm
là công việc của đàn ông. Mâm đan xong
được hong trên giàn bếp một thời gian để
tránh mọt và có màu sẫm.
Ảnh : Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Từ khi định cư, người Chứt đã nuôi trâu, bò phục vụ cày bừa, làm sức kéo. Đan lát chủ yếu do nhu
cầu tiêu dùng trong gia đình. Đôi nơi họ biết thêm nghề rèn dao, rìu.
Ăn : Lương thực chủ yếu là ngô, sắn. Ngày ăn hai bữa trưa và tối. Những năm mất mùa, họ phải
ăn bột báng (bột nhúc) đồ thay cơm quanh năm.

Nét nổi bật của ngôi nhà sàn người Chứt (nhóm Arem) là hai chiếc khau cút được bố trí ở hai đầu nóc nhà. Khau cút được làm
từ hai đoạn cây lồ ô hoặc gỗ buộc chéo nhau tạo thành một góc vuông. Nửa trên được vót nhọn, nửa dưới buộc vào rui
của mái nhà. Khau cút chẳng những để giữ cho đầu mái nhà khỏi bị gió lật mà điều có ý nghĩa xã hội cơ bản đối với cư
dân ở đây là dấu hiệu để nhận biết đồng tộc. Như vậy, khau cút chẳng những là hiện tượng văn hóa phổ biến ở các cư
dân nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer, Thái mà còn cả ở một trong những cư dân Việt – Mường.
Ảnh : Vi Văn An

43
Mặc : Người Chứt không biết dệt vải, vải mặc mua hoặc trao đổi với người Việt, người Lào trong
vùng giáp biên. Mùa hè, nam giới đóng khố, cởi trần. Phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm
bằng vỏ cây. Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Việt.
Ở : Họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc, dùng cột ngoãm hay ở trong các hang đá, mái
đá. Cho đến trước năm 1954 các nhóm Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái
đá. Ngày nay, họ sống tập trung ở các bản nhỏ trong các thung lũng. Nhà cửa đã khang trang
hơn trước.
Phương tiện vận chuyển : Phổ biến là gùi có dây đeo vai, vác hoặc người kéo.
Quan hệ xã hội : Người Chứt gọi làng là Cà Vên. Mỗi làng thường chỉ có dăm bảy hoặc mười gia
đình của một dòng họ cư trú. Đôi khi các gia đình trong một họ lại cư trú ở nhiều làng khác nhau.
Đứng đầu mỗi làng là Pừ Cà Vên. Ông ta giữ luôn cả vai trò tôn giáo. Sinh hoạt tập thể quan trọng
nhất trong làng là vào những dịp lễ tết nông nghiệp.
Gia đình nhỏ phụ quyền là
hình thức phổ biến nhất.
Mỗi gia đình chỉ gồm vợ,
chồng và con cái chưa lấy
vợ, chồng.
Sinh đẻ : Sắp đến ngày ở cữ,
người chồng thường dựng
một cái lều nhỏ cho vợ ở
ngoài rừng. Thỉnh thoảng
anh ta đến thăm nom, tiếp
tế lương thực và đồ ăn uống
cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng
và tự xoay sở lấy hết thảy
mọi việc. Đẻ xong, người sản
phụ tự mình nhóm lửa, đốt
nóng một hòn đá cuội để sẵn
rồi dội nước lã vào cho bốc
hơi nóng để xông khói. Sau
7 ngày người chồng mới đến
đón vợ con vào nhà.

Trẻ em rất thích chơi đu. Người


Chứt thường làm đu cho trẻ nhỏ
dưới các gốc cây to có bóng mát,
treo đu ngay trên các cành cây.
Ảnh : Trọng Thanh

44
Cưới xin : Trai gái đến tuổi trưởng thành, được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai
phải chọn ông mối, đi dạm hỏi vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ
vật quan trọng nhất ngoài lợn, gà, nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục
ở rể.
Ma chay : Nhà giàu làm quan tài bằng thân cây khoét rỗng ; nhà nghèo chỉ bó người chết bằng
vỏ cây.
Thờ cúng : Tổ tiên được thờ tại nhà tộc trưởng. Khi tộc trưởng chết, việc thờ cúng chuyển sang
người em trai kế. Khi nào các thế hệ trên không còn ai thì việc thờ cúng mới chuyển sang cho
người ở thế hệ dưới.
Tin vào các loại ma rừng, ma suối, thổ công, ma bếp... trong đó quan trọng nhất là ma làng.
Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn
lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Văn nghệ : Người Chứt thích dùng đàn, sáo, hát các giai điệu khác nhau. Họ có nhiều truyện cổ
tích, thần thoại, đặc biệt truyện kể về sự khai thiên lập địa và sinh ra con người.
Chơi : Trong các dịp lễ tết, trẻ em chơi cầu lông làm bằng lông gà, đánh găng ; người lớn thổi
sáo, hát hò.

45
Người co

Tên tự gọi : Cor, Col.


Tên gọi khác : Cua, Trầu.
Dân số : 27.766 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm Môn - Khmer, (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc
khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như : Hrê, Xơ-đăng, Ba-na, v.v... Chữ viết ra đời từ thời
kì trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không phổ biến nữa.
Lịch sử : Người Co cư trú rất lâu đời ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam.
Hoạt động sản xuất : Kinh tế rẫy là nguồn sống chủ yếu, lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Canh
tác theo hình thức phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống, tuốt lúa bằng tay. Kĩ thuật xen canh - đa
canh trên từng đám rẫy và luân canh giữa các đám rẫy. Trầu không và quế của người Co nổi tiếng
lâu đời. Đặc biệt quế quý và nhiều, là một nguồn lợi lớn : quế rừng và quế trồng. Rẫy quế của mỗi
gia đình là loại tài sản quan trọng, thường 10 năm trở lên mới được thu hoạch. Nhờ bán quế, các
gia đình có tiền mua sắm các gia sản được ưa chuộng (cồng, chiêng, ché, trâu, v.v... và nay thì
xe, đài, đồng hồ...) xây nhà, đóng đồ gỗ, đồng thời cũng chi dùng vào việc ăn uống, mặc, v.v...
Hình thức dùng vật đổi vật được ưa thích.
Chăn nuôi trâu, lợn, gà trước hết để cúng tế ; chó hầu
như nhà nhà đều có. Nghề dệt và rèn không phát triển.
Đồ đan đẹp và phong phú. Sản phẩm hái lượm và săn
bắt có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống người Co.
Ăn : Bữa ăn thông thường là cơm gạo tẻ, muối ớt, các
loại rau rừng và thịt cá kiếm được. Trước kia, đồng
bào quen ăn bốc. Đồ uống là nước lã, rượu cần, nay
nhiều người đã dùng nước chín, nước chè xanh, rượu
cất. Tục ăn trầu cau chỉ được duy trì ở lớp người lớn
tuổi, nhưng tục hút thuốc lá vẫn còn phổ biến.

Người Co có nhiều loại cột dùng để buộc con trâu tế trong lễ


hội có đâm trâu, cột phướn là loại quan trọng nhất, với nhiều bộ
phận, nhiều họa tiết hoa văn. Trong ảnh là vài mô típ trang trí
trên laval – một thành tố của cột phướn, được treo cao, chính
giữa gian khách trong ngôi nhà gia chủ.
Ảnh : Phạm Lợi

46
Trước đây người Co cũng dựng nhà mồ cho người chết. Ngày nay phần mộ chỉ được rào kín, phía trên che một chiếc
chiếu. Cạnh mộ dựng một cây cột nhỏ, cao chừng 1,5m, trên treo tấm vải đen và chiếc cột khác treo chiếc gùi – tượng
trưng cho kho lúa, phần được chia của người đã khuất.
Ảnh : Phạm Lợi

Ở : Người Co sống tập trung ở các huyện Trà Bồng và Trà Mi thuộc tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây
nam tỉnh Quảng Nam. Nhà sàn dài, cửa ra vào ở hai đầu hồi. Trong nhà chia dọc thành 3 phần :
lối đi ở giữa, một bên được ngăn thành từng buồng nhỏ cho các gia đình sinh hoạt riêng, còn một
bên dùng làm nơi sinh hoạt chung (tiếp khách, họp bàn, tổ chức lễ hội, ăn uống đông người, đan
lát, vui chơi, v.v...). Xưa kia thường mỗi làng ở tập trung trong một vài ngôi nhà kiểu này, dài có
khi hàng trăm mét, bên ngoài có rào chắn và bố trí vũ khí để phòng vệ. Gần đây, khắp vùng người
Co phát triển trào lưu từng gia đình tách ra làm nhà ở riêng, nhà trệt, dựng theo kiểu nhà người
Việt ở địa phương, đã có nhiều nhà lợp tôn, lợp ngói, cả nhà xây nữa.
Mặc : Đồ mặc của người Co chủ yếu mua của người Xơ-đăng và người Việt. Theo nếp truyền thống,
nam đóng khố, ở trần, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay ; mùa lạnh thì khoác tấm vải choàng. Bộ quần
áo dài với khăn xếp du nhập từ đồng bằng lên từng được dùng trưng diện trong ngày lễ hội, nhất
là những bô lão khá giả. Ngày nay, người Co sử dụng phổ biến quần áo người Việt, váy còn thấy
một số phụ nữ mặc nhưng đều dùng vải dệt công nghiệp. Các loại vòng trang sức cũng chỉ bắt
gặp thưa thớt, đơn giản, không dễ tìm được những phụ nữ quấn nhiều chuỗi hạt cườm quanh đầu,
quanh cổ tay, cổ chân, trước ngực và quanh thắt lưng như trước kia nữa.
Phương tiện vận chuyển : Người Co có các loại gùi tự đan dùng để vận chuyển rất tiện lợi, thích
hợp với điều kiện đất dốc, rừng núi và suối. Mọi thứ đều bỏ trong gùi và gùi được cõng trên lưng,
có 2 quai quàng qua đôi vai.
Quan hệ xã hội  : Mỗi làng có ông “già làng” được mọi người kính trọng và nghe theo.
Dân làng sinh sống trên một địa vực ổn định có ranh giới, việc chuyển dịch cư trú của
làng cũng chỉ trong vùng lãnh thổ ấy. Trong làng thường có quan hệ thân thuộc qua lại
với nhau  : hoặc về huyết thống, hoặc do hôn nhân. Tuy mỗi gia đình làm ăn riêng, chiếm
hữu riêng đất rẫy, nhưng tính cộng đồng làng khá cao. Xã hội truyền thống Co đã nảy sinh
giàu - nghèo khác nhau, nhưng chưa phát triển các hình thức bóc lột : nô lệ gia đình, cho vay
nặng lãi, v.v...

47
Cưới xin : Hình thức hôn nhân cư trú đằng chồng
là phổ biến. Phong tục cho phép nếu vợ chết có
thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ góa
không thể lấy em chồng ; nếu 2 anh em trai lấy 2
chị em gái thì phải anh lấy chị, em lấy em ; nếu
con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời
sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô -
con cậu, con dì - con già, con có chung cha hoặc
mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh
thành, nếu là anh em trai thì đời chắt của họ hoặc
sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị
em gái hay một bên gái một bên trai thì cháu hoặc
chắt của họ có thể lấy nhau. Đám cưới đơn giản,
gọn nhẹ, không tốn kém  nhiều, chỉ là dịp mọi
người uống rượu vui chứng kiến đôi trai gái thành
vợ, thành chồng.
Ma chay : Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc.
Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt
không xa chỗ ở.  Tang gia “chia của” cho người
mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư
trang của người ấy, mà cả ché, chiêng, v.v... Những ngày lễ hội, người Co thường dùng một chiếc
trống nhỏ hòa nhịp cùng chiêng. Trống được bọc
Thờ cúng : Những đỉnh núi cao được người Co gọi bằng da sơn dương, được khoét từ khúc gỗ nhỏ.
là núi Ông, núi Bà. Họ cho rằng có “thần linh” trú Ảnh : Phạm Lợi
ngụ ở đó. Hệ thống “ma” (ka muych) và “thần” (kơi,
mah) rất đông  : ma người chết bình thường, ma
người chết bất bình thường, ma quế, ma cây đa, ma
nước, thần bếp lửa, v.v... Bởi vậy, người ta có nhiều
kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và đời sống.
Lễ tết : Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong
làng. Ngoài ra, Tết gắn với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp
đó, các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập trung, khơi
dậy văn hóa truyền thống.
Lịch : Cách tính ngày tháng tương đương với âm lịch của người Việt, nhưng chỉ có 10 tháng, tiếp
đến là thời gian nghỉ ngơi sau vụ canh tác. Bên cạnh đó, người Co coi trọng việc xác định ngày
tốt, xấu để thực hiện các công việc khác nhau.
Văn nghệ : Người Co ưa thích âm nhạc. Họ dùng bộ chiêng 3 chiếc là phổ biến. Nhạc cụ còn có
trống, các loại đàn, nhị. Múa chỉ xuất hiện trong lễ đâm trâu. Các điệu dân ca Xru (Klu), Agiới được
lưu truyền rộng rãi. Vốn truyện cổ khá phong phú, có huyền thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn,
v.v... Nghệ thuật trang trí tập trung nhất ở cây cột lễ và ở bộ phận được gọi là laval trong lễ hội
đâm trâu. Người Co có loại con rối tự tạo bằng gỗ khá đặc sắc.

48
Người Cống

Tên tự gọi : Xám Khôống, Phuy A.


Dân số : 1.676 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng) gần hơn với
tiếng Miến, cùng nhóm với các tiếng La Hủ, Phù Lá, Si La... Họ quen sử dụng tiếng Thái trong
giao dịch hằng ngày.
Lịch sử : Người Cống có nguồn gốc di cư trực tiếp từ Lào sang, chủ yếu ở các tỉnh Điện Biên,
Lai Châu.
Hoạt động sản xuất : Nguồn sống chính là làm nương, đang chuyển sang làm nương, cuốc
ruộng. Hái lượm còn giữ vai trò quan trọng. Người Cống không quen dệt vải, chỉ trồng bông để
đổi lấy vải của các dân tộc khác. Họ giỏi đan chiếu mây nhuộm đỏ, các đồ đựng bằng tre nứa
như gùi đeo, giỏ đựng cơm, rương hòm... Chuyển xuống định cư ven sông Đà, nên người Cống
quen dần với việc sử dụng thuyền trên sông.
Ăn : Người Cống ăn cơm nếp và cơm tẻ.
Mặc : Y phục của người Cống giống người Thái. Một ít gia đình còn giữ lại vài bộ y phục truyền
thống bằng vải dệt của người Lào.

Thiếu phụ Cống búi tóc


ngược, một dấu hiệu của
người phụ nữ đã có chồng.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

Ở : Nhà sàn ba hay bốn gian, chỉ có một cửa ra vào ; một cửa sổ ở gian giữa, chạy dọc theo vách
mặt chính của nhà có thêm một chiếc sàn nhỏ ít có giá trị sử dụng nhưng nhà nào cũng có
là đặc trưng trong nhà người Cống.
Phương tiện vận chuyển : Người Cống quen sử dụng thuyền đi lại trên sông Đà và gùi đeo qua
trán khi đi nương, đi rẫy.
49
Quan hệ xã hội : Người Cống ở khá
tập trung trong các làng bản có quy
mô vừa và lớn. Tính cộng đồng làng
bản cao. Phụ nữ có vai trò quan trọng
trong gia đình cũng như xã hội.
Trong xã hội cổ truyền, chưa có sự
phân hóa giai cấp, chịu sự chi phối
chặt chẽ của hệ thống chức dịch
người Thái.
Dân số ít song người Cống có tới 13 Chiếu mây, sản phẩm thủ công nổi tiếng của người Cống.
dòng họ khác nhau. Đa số các họ Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
mang tên Thái như : Lò, Quang, Kha... Ảnh : Phạm Ngọc Long
dấu vết tô tem giáo còn rõ nét với
tục kiêng và thờ các loại chim muông,
thú vật. Mỗi dòng họ thường có người
đứng đầu với chức  năng chủ trì các
công việc liên quan tới đời sống
tinh thần.
Cưới xin : Hôn nhân một vợ một chồng
chặt chẽ. Không có đa thê, li dị trong
xã hội truyền thống.
Tục ở rể được thực hiện nghiêm ngặt,
trước kia khoảng 8 - 12 năm. Lễ vật
truyền thống trong lễ xin con trai tới
ở rể thường vào buổi tối là gói muối,
gói chè, cuộn dây gai đan chài, hay
một ống rượu cần... Ngay sáng hôm
sau, người con trai mang chăn, gối,
con dao tới nhà gái ở rể, cũng từ đó
người con gái búi tóc ngược đỉnh đầu,
dấu hiệu của người đã có chồng.
Lễ đón dâu về nhà trai khi hạn ở rể
đã hết, lúc đó đôi vợ chồng đã con
cái đầy nhà. Của hồi môn bố mẹ cho
con gái mang về nhà chồng. Nếu nhà
trai người cùng bản phải cõng cô dâu
về tận nhà. Trong ngày cưới, người ta
không mặc quần áo mới vì có tục vẩy
Xe sợi bằng quả dọi.
nước tro lên đoàn đón dâu trước khi ra
Ảnh : Mai Thanh Sơn
về để cầu may.

50
Sinh đẻ : Sản phụ đẻ ngồi. Trước và sau khi đẻ phải kiêng kị nhiều thứ. Người Cống rất giỏi trong
việc tìm kiếm lá thuốc để chăm sóc phụ nữ khi sinh nở.
Ma chay : Khi nhà có người chết, phải mời thầy mo tới làm lễ cúng đưa hồn về với tổ tiên. Việc
chọn ngày chôn người chết được coi trọng. Trong những ngày trước hôm chôn, thường phải cúng
cơm cho người chết, buổi tối có các nghi thức nhảy múa truyền thống. Sau khi mai táng có làm
nhà mồ đơn giản. Mười hai ngày sau khi chôn người chết, con cháu mới lập bàn thờ trong nhà.
Con cái để tang cha mẹ bằng cách cạo trọc đầu (con trai), cắt tóc mai (con gái) và đội khăn tang
cho tới khi cúng cơm mới, mới được bỏ.
Thờ cúng : Cùng với việc cúng tổ tiên 2, 3 đời theo phụ hệ là việc cúng ma bố mẹ vợ vào dịp Tết.
Bố chủ trì việc cúng. Nếu bố chết, mẹ thay thế. Khi anh em chia nhà ra ở riêng, mỗi người con
trai lập bàn thờ cúng riêng tại nhà mình. Lễ vật cúng tổ tiên chỉ có bát gạo, ống nước và con gà.
Người cúng ôm gà ngồi trước bàn thờ khấn, xong giết gà ngay tại chỗ, bôi máu vào lá dong, gói
lại cài lên vách nơi thờ cùng vài ba chiếc lông gà.
Hằng năm cứ đến tháng ba âm lịch, các bản đều tổ chức lễ cúng bản trước vụ gieo hạt, các
ngả đường vào bản được làm cổng, cắm dấu hiệu kiêng kị, cấm một ngày không cho người lạ
vào bản.
Các gia đình đều làm lễ cúng trên nương trước khi kết thúc công việc tra hạt. Đêm đó chủ nhà làm
lễ cúng ở phía trên lều nương ; lễ vật chỉ có cá, cua, cầu mong chim thú không phá hại ; trồng vài
khóm kiệu cầu xin lúa tốt, xanh tươi như khóm cây này.
Học : Việc giáo dục truyền thống thông qua kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác kết hợp với
thực hành.
Văn nghệ  : Người Cống thường hát múa vào dịp lễ tết, nhất là trong đám cưới. Hát đối
đáp giữa nhà trai và nhà gái hôm đón dâu ở chân cầu thang trước khi lên nhà thực sự là
một cuộc thi hát dân gian. Trai gái, già trẻ đều vui múa trong ngày cưới. Đặc biệt là điệu
múa đầu tiên do các em gái của chàng rể trình diễn để bắt đầu cuộc vui. Họ vừa múa,
vừa giơ cao các tặng vật truyền thống như con gà, con sóc, cá khô mà người anh trai
tặng mình.
Chơi : Các trò chơi tập thể như đuổi bắt, đánh khăng... được trẻ em ưa thích. Ngoài ra, chúng còn
chơi các loại đồ chơi bằng tre, gỗ tự chế.

51
Người Cơ-Ho

Tên tự gọi : Cơ-ho.


Nhóm địa phương : Xrê, Nộp (Tu nốp), Cơ Dòn, Chil, Lát (Lách), Tơ Ring (T’ring).
Dân số : 128.723 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Người Cơ-ho có lịch sử cư trú lâu đời ở Tây Nguyên.
Hoạt động sản xuất : Trừ nhóm Xrê làm ruộng nước theo đúng tên gọi của nó (Xrê - ruộng nước),
còn các nhóm khác làm rẫy (mir) du canh theo chu kì. Nhìn chung kĩ thuật và công cụ làm rẫy của
người Cơ-ho không khác với các tộc người khác ở Tây Nguyên nhưng riêng nhóm Chil để chọc lỗ
tra hạt còn dùng một dụng cụ khác (p’hal). P’hal có cán dài bằng gỗ, lưỡi dẹp bằng sắt dài khoảng
28cm và rộng khoảng 3-4cm, được dùng trong trường hợp một người vừa chọc lỗ, vừa tra hạt. Ở
vùng người Xrê, công cụ làm đất đặc trưng là chiếc cày (ngal) bằng gỗ, đế bằng, lưỡi gỗ (sau này
là lưỡi sắt) và cái bừa răng gỗ (sơkam). Cày, bừa và cả kơr (dụng cụ để chang bằng mặt ruộng) đều
do hai trâu kéo. Lúa là cây lương thực chính và là cây trồng chủ yếu nhưng thông thường trên một
đám rẫy người ta còn trồng lẫn cả ngô, sắn, bầu, bí, mướp, đậu, v.v...
Người Cơ-ho chăn nuôi theo lối thả rông. Ở
vùng làm ruộng, họ nuôi trâu bò để lấy sức kéo,
còn hầu hết các súc vật nuôi để hiến tế trong
các lễ nghi.
Nghề đan lát và rèn hầu như gia đình nào cũng
có người làm nhưng nghề dệt chỉ phổ biến ở
nhóm Chil.
Săn bắt, đánh cá, hái lượm, lâm thổ sản vẫn rất
phổ biến.

Trang phục truyền thống của phụ nữ Cơ-ho là chiếc váy


quấn dài, màu xanh chàm có dệt đan cài những đường sọc
ngang bằng sợi khác màu. Khi trời lạnh, họ choàng lên
người một tấm đắp mỏng. Cô gái Cơ-ho thường tập dệt vải
từ khi còn nhỏ để đến tuổi trưởng thành thì đem sản phẩm
dệt của mình làm đồ sính lễ sang nhà trai.
Ảnh : Võ Thu Giang

52
Chà gạc (yoas) là dụng cụ để chặt
cây, phát rẫy của người Cơ-ho. Cán
chà gạc được làm bằng một đoạn
gốc tre già và phía gốc, chỗ tra
lưỡi dao được uốn cong khá cầu kì.
Người ta uốn một lúc nhiều cán chà
gạc trên một chiếc cột như thấy
trong ảnh.
Ảnh : Lê Duy Đại

Gùi dùng để đi rẫy, đi chợ ; dùng


để đựng lúa, ngô… Gùi có nhiều
loại : có nắp, không nắp ; loại cao
to dùng cho người lớn, loại thấp
nhỏ dùng cho trẻ em. Nắp gùi có
núm được đan khéo, đậy rất kín.
Ảnh : Lê Duy Đại

Ăn : Các gia đình thường ăn 3 bữa. Trước kia, cơm canh đều nấu trong ống nứa và sau này mới
được nấu trong nồi đất, nồi đồng và nồi gang. Các món được chế biến khô cho phù hợp với thói
quen ăn bốc. Canh là một món rau trộn với tấm thường bỏ thêm ớt, muối ; thịt, cá được kho, luộc
hay nấu với cây chuối non.
Thức uống là nước suối được đựng trong các trái bầu, trong các ghè. Rượu cần (tơrnơm) rất được
ưa chuộng trong các lễ tiệc, hội hè, được chế biến từ gạo, ngô, sắn... trộn với các men làm từ các
cây rừng. Thuốc hút là những lá thuốc phơi khô quấn lại được nhiều người ưa dùng.
Mặc : Đàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy ngắn. Khố là một miếng vải dài 1,5m đến 2m và rộng,
có hoa văn theo dải dọc. Váy là một tấm vải quấn quanh người một vòng và giắt cạp. Nền váy màu
đen trên đó có những dải hoa văn màu trắng viền dọc thân váy. Khi trời lạnh, người ta quấn thêm
chiếc chăn (ùi). Trang sức là những vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai.
Ở : Người Cơ-ho cư trú chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng. Họ ở nhà sàn dài, hai mái uốn lợp tranh, có vách
phên nghiêng ra ngoài nẹp tranh để chống lạnh và phía trước cửa có cầu thang lên xuống. Vào nhà,

53
trên bức vách phía sau đối diện với cửa ra vào là hàng ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh
hoạt của gia đình (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra xung quanh bếp lửa.
Quan hệ xã hội : Làng (bon) là một công xã nông thôn còn mang nặng những dấu vết của công
xã thị tộc mẫu hệ. Đứng đầu một làng là chủ làng (Kuang bon). Ở những nơi dân cư tập trung
đông đúc, hình thành một tổ chức liên minh tự nguyện giữa các làng và đứng đầu liên minh gọi là
M’đrông. Người Cơ-ho vẫn tồn tại 2 hình thức gia đình : gia đình lớn và gia đình nhỏ. Tuy nhiên, gia
đình lớn hiện nay đương trong quá trình tan rã và hình thức gia đình nhỏ ngày càng trở nên phổ
biến, nhất là những vùng trù phú, ven các đường quốc lộ, gần thị trấn, thị xã... Tổ chức gia đình
theo chế độ mẫu hệ. Người đàn bà đóng vai trò chủ động trong hôn nhân ; sau hôn lễ, người con
trai về ở bên nhà vợ ; con cái tính dòng họ theo phía mẹ... Nam nữ thanh niên Cơ-ho xây dựng gia
đình khá sớm (nữ thường 16 - 17 tuổi ; nam từ 18 -20 tuổi) và đó chính là một trong những nguyên
nhân làm cho mức sinh của người Cơ-ho khá cao, bình quân một phụ nữ sinh khoảng 5 - 6 con.
Thờ cúng : Người Cơ-ho tin rằng mọi mặt đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định và
trong quan niệm của họ có một bên là thần thánh (Yang) luôn luôn phù hộ cho con người và ngược
lại cũng có một bên là ma quỷ (Chà) thường hay gây ra những tai họa cho nên hầu như làm bất cứ
việc gì hay có chuyện gì (làm ruộng, cưới xin, tang ma, ốm đau...), người Cơ-ho thường phải cúng
viếng để cầu xin. Người ta tin rằng, các vị thần rất thích ăn thịt và uống rượu nhưng tùy theo tầm
quan trọng của buổi lễ mà người ta tế sống trâu, heo, dê hoặc gà cùng với rượu.
Trong số các lễ nghi của người Cơ-ho, những lễ nghi liên quan đến từng công việc làm rẫy, làm
ruộng như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho là những lễ nghi quan trọng nhất
và được tiến hành thường xuyên hơn.
Bàn thờ (nao) thường đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ xưa làm bằng
ván gỗ có chạm trổ hầu như không còn nữa, giờ đây người ta còn nhận ra là chỗ thờ cúng nhờ
những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
Học : Vào đầu thế kỉ XX, chữ Cơ-ho được xây dựng bằng hệ thống chữ La-tinh. Mặc dù đã được
cải tiến nhiều lần, được dùng để dạy trong một số trường học, nhưng loại chữ này chưa phổ
biến sâu rộng.
Văn nghệ : Vốn văn học nghệ thuật dân gian Cơ-ho rất phong phú. Thơ ca giàu trữ tình và đầy
nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống
như bộ cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu (kơmbuat), đàn ống tre (kơrla), trống (sơgơr), v.v... có
khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu.
Lễ tết : Hằng năm, khi mùa màng đã thu hoạch xong (thường là tháng 12 dương lịch), người
Cơ-ho tổ chức ăn Tết. Thường thường, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu
để làng tổ chức lễ đâm trâu trong dịp này. Lễ được tổ chức ở ngoài trời trước nhà chủ hiến tế, chủ
làng hay ở mảnh đất rộng, bằng, cao ráo của làng, với cây nêu được trang trí sặc sỡ, mọi người
nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu được bôi
vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày. Trong các ngày Tết,
dân làng đến chung vui với từng gia đình. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các
công việc cần làm như : làm nhà, chuyển làng...

54
Người Cơ Lao

Tên tự gọi : Cơ Lao.


Tên gọi khác : Tứ Đư, Ho Ki, Voa Đề.
Nhóm địa phương : Cơ Lao Xanh, Cơ Lao Trắng, Cơ Lao Đỏ.
Dân số : 1.865 người.
Lịch sử : Người Cơ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 - 200 năm.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo
(ngữ hệ Thái - Ka Đai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau nhưng hiện nay
đa số người Cơ Lao Đỏ, Cơ Lao Xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tùy theo quá
trình tiếp xúc, cộng cư, họ quen sử dụng tiếng Quan hỏa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Mông.
Hoạt động sản xuất : Bộ phận người Cơ Lao ở vùng cao núi đá tai mèo chủ yếu làm nương cày, thổ
canh hốc đá. Ngô là cây lương thực chính. Trên nương họ còn trồng đậu răng ngựa, lúa mạch, đậu
Hà lan, su hào... Người Cơ Lao có truyền thống dùng phân chuồng, phân tro và nhiều kinh nghiệm
sử dụng phân bón trên nương. Phân tro được bón vào từng hốc khi tra ngô.
Bộ phận người Cơ Lao ở vùng núi đất chuyên sống bằng nghề làm ruộng bậc thang, lúa là cây
lương thực chính. Nghề thủ công truyền thống là đan lát (nong, bồ, phên, cót...) và làm đồ gỗ
(bàn, hòm, yên ngựa, quan tài, các đồ đựng bằng gỗ). Nhiều làng có thợ rèn sửa chữa nông cụ.
Ăn : Tùy nơi, họ ăn ngô chế thành bột mèn mén hoặc
ăn cơm, quen dùng bát, thìa, muôi bằng gỗ.
Mặc : Phụ nữ mặc áo cùng loại với áo người Nùng, Giáy
nhưng dài quá gối. Áo được trang trí bằng những miếng
vải màu đáp trên hò áo, ngực, tay áo. Trước đây người
Cơ Lao Trắng, Cơ Lao Xanh còn mặc thêm chiếc áo ngắn
tay ra ngoài áo dài để phô những miếng vải màu đắp
trên tay áo trong, chân cuốn xà cạp.
Ở  : Người Cơ Lao chủ yếu ở Hà Giang, Tuyên Quang,
thường sống thành từng làng khoảng 15 - 20 nóc nhà.
Nhà ba gian hai chái, mái lợp cỏ gianh hoặc các ống
vầu, nứa bổ đôi xếp úp ngửa. Người Cơ Lao Đỏ làm nhà
trình tường như người láng giềng Pu Péo.

Thiếu nữ Cơ Lao với chiếc khăn cải tiến theo kiểu người Mông
láng giềng.
Ảnh : La Công Ý

55
Phương tiện vận chuyển : Dùng ngựa để thồ hàng là phương tiện vận chuyển phổ biến của người
Cơ Lao. Họ quen dùng địu đan bằng giang có hai quai đeo vai. Hằng ngày họ phải địu nước về
nhà ; ở vùng núi đất, dùng máng lần đưa nước về đến tận nhà hay gần nhà.
Quan hệ xã hội : Mỗi nhóm Cơ Lao thường có dòng họ khác nhau như các họ Vần, Hồ, Sềnh, Chảo
(Cơ Lao Trắng), Min, Cáo, Sú, Lí (Cơ Lao Đỏ), Sáng (Cơ Lao Xanh). Gia đình nhỏ phụ hệ là phổ biến.
Nếu nhà không có con trai, người ta thường lấy con rể về ở rể. Con rể vẫn giữ họ của mình nhưng
có quyền thừa kế tài sản nhà vợ. Người ở rể có bàn thờ tổ tiên mình và bàn thờ bố mẹ vợ.
Cưới xin : Tục lệ cưới xin khác nhau giữa các nhóm. Chú rể Cơ Lao Xanh mặc áo dài xanh, cuốn khăn
đỏ qua người. Cô dâu về đến cổng nhà trai phải búi tóc ngược lên đỉnh đầu, và muốn qua cổng phải
dẫm vỡ một cái bát, một cái muôi gỗ đã để sẵn trước cổng. Cô dâu Cơ Lao Đỏ chỉ ngủ lại nhà chồng
đêm hôm đón dâu. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ như người Mông vẫn thường xảy ra.
Sinh đẻ : Người Cơ Lao không có tục chôn hay treo nhau đẻ lên cây mà thường đem đốt, rồi bỏ tro
than vào hốc đá trên rừng. Con trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm. Ở một
số nơi trẻ được đặt tên khi đầy tháng. Trong lễ đặt tên cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị thần bảo
vệ trẻ em. Theo phong tục, bà ngoại đặt tên và tặng cháu quà.
Ma chay : Trong tang lễ có phong tục làm ma hai lần : lễ chôn người chết và lễ làm chay. Ở
người Cơ Lao Xanh, lễ làm chay có thể tiến hành ngay hôm chôn hay một vài năm sau. Người
chết được cúng đưa hồn về Chan San, quê hương xưa. Người Cơ Lao Đỏ có phong tục xếp đá
quanh mộ, cứ 10 tuổi lại xếp một vòng đá. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất ; trên cùng lại
xếp thêm một vòng đá nữa.
Thờ cúng : Người Cơ Lao tin mỗi người có 3 hồn ; lúa, bắp và gia súc cũng đều có hồn. Hồn lúa
(hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ và hồn lúa chồng) được cúng mỗi khi gặt xong và cúng vào
dịp Tết mùng 5 tháng 5. Tổ tiên được thờ 3 hay 4
đời. Thần Đất là vị thần quan trọng được gia đình và
toàn bản thờ cúng.
Lễ tết : Người Cơ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết mùng
3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9
tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng Đông Bắc
Việt Nam.
Học : Chữ Hán được sử dụng phổ biến trong việc cúng
lễ. Ngày nay như các dân tộc khác trong cả nước, học
sinh được học tiếng Việt và chữ phổ thông.

Phụ nữ Cơ Lao mặc áo dài đến gối. Trên hò ngực và tay áo đắp
thêm vải màu. Hiện nay chiếc áo trong với ống tay dài vẫn còn
được sử dụng, còn chiếc áo ngoài với ống tay ngắn trở nên
hiếm hơn.
Ảnh : La Công Ý

56
Người Cơ-tu

Tên tự gọi : Cơ-tu.


Tên gọi khác : Ca Tu, Ka Tu.
Dân số : 50.458 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc ngôn ngữ Môn-Khmer (ngữ hệ Nam Á), gần gũi với tiếng Tà-ôi,
Bru - Vân Kiều. Chữ viết ra đời từ thời kì trước năm 1975, trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh để
phiên âm, nhưng nay ít người sử dụng.
Lịch sử : Người Cơ-tu cư trú lâu đời ở miền núi tây bắc tỉnh Quảng Nam, tây nam tỉnh Thừa
Thiên - Huế, liền khoảnh với địa bàn phân bố tộc Cơ-tu bên Lào. Họ thuộc số cư dân cư trú lâu
đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.
Hoạt động sản xuất : Làm rẫy là chính, canh tác theo lối phát cây bằng rìu và dao quắm, rồi đốt,
sau đó dùng gậy chọc lỗ để tra hạt giống, làm cỏ bằng cái nạo có lưỡi sắt uốn cong, tuốt lúa bằng
tay. Rẫy đa canh, xen canh và cứ sau vài vụ lại bỏ hóa một thời gian dài trước khi canh tác tiếp.
Mỗi năm chỉ gieo trồng một vụ.

Gắn liền với việc giã gạo hằng ngày, phải


có nia sảy. Người Cơ-tu dùng loại nia hình
lá đề, đan đẹp và dùng bền, nhất là nia đan
bằng giang đỏ.
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Ảnh : Phạm Ngọc Long

Khố vải có hoa văn bằng chì rất được


ưa chuộng và đắt giá. Trên khố, hoa văn
tập trung ở đoạn hai đầu dải vải, đều là các
đồ án hoa văn hình học.
Ảnh : Phạm Lợi

57
Vật nuôi chủ yếu là trâu, lợn, chó, gà. Song, nguồn thực phẩm hằng ngày chủ yếu do hái lượm,
săn bắn và đánh bắt cá đưa lại. Nghề thủ công chỉ có dệt vải và làm gốm (đồ đất nung) ở một số
nơi phía giáp biên giới Việt - Lào ; riêng đan lát phát triển rộng khắp. Kinh tế hàng hóa hạn hẹp,
hình thức trao đổi vật đến nay vẫn thông dụng.
Phương tiện vận chuyển : Gùi đeo sau lưng nhờ đôi quai quàng vào hai vai. Có loại gùi đan dày, gùi
đan thưa, với các cỡ thích hợp với người dùng. Đàn ông có riêng loại gùi ba ngăn (gùi cánh dơi).
Ăn : Người Cơ-tu thường ngày ăn cơm tẻ, ngày lễ hội có thêm cơm nếp. Ăn bốc là tập quán cổ
truyền. Họ thích các món nướng, ướp và ủ trong ống tre, uống nước lã (nay nhiều người đã dùng
nước chín), rượu mía, rượu tà-vạk (chế từ một loại cây rừng, họ dừa) và rượu làm từ gạo, sắn, v.v...
Họ hút thuốc lá bằng tẩu.
Mặc : Người Cơ-tu ưa chuộng nhất bộ y phục bằng vải dệt nền đen có hoa văn bằng chì, thứ đến
hoa văn bằng cườm trắng. Đàn ông quấn khố, thường ở trần. Đàn bà mặc váy ống. Nếu váy dài thì
che từ ngực trở xuống, nếu váy ngắn thì thân trên mặc áo không ống tay ; ngày lễ hội có thêm
thắt lưng nền trắng mộc. Loại vải tấm lớn dùng để choàng, quấn và đắp.
Ở : Người Cơ-tu sống tập trung ở các huyện Hiên (nay là huyện Đông Giang và Tây Giang), Giằng
(nay là huyện Nam Giang) (tỉnh Quảng Nam) và các huyện Phú Lộc, A Lưới (Thừa Thiên-Huế). Họ
ở nhà sàn, mái uốn khum ở hai hồi tựa dáng mai rùa. Đầu đốc nhà thường nhô lên một đoạn khau
cút đơn giản. Trước kia trong nhà có nhiều cặp vợ chồng và con cái cùng sinh sống, thường là các
gia đình của những anh em trai với nhau. Toàn bộ nhà ở trong làng dựng thành một vòng, quây
quanh khoảng trống ở giữa. Mỗi làng có ngôi nhà chung gọi là gươl, cao lớn và đẹp nhất. Đó là
nơi hội họp và sinh hoạt công cộng.

Theo nếp xưa, người Cơ-tu ở nhà sàn dài, mái uốn tròn tại đầu hồi như một số tộc nói ngôn ngữ Môn – Khmer khác.
Mỗi ngôi nhà như thế gồm nhiều người thân thuộc ở chung, mỗi cặp vợ chồng cùng các con mình tạo thành một
“bếp”, có phần không gian riêng trong nhà.
Ảnh : Lưu Hùng

58
Quan hệ xã hội : Quan hệ cộng đồng dân làng khá chặt chẽ. Làng là một đơn vị dân cư trên một
địa vực nhất định và riêng biệt, tự quản dựa vào tập tục, đứng đầu là ông “già làng” được nể trọng.
Phân hóa xã hội chưa sâu sắc. Gia tài được xác định bằng chiêng ché, trâu, đồ trang sức, vải.
Cưới xin : Nhà trai phải tốn của cải nộp cho nhà gái và tổ chức cưới. Việc lấy vợ phải trải qua các
bước nghi thức : hỏi, đính hôn, lễ cưới và sau này, khi đã khá giả thường tổ chức thêm lễ cưới
lần nữa. Phổ biến hình thức con trai cô lấy con gái cậu, vợ góa lấy anh hoặc em của chồng quá
cố. Quan hệ hôn nhân một chiều : Nếu nhà A đã gả con gái cho nhà B thì nhà B không được gả
con gái cho nhà A. Trước kia những người giàu thích tổ chức "cướp vợ".
Sinh đẻ : Người phụ nữ đẻ trong chòi dựng sau nhà, hoặc đẻ ngay cạnh bếp lửa trong nhà, có vài
phụ nữ giúp. Cái nhau bỏ vào vỏ bầu hoặc gói bằng vải, lá chuối chôn ở phía sau nhà. Sau 3 - 4
ngày hoặc một tuần sản phụ có thể đi làm. Qua vài ba tháng mới đặt tên cho đứa bé.
Ma chay : Quan tài độc mộc bằng loại gỗ tốt được chôn kín hoặc không lấp đất. Nhà khá giả thì
quàn tử thi dài ngày hơn, đám ma có mổ trâu, nhà mồ làm bằng gỗ đẹp, cầu kì, có nhiều hình
trang trí đẽo, tạc và vẽ. Người Cơ-tu có tục "dồn mồ" : Sau ít năm mai táng, khi tang gia đã chuẩn
bị đủ điều kiện kinh tế, phải tập trung hài cốt của thân nhân về một chỗ, các tang gia trong làng
cùng tiến hành một ngày.
Thờ cúng : Trong đời sống cá nhân, gia đình và của làng, có rất nhiều lễ cúng gắn với sản xuất,
sức khỏe, v.v... Lễ cúng nhỏ chỉ cần tế bằng gà, thậm chí dùng trứng gà ; lớn hơn thì dùng lợn ;
cao hơn nữa là dùng trâu ; xưa kia cao nhất dùng máu người. Theo người Cơ-tu, đối với các siêu
nhiên, máu con vật hiến sinh quan trọng đặc biệt. Làng có thể có vật “thiêng” (thường là hòn đá)
được cất giữ ở ngôi nhà chung, như một thứ bùa. Một số cá nhân cũng có loại bùa này.
Lễ tết : Lớn hơn cả là lễ đâm trâu (của làng cũng như của từng nhà), lễ "dồn mồ". Ăn Tết theo
làng, vào khoảng tháng giêng, tháng hai dương lịch, sau mùa tuốt lúa, trước hết có các nghi lễ
cúng quải tại nhà và nhà công cộng. Tết cũng là dịp ăn uống và đón tiếp khách vui vẻ. Nay nhiều
nơi tổ chức Tết vào dịp Tết Nguyên đán.
Lịch : Người Cơ-tu tính ngày trong tháng theo chu kì thay đổi hình dạng của mặt trăng. Căn cứ
vào đó để họ đặt tên cho từng ngày. Cho nên, có những ngày cùng một tên gọi. Theo kinh nghiệm
và quan niệm dân gian, có ngày trồng sắn, khoai sẽ nhiều củ ; có ngày trồng cà, ớt sẽ sai quả ; có
ngày nên dựng nhà, cưới hỏi...
Văn nghệ : Người Cơ-tu có nhiều truyện cổ kể về sự tích, về xã hội con người, về sự phát sinh các
dòng họ, v.v... Trong lễ hội thường trình diễn múa tập thể : nữ múa Dạ dạ, nam múa Ting tung.
Nhạc cụ thường thấy là bộ chiêng 3 chiếc, cồng 1 chiếc, trống, sáo, đàn, nhị. Phụ nữ tài nghệ
trong việc dệt các đồ án hoa văn bằng sợi màu trang trí với các họa tiết hình học phân bố và kết
hợp khéo léo, hoa văn còn được dệt bằng chì và cườm trên vải. Nam giới tài nghệ trong điêu khắc
trang trí ở nhà mồ, nhà công cộng, với những hình đầu trâu, chim, rắn, thú rừng, gà, v.v... cũng
như trong việc vẽ hoa văn trang trí trên cây cột buộc con trâu tế. Người Cơ-tu có những điệu hát
riêng của mình.

59
Người dao

Tên tự gọi : Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).


Tên gọi khác : Mán.
Nhóm địa phương : Dao Đỏ (Dao Cóc ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Đại bản), Dao Quần chẹt
(Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc
Mùn), Dao Tiền (Dao Đeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn
(Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số : 620.538 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc ngữ hệ Mông-Dao.
Lịch sử : Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ
thế kỉ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỉ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bàn Hồ (Bàn vương),
một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng của người Dao.
Hoạt động sản xuất : Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở
người Dao. Tùy từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như : Người
Dao Quần trắng, Dao áo dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Đỏ - thổ canh hốc
đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa,
ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, ở vùng lưng
chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.

Ở các xóm Dao thường có thợ rèn


sửa chữa nông cụ. Lò rèn chỉ có
kìm, đe, búa và ống bễ. Ống bễ
là một khúc gỗ khoét rỗng (1m
x 0,30 – 0,40m), nằm ngang để
quạt gió. Người khách thường
giúp thợ rèn kéo bễ.
Ảnh : Trọng Thanh

60
Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hỏa mai, súng kíp,
đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức
như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Đỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng,
sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu
thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
Ăn : Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận
rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm
hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối
gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt
luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ta kiêng để đũa ngang
miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.
Người Dao phổ biến dùng rượu cất. ở một vài nơi họ lại uống rượu hoãng, thứ rượu không qua
chưng cất, có vị chua và ít cay.
Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cày hay tẩu.
Mặc : Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh
cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. Áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài, yếm, váy hoặc quần. Y phục thêu rất sặc sỡ.
Họ không thêu theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của
vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim,
người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo.
Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chảy rồi in lên
vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn màu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị
thấm chàm.

Phụ nữ Dao Đỏ búi tóc vấn khăn


lên đỉnh đầu. Trang phục của họ
phần cổ áo thêu hoa văn sặc sỡ,
riêng chiếc yếm ngực còn gắn
những bông hoa tám cánh chạm
bằng bạc.
Ảnh : Phạm Văn Dương

61
Ở : Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên
một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Đỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần
nhiều phân tán, rải rác, năm bảy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tùy nơi họ ở nhà trệt,
nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Phương tiện vận chuyển  :
Người Dao ở vùng cao quen
dùng địu có hai quai đeo vai,
vùng thấp gánh bằng đôi
dậu. Túi vải hay túi lưới đeo
vai rất được họ ưa dùng.

Nhà người Dao ở Lai Châu.


Ảnh : Nguyễn Trường Giang

Quan hệ xã hội : Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Đặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường
có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ
khác nhau.
Sinh đẻ : Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà
có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho
người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khỏe đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm
lễ cúng mụ.
Cưới xin : Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục
chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón
dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và phải bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới
được vào nhà trai.
Ma chay : Thầy tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết, con cái đến
nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào
giờ trùng với giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong
nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt mới đưa vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. Ở
một số nơi có tục hỏa táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Lễ làm ma chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho
một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá
ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước

62
khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba là lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa
hồn về quê cũ ở Dương Châu.
Nhà mới : Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình.
Nghi lễ chọn đất được coi là rất quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp
một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào
mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hố, các hạt gạo vẫn giữ nguyên
vị trí là có thể làm nhà được.
Thờ cúng : Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thủy, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu
ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Đạo giáo. Bàn vương được coi là thủy tổ
của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông
đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc, một nghi lễ vừa mang tính chất của Đạo giáo,
vừa mang những dấu vết của lễ thành đinh xa xưa.
Lịch : Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.
Học : Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để
đọc sách cúng, sách truyện, thơ.
Văn nghệ : Người Dao có vốn văn nghệ
dân gian rất phong phú, nhiều truyện
cổ, bài hát, thơ ca. Đặc biệt truyện
Quả bầu với nạn hồng thủy, Sự tích
Bàn vương rất phổ biến trong người Dao.
Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu
trong các nghi lễ tôn giáo.
Chơi  : Người Dao thích chơi đu, chơi
quay, đi cà kheo.

Cấp sắc là nghi lễ truyền thống của những người


đàn ông Dao đến tuổi trưởng thành. Trong ảnh,
thầy cúng đang làm lễ cấp sắc.
Ảnh : La Công Ý

63
Người Ê-đê

Tên tự gọi : Anăk Ê-đê.


Tên gọi khác : Anăk Ea Đê, Ra Đê (hay Rha đê), Ê-đê - Êgar, Đê.
Nhóm địa phương : Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay,
Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, Êpan...
Dân số : 270.348 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói của người Ê-đê thuộc nhóm ngôn ngữ Malaiô - Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Đảo).
Lịch sử : Người Ê-đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền Trung - Tây Nguyên. Dấu vết về nguồn
gốc hải đảo của dân tộc Ê-đê đã ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật
tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê-đê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền
thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.
Hoạt động sản xuất : Người Ê-đê chủ yếu trồng lúa rẫy theo chế độ luân khoảnh. Rẫy sau một
thời gian canh tác thì bỏ hóa cho rừng tái sinh rồi mới trở lại phát, đốt. Chu kì canh tác khoảng
từ 5 - 8 năm tùy theo chất đất và khả năng hồi phục của đất. Rẫy đa canh và mỗi năm chỉ trồng
một vụ. Ruộng nước trâu quần chỉ có ít nhiều ở vùng người Bih ven hồ Lắc.
Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều là gà, nhưng chăn nuôi
chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ công gia đình phổ biến có nghề đan lát mây
tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông dệt vải bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề
gốm và rèn không phát triển lắm. Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng
đổi hàng.

Nghề dệt cổ truyền của người Ê-đê


bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng
thô sơ và nguyên thủy như bao
tộc người khác ở Trường Sơn – Tây
Nguyên luôn là nghệ thuật làm ra
đồ mặc : váy, áo, khố, mền, túi,
địu… có độ bền chắc; đồng thời là
nghệ thuật trang trí hoa văn trên
nền vải với màu sắc, hình khối,
đường nét và bố cục riêng mang
tính tộc người rõ rệt.
Ảnh : Chu Thái Sơn

64
Ăn : Người Ê-đê ăn cơm tẻ bằng cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng cỡ lớn. Thức ăn có muối
ớt, măng, rau, củ do hái lượm ; cá, thịt, chim thú do săn bắn. Thức uống có rượu cần ủ trong các
vò sành. Xôi nếp chỉ dùng trong dịp cúng thần. Nam nữ đều có tục ăn trầu cau.
Mặc : Trang phục truyền thống là phụ nữ quấn váy tấm dài đến gót, mùa hè thì ở trần hay mặc
áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui đầu. Mùa lạnh, nam nữ thường
choàng thêm một tấm mền. Đồ trang sức có chuỗi hạt, vòng đồng, vòng kền đeo ở cổ và tay, chân.
Nam nữ đều có tục cà răng - căng tai và nhuộm đen răng. Đội đầu có khăn, nón.

Bên cạnh cây Cột trống, trống đại


mặt da trâu bưng tang độc mộc
đặt trên ghế khách kpan, dài 12m,
cũng độc mộc và hoành tráng, kê
dọc, hông gian gah ở nội thất nhà
sàn dài Ê-đê luôn là những tài sản
cao giá trong xã hội cổ truyền, và
là biểu hiện một cách sinh động
về sự thịnh vượng, và niềm tự hào
ở các buôn làng ở Tây Nguyên.
Ảnh : Chu Thái Sơn

Ở : Địa bàn cư trú chủ yếu hiện nay là tỉnh Đắk Lắk, phía nam tỉnh Gia Lai và miền tây các tỉnh
Phú Yên, Khánh Hòa. Ngôi nhà truyền thống của người Ê-đê là nhà sàn dài kiến trúc mô phỏng
hình thuyền với 2 đặc trưng cơ bản là : hai vách dọc dựng thượng thách - hạ thu ; hai đầu mái
nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang, kết cấu theo vì cột, không kết cấu theo vì kèo. Không gian
nội thất chia ra làm hai phần theo chiều dọc. Phần đầu gọi là gah, vừa là phòng khách, vừa là nơi
sinh hoạt công cộng của cả đại gia đình mẫu hệ. Phần cuối gọi là ôk, dành cho các cặp hôn nhân
ở trong từng buồng có vách ngăn bằng phên nứa.
Phương tiện vận chuyển : Chủ yếu là gùi đan cõng trên lưng bằng đôi quai quàng qua vai. Ở
vùng Krông Buk phổ biến có loại gùi cao cẳng. Vận chuyển trên bộ thì có voi nhưng không phổ
biến lắm.
Quan hệ xã hội : Gia đình Ê-đê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con mang
họ mẹ, con gái út là người thừa kế. Xã hội Ê-đê vận hành theo tập quán pháp cổ truyền của
tổ chức gia đình mẫu hệ. Cả cộng đồng được chia làm hai hệ dòng để thực hiện hôn nhân trao
đổi. Làng gọi là buôn và là đơn vị cư trú cơ bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất. Người trong
một buôn thuộc về nhiều chi họ của cả hai hệ dòng nhưng vẫn có một chi họ là hạt nhân.
Đứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ bến nước (pô pin ce) thay mặt vợ điều hành
mọi hoạt động của cộng đồng.

65
Một ngôi nhà sàn dài Ê-đê ở buôn Păn Lăm, ngoại thị Buôn Ma Thuột, với kiến trúc đã cách tân ít nhiều : thay cho
vách phên là vách ván xẻ ; thay cho mái tranh có độ dốc lớn là mái tôn có độ dốc nhỏ ; bên cạnh cầu thang độc mộc
còn thêm cầu thang ván khung… Mặc dầu vậy, da số các yếu tố cổ truyền vẫn còn hiển hiện một cách hoành tráng
ở kiến trúc dân gian Ê-đê.
Ảnh : Chu Thái Sơn
Cưới xin : Người phụ nữ chủ động trong việc hôn nhân, nhờ mai mối hỏi chồng và cưới chồng về ở
rể. Khi một trong hai người qua đời thì gia đình và dòng họ của người quá cố phải có người đứng
ra thay thế theo tục “nối dòng” (chuê nuê) để cho người sống không bao giờ đơn lẻ, sợi dây luyến
ái giữa hai dòng họ Niê và Mlô không có chỗ nào bị đứt theo lời truyền bảo của ông bà xưa.
Ma chay : Khi có người chết thì tục nối dòng phải được thực hiện. Người chết già và chết bệnh thì
tang lễ được tổ chức tại nhà rồi đưa ra nghĩa địa thổ táng. Xưa kia có tục người cùng một dòng
họ chết trong một thời gian gần nhau thì các quan tài được chôn chung một huyệt. Vì quan niệm
thế giới bên kia là sự tái hiện thế giới bên này nên người chết được chia tài sản đặt ở nhà mồ.
Khi dựng nhà mồ, lễ bỏ mả được tổ chức linh đình, sau đó là sự kết thúc việc săn sóc vong linh
và phần mộ.
Nhà mới : Việc làm nhà được cả làng quan tâm. Sự giúp đỡ lẫn nhau về nguyên vật liệu : gỗ, tre,
nứa và tranh lợp cũng như ngày công thông qua hình thức gọi là H’rum zít (tổ chức “giúp công”
lao động hay “đổi công” trong làng). Lễ khánh thành được tiến hành sau khi dựng xong hàng cây
chân vách. Nhưng việc dọn lên nhà mới có thể được thực hiện trước đó một thời gian dài khi các
điều kiện để khánh thành chưa cho phép. Nữ giới là đoàn người đầu tiên được bước lên sàn nhà
mới. Họ mang theo nước và lửa để sưởi ấm và tưới mát cho nơi cư trú mới mẻ này. Đó là cách
chúc phúc cho ngôi nhà và các thành viên của gia chủ. Dẫn đầu các thành viên nữ là một khoa
sang - bà chủ của gia đình mẫu hệ.

66
Lễ tết : Người Ê-đê ăn Tết vào tháng chạp (tháng 12 âm lịch) khi mùa màng đã thu hoạch xong
(không vào một ngày nhất định, tùy theo từng buôn). Sau Tết ăn mừng cơm mới (hmạ ngắt) rồi
mới đến tết (mnăm thun) ăn mừng vụ mùa bội thu. Đó là tết lớn nhất, nhà giàu có khi mổ trâu,
bò để cúng Thần Lúa ; nhà khác thì mổ lợn gà. Vị thần lớn nhất là đấng sáng tạo Aê Điê và Aê Đu
rồi đến Thần Đất (Yang Lăn), Thần Lúa (Yang Mđiê) và các thần linh khác. Phổ biến quan niệm vạn
vật hữu linh. Các vị thần nông được coi là phúc thần. Sấm, sét, giông bão, lũ lụt và ma quái được
coi là ác thần. Nghi lễ theo đuổi cả đời người là lễ cầu phúc, lễ mừng sức khỏe cho từng cá nhân.
Ai tổ chức được nhiều nghi lễ này và nhất là những nghi lễ lớn hiến sinh bằng nhiều trâu, bò, ché
quý (vò ủ rượu cần) thì người đó càng được dân làng kính nể.
Lịch : Nông lịch cổ truyền Ê-đê được tính theo tuần trăng : một năm có 12 tháng và được chia ra
làm 9 mùa tương ứng với 9 công đoạn trong chu kì nông nghiệp rẫy : mùa phát rẫy, mùa đốt rẫy
mới, mùa xới đất, mùa diệt cỏ... Mỗi tháng có 30 ngày.
Học : Việc học tập (học nghề, truyền bá kiến thức...) theo lối làm mẫu, bắt chước và nhập tâm,
truyền khẩu. Đến năm 1923 mới xuất hiện chữ Ê-đê theo bộ vần chữ cái La-tinh.
Văn nghệ : Có hình thức kể khan rất hấp dẫn. Về văn chương, khan là sử thi, trường ca cổ xưa ; về
hình thức biểu diễn là loại ngâm kể kèm theo một số động tác để truyền cảm. Về dân ca có hát đối
đáp, hát đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc Ê-đê nổi tiếng ở bộ cồng chiêng gồm 6 chiêng bằng,
3 chiêng núm, một chiêng giữ nhịp và một trống cái mặt da. Không có một lễ hội nào, một sinh
hoạt văn hóa nào của cộng đồng lại có thể vắng mặt tiếng cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng là
các loại nhạc cụ bằng tre nứa, vỏ bầu khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn - Tây Nguyên, nhưng
với ít nhiều kĩ thuật riêng mang tính độc đáo.
Chơi : Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi cà kheo trên cao
nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên Ê-đê ở nhiều nơi. Trò bịt mắt bắt dê, ném lao (ném xa
và ném trúng mục tiêu) cũng được nhiều trẻ em Ê-đê ưa thích.

67
Người giáy

Tên tự gọi : Giáy.


Tên gọi khác : Nhắng, Giẳng.
Dân số : 49.098 người.
Ngôn ngữ : Tiếng Giáy thuộc ngữ hệ Thái - Ka Đai.
Lịch sử : Người Giáy từ Trung Quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.
Hoạt động sản xuất : Người Giáy có nhiều kinh nghiệm canh tác lúa nước trên những triền ruộng
bậc thang. Bên cạnh đó họ còn làm thêm nương rẫy trồng ngô, lúa, các loại cây có củ và rau xanh.
Chăn nuôi theo lối thả rông. Có một số nghề thủ công nhưng chưa phát triển.
Ăn : Ăn cơm tẻ. Gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ đồ lên như đồ xôi. Nước luộc gạo
dùng làm đồ uống. Cách chế biến món ăn, nhất là ăn trong ngày lễ, ngày tết chịu ảnh hưởng sâu
sắc của người Hán.
Mặc : Trước kia phụ nữ mặc váy xòe giống như váy của người Mông. Ngày nay họ mặc quần màu
chàm đen có dải vải đỏ đắp trên phần cạp, áo cánh 5 thân xẻ tà, dài quá mông, cài khuy bên nách
phải, hò áo và cổ tay áo viền những dải vải khác màu. Tóc vấn quanh đầu với những sợi chỉ hồng
thả theo đuôi tóc. Vai khoác túi thêu chỉ màu với hoa văn là những đường gấp khúc. Nam giới mặc
quần lá tọa, áo cánh xẻ tà, mở khuy ngực.
Ở : Người Giáy cư trú ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Mường
Khương (Lào Cai), Yên Minh, Đồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ,
Mường Tè (Lai Châu). Nhà sàn là nhà ở truyền thống. Hiện nay,
kiểu nhà sàn vẫn phổ biến trong bộ phận người Giáy ở Hà
Giang, còn bộ phận ở Lào Cai và Lai Châu ở nhà đất nhưng
phía trước nhà vẫn là sàn phơi. Nhà thường có 3 gian, bàn
thờ đặt ở gian giữa.
Phương tiện vận chuyển : Họ gánh bằng dậu, dùng ngựa
thồ, trâu kéo.

Nữ phục Giáy mang phong cách từng địa phương khá đậm. Chẳng
hạn, phụ nữ ở Hà Giang thì mặc váy và áo dài, gần với chiếc áo của
người Nùng. Ngược lại, như trong ảnh, nữ giới ở Lào Cai lại mặc quần
và áo ngắn.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

68
Làm ngói là một trong những nghề
thủ công của người Giáy ở Hà
Giang. Ngói âm dương (ngói máng)
được tạo dáng bằng bàn xoay tạo
hình ống, phơi khô rồi cắt lát trước
khi đưa vào lò nung.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

Quan hệ xã hội : Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Giáy có sự phân hóa giai cấp rõ rệt.
Tầng lớp trên là những chức dịch trong bộ máy chính quyền ở xã, thôn bản, nhiều người được
hưởng ruộng công do dân cày cấy, có rừng thảo quả do dân trồng, có lính phục dịch, có người lo
việc tang, việc cưới, đôi khi có cả đội xòe. Nông dân, ngoài đóng thuế còn phải làm lao dịch và
cống nạp cho các chức dịch.
Cưới xin : Gồm nhiều nghi lễ : dạm hỏi, thả mối, ăn hỏi, cưới và lại mặt. Trong lễ ăn hỏi nhà trai
đưa cho nhà gái một vòng cổ và một vòng tay để “đánh dấu”. Trong lễ cưới, ngoài chi phí cho
ăn uống, nhà trai còn phải mang cho nhà gái một số thực phẩm và tiền để làm quà tặng họ hàng
gần ; mỗi người một con gà, một con vịt và một đồng bạc trắng. Ở người Giáy cũng có tục cướp
vợ như người Mông.
Sinh đẻ : Khi có thai phụ nữ phải kiêng nhiều thứ : không đun củi từ ngọn lên gốc (sợ đẻ ngược),
không đến đám tang hay nơi thờ cúng (sợ mất vía). Gần đến ngày đẻ, họ phải cúng mụ. Khi trẻ
đầy tháng phải cúng báo tổ tiên, đặt tên và lập lá số cho trẻ để sau này đem so tuổi khi lấy vợ,
lấy chồng và chọn giờ nhập quan, hạ huyệt khi chết.
Ma chay : Người Giáy cho rằng khi người ta chết, nếu ma chay chu đáo thì sẽ được lên trời sống
sung sướng cùng với tổ tiên, nếu không sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vì thế, ở
những gia đình khá giả đám tang có thể kéo dài tới 5 - 7 ngày và có thêm một số nghi lễ như thả
đèn trôi sông, rước hồn đi dạo... Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạn tang thường được tổ
chức vào dịp cuối năm.
Thờ cúng : Bàn thờ đặt ở gian giữa, thường có ba bát hương theo thứ tự từ trái sang phải thờ táo
quân, trời đất và tổ tiên. Trong trường hợp chủ nhà là con nuôi hay con rể thừa tự muốn thờ họ
bố mẹ đẻ thì đặt thêm một bát hương ở bên trái. Những gia đình không thờ bà mụ trong buồng
thì đặt thêm một bát hương ở bên phải. Ở một số gia đình ngoài bàn thờ lớn còn đặt một bàn thờ
nhỏ để thờ bố mẹ vợ. Phía dưới bàn thờ lớn ngay trên mặt đất đặt một bát hương cúng Thổ địa,
ở hai bên cửa chính có hai bát hương thờ Thần Giữ cửa.
Lễ tết : Người Giáy ăn Tết như các dân tộc ở vùng Đông Bắc : Tết Nguyên đán, Thanh minh,
Đoan ngọ,...

69
Lịch : Người Giáy theo âm lịch.
Học : Người Giáy chưa có văn tự, chỉ một số rất ít người biết chữ Hán.
Văn nghệ : Trong kho tàng văn nghệ của người Giáy có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, đồng dao,
phong dao, câu đố... ở người Giáy có ba kiểu hát mà họ gọi là vươn hay phướn hát bên mâm rượu,
hát đêm và hát tiễn dặn.

Cũng giống như các dân tộc khác thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, người Giáy thường cư trú ở các thung lũng, nơi có
nhiều điều kiện làm ruộng nước. Cảnh quan quê hương thường trù phú đượm vẻ đẹp trữ tình.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

70
Người Gia-Rai

Tên tự gọi : Gia-rai.


Tên gọi khác : Giơ Ray, Chơ Ray.
Nhóm địa phương : Chor, Hđrung (gồm cả Hbau, Chor), Aráp, Mthur, Tơbuân.
Dân số : 317.557 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ hệ Malaiô  - Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Đảo).
Lịch sử : Dân tộc Gia-rai là một trong những cư dân sớm sinh tụ ở vùng núi Tây Nguyên ;
Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk, lan sang một phần đất Campuchia. Trong xã hội Gia-rai xưa đã
có Pơ tao ia (Vua Nước) và Pơ tao pui (Vua Lửa) chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió
hòa, v.v... Trước thế kỉ XI người Ê-đê, Gia-rai được gọi chung một tên là Rang Đêy. Vào thế kỉ
XV - XVI sử sách phong kiến Việt Nam ghi nhận danh hiệu Thủy Xá (Vua Nước), Hỏa Xá (Vua
Lửa). Chỉ có người đàn ông họ Siu mới được làm Vua Lửa, Vua Nước và con gái họ Rơ chom
mới được quyền làm vợ hai vua. Có lẽ chữ Pơ tao đồng nghĩa với Mtao của người Chăm, Tạo
của người Thái và Thao của Lào, đều chỉ người thủ lĩnh.
Hoạt động sản xuất : Kinh tế trồng trọt là cái gốc của hoạt động sản xuất. Đất đai là đối
tượng tác động lao động và được phân chia thành hai loại - đất chưa canh tác có tên : đê,
trá, lon, vô chủ và đất đã canh tác gọi chung là Hma, phần sở hữu của mỗi gia đình : Hma
gồm những mảnh đất trồng trọt theo cách nửa vườn, nửa rẫy ; nương phát, đốt, cuốc xới
đất và chọc lỗ tra hạt. Còn ruộng nước dùng cuốc xới ; sục bùn và đang chuyển sang cày,
bừa dùng 2 bò kéo.
Chăn nuôi gia đình có : trâu, bò, ngựa, voi, lợn, gà, chó... Trong đó trâu là vật ngang giá trong
việc trao đổi vật quý như chiêng, ché, và hiến sinh trong lễ nghi tín ngưỡng. Nghề phụ gia đình
có : mộc, rèn và đan lát. Những người thợ thủ công đã làm ra những chiếc gùi dùng để đựng đồ
mặc, trang sức, vận chuyển. Nghề dệt với khung dệt kiểu Inđônêdiêng khá thịnh hành tạo được
tấm vải khổ rộng, hoa văn đẹp.
Ăn : Gạo tẻ là lương thực chính ; lương thực phụ là ngô. Thức ăn có rau, muối ớt, canh rau, lâu
lâu mới có bữa thịt, cá. Bữa cơm hằng ngày có thể cả gia đình ngồi quanh nồi cơm, bát ớt...
hoặc chia thành từng phần cho mỗi người. Bữa tiệc, lấy ché rượu cần làm trung tâm, quanh
đó có các món ăn đựng trên bát, đĩa hoặc lá chuối để vừa ăn, vừa uống. Khi rượu ngà say có
hát, nhảy múa, đánh chiêng. Trừ trẻ thơ, mọi người bất kể nam, nữ đều hút thuốc lá.
Mặc : Đàn ông đóng khố vải trắng kẻ sọc nhiều màu (toai), ngày lễ đóng khố vải chàm dài 4m
và rộng 0,30m, có đường viền hoa văn và buông tua chỉ nhiều màu ở hai đầu. Áo màu đen cộc
tay, hở nách, đường viền hoa văn chỉ màu chạy dọc hai sườn mang đậm dấu vết kiểu pôngsô.
Pơtao hoặc chủ làng mặc áo chàm che kín mông, tay dài, chui đầu, có một mảng sợi màu đỏ
làm khuy và khuyết cài từ cổ đến ngực. Dưới dải cúc là miếng vải đỏ hình vuông khâu đáp vào

71
để làm dấu hiệu là áo. Đàn bà mặc váy chàm (dài 1,40m x rộng 1m), có đường viền hoa văn
chạy quanh gấu. Phần cạp có tua chỉ trắng hoặc màu. Váy không khâu liền thành ống nên khi
mặc chỉ cuốn vào thân để chỗ giáp hai đầu về phía trước. Họ mặc áo cánh ngắn bó sát thân,
màu đen chàm, kiểu chui đầu, dài tay. Trên cánh tay áo có chiếc được thêu những đường vòng
hoa văn chỉ màu. Nơi ở quanh năm nóng nực nên cả nam lẫn nữ ưa thích cởi trần.
Ở : Nhà sàn cho mỗi gia đình một vợ một chồng mẫu hệ. Kiến trúc có hai loại. Nhà sàn dài
kiểu Ia-yun-pa, dài 13,5m và rộng 3,5m là kích thước trung bình cho mỗi nhà. Nhà được
phân thành hai phần : bên mang và bên óc. Cửa bên óc chỉ quay về hướng bắc và bên óc
dành cho những người đàn bà - chủ gia đình mẫu hệ. Trong nhà có hai bếp. Nhà nhỏ kiểu
hđrung với kích thước rộng 3m x dài 9m. Chiều cao từ đất lên đòn nóc không quá 4,50m.
Cửa chính thông ra sàn phơi chỉ quay về hướng bắc. Hai bên cửa chính có hai cửa sổ. Trong
nhà chỉ có một bếp.
Phương tiện vận chuyển : Gùi có hai dây đeo qua vai là hình thức phổ biến. Ngoài ra có ngựa, voi
để thồ và cưỡi. Voi còn dùng để kéo.
Quan hệ xã hội : Làng (Plơi hoặc Bôn) vừa là đơn vị cư trú vừa cấu kết thành tổ chức xã hội,
có một hội đồng gồm những ông già chủ trì chung (Phun pơ bút). Hội đồng chọn người đứng
đầu làng (Ơi pơ thun, Thap plơi hay Khoa plơi), có lệ làng gọi là Kđi. Xã hội Gia-rai truyền
thống có hình thức cố kết vùng gọi là Tơ ring. Người đứng đầu Tơ ring là Khoa Tơ ring, giúp
việc xét xử có Po phắt kđi và Thao kđi. Tơ ring là cộng đồng lãnh thổ, khi có chiến tranh trở
thành liên minh quân sự.
Dòng họ theo chế độ mẫu hệ nên phả hệ hoàn toàn tính về dòng mẹ. Khối cộng đồng máu mủ
được tập hợp thành từng họ - Kơ nung hoặc Đgioai. Mỗi họ thường được phân chia nhiều ngành
hoặc phân đôi, thành họ khác. Mỗi họ, mỗi ngành kiêng một tô tem riêng. Gia đình nhỏ mẫu hệ
là nét nổi bật của người Gia-rai khác với trường hợp người Ê-đê là đại gia đình mẫu hệ.
Cưới xin : Luật tục nghiêm cấm những người cùng ngành họ và dòng mẹ lấy nhau. Tuổi từ 18 - 19
nam nữ tự do lựa chọn người yêu, trong đó nữ chủ động lựa chọn lấy chồng. Phong tục giản đơn,
không mang tính chất mua bán và do nhà gái chủ động. Bảo lưu tục chồng chết, vợ lấy em chồng
và ngược lại vợ chết, chồng có thể lấy chị vợ. Khi đã thành vợ thành chồng thì đàn ông phải sang
nhà vợ, không có trường hợp ngược lại.
Sinh đẻ : Bà mẹ được coi trọng. Khi mang thai họ không được làm việc nặng nhọc. Họ rất lo sợ
đẻ khó và chết vì sinh nở. Khi sinh nở sản phụ phải kiêng khem nhiều thứ như không ăn cơm nấu
mà chỉ dùng cơm lam, không ăn thịt mà chỉ ăn rau...
Ma chay : Người Gia-rai theo tục tất cả người cùng họ mẹ chôn chung một huyệt. Người đàn ông
chết phải khiêng về chôn ở huyệt phía mẹ mình. Trong huyệt chung ấy, các quan tài được xếp
kề sát bên nhau theo chiều ngang rồi chồng lên theo chiều dọc. Khi quan tài cao bằng miệng
huyệt thì lấy ván kê bốn bề để chôn tiếp vài ba lớp nữa mới làm lễ “bỏ mả” (Họa lui, Thi nga hay
Bô thi) - một nghi thức lớn trong quá trình tang lễ.
Nhà mới : Việc làm nhà mới bắt đầu bằng nghi thức bói tìm đất. Bà chủ đem 7 hạt gạo đặt trên
đất rồi lấy cái bát úp lên để bói tìm hiểu sự linh ứng của Thần Đất. Sau 3 ngày, 3 đêm đi lật bát

72
lên xem nếu hạt gạo còn nguyên là thuận. Ngược lại, mất hạt nào thì phải đi bói tìm chỗ khác.
Đặt hạt gạo để bói xong tổ chức ăn uống, hò reo, múa chiêng 3 ngày. Dựng nhà xong lại mở hội
nhà mới 3 hôm nữa mới kết thúc.
Thờ cúng : Người Gia-rai theo vạn vật hữu linh. Thần linh (Yang) có nhiều loại, trong đó có ba loại
nổi bật được nhắc đến trong lễ cúng hằng năm hay nhiều năm một lần :
- Thần Nhà (Yang sang) lực lượng bảo vệ nhà cửa được cúng trong nhà. Khi nhà mới dựng thì phải
tiến hành nghi thức lễ đâm trâu và trồng cây gạo.
- Thần Làng (Yang ala bôn) và Thần Nước (Yang ia) là lực lượng bảo vệ làng xóm và cuộc sống của
mọi thành viên được cúng ở bến nước và chân núi.
- Thần Vua (Yang ptao) do Vua Lửa, Vua Nước, Vua Gió (Ptao agin) tiến hành lễ cầu trời, mưa thuận,
gió hòa và mùa màng tươi tốt.
Ngoài ra, người Gia-rai còn tin khi chết các linh hồn biến thành ma. Có hiện tượng gán cho người
có ma thuật làm hại gọi là ma lai.
Lễ tết : Xưa nam nữ đến tuổi thành niên có tục cưa
răng hàm trên. Việc này do ông già Pô khoa tkơi thực
hiện bằng cách lấy liềm cắt hoặc dùng một viên đá ráp
chà sát vào hàm răng trên, ở ven suối. Cầm máu răng
bằng lá thuốc (Tkoi am). Nữ 1 - 2 tuổi xâu lỗ tai, sau đó
lấy bấc cây căng dần tai ra để đến khi trưởng thành thì
đeo hoa tai bằng ngà voi có đường kính đến 6cm. Nam
giới không căng tai mà chỉ đục lỗ để đeo khuyên.

Tượng nhà mồ là nét độc đáo trong nghệ thuật điêu khắc Tây
Nguyên. Tượng nhà mồ Gia-rai gồm nhiều dãy tượng người và
thú vật. Cặp tượng nam nữ khoả thân trong ảnh được dựng ở
bên trái nhà mồ, về hướng đông.
Ảnh : Phạm Lợi

Lễ nghi lớn nhất là lễ bỏ mả, tạc tượng mồ, lễ lên nhà mới, có ăn, uống, hát, biểu diễn
cồng chiêng.
Lịch : Tháng giêng được tính từ ngày có trận mưa đầu tiên, tương đương với tháng 4 dương lịch.
Tháng 12 lịch Gia-rai (tháng 3 dương lịch) gọi là Blanning, nghỉ ngơi lao động và làm các lễ nghi
tôn giáo, tín ngưỡng.
Học : Người Gia-rai đã có bộ chữ theo mẫu tự La-tinh. Giống như tất cả các dân tộc khác, hiện nay
học sinh đều học tiếng và chữ phổ thông.

73
Văn nghệ : Người Gia-rai có nhiều trường ca như Đăm San, Xinh Nhã, Đăm Di, v.v... thể hiện
dưới hình thức hát thơ có đệm đàn Tưng nưng. Những điệu vũ dân gian Gia-rai có một số động tác
mô phỏng những cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc. Đàn Tơ rưng, Krông put, Tưng nưng... rất được
phổ biến.
Chơi : Thanh niên thích chơi kéo co trong ngày lễ.

Khi tổ chức các lễ hội có đâm trâu cúng thần, người Gia-rai thường biểu diễn cồng chiêng.
Những người đàn ông đóng khố, khoác trên mình tấm choàng lớn có hoa văn trang trí, vừa
đánh cồng, chiêng vừa nhảy múa xung quanh cột đâm trâu.
Ảnh : Phạm Lợi

74
người Gié - Triêng

Tên tự gọi : Mỗi nhóm có tên tự gọi riêng như : Gié, Triêng, Ve, Bnoong.
Tên gọi khác : Cà Tang, Giang Rẫy.
Nhóm địa phương : Gié (Giẻ), Triêng (T’riêng), Ve, Bnoong (Mnoong). Nhóm Gié đông hơn cả.
Dân số : 30.243 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi với
tiếng Xơ-đăng, Ba-na. Giữa các nhóm tiếng nói có những sự khác nhau nhất định. Chữ viết hình
thành trong thời kì trước năm 1975, cấu tạo bộ vần bằng chữ cái La-tinh.
Lịch sử : Người Gié - Triêng là cư dân gắn bó rất lâu đời ở vùng quanh dãy núi Ngọc Linh.
Hoạt động sản xuất : Họ làm rẫy là chính. Xưa trồng nhiều lúa nếp, nay lúa tẻ giữ vị trí chủ đạo,
gồm nhiều giống khác nhau. Cách thức canh tác như ở các dân tộc miền núi khác trong vùng.
Công cụ chủ yếu gồm rìu và dao quắm để phát, gậy đẽo nhọn đầu hoặc có mũi sắt để chọc lỗ khi
gieo trỉa, cái cuốc con có cán là đoạn chạc cây để làm cỏ. Tất cả cây trồng đều ở rẫy, ngoài lúa
còn có ngô, sắn, bo bo, kê, khoai lang, khoai môn, bầu bí, dưa, thuốc lá, bông, mía, chuối, v.v...
Vật nuôi phổ biến là gà, lợn, chó, trâu, chỉ khi dùng vào việc cúng tế mới mổ thịt. Nguồn thức ăn
kiếm được nhờ hái lượm, săn bắn và đánh bắt cá đóng vai trò quan trọng. Người Gié - Triêng có
sở trường về đan lát, nghề dệt vải phát triển ở nhiều nơi, vùng Đắc Pét có truyền thống đãi vàng
sa khoáng và làm đồ gốm ở trình độ chưa biết dùng bàn xoay và chưa biết xây lò nung. Quan hệ
hàng hóa trước kia dùng vật đổi vật, nay đã dùng tiền.
Ăn : Mỗi ngày người Gié - Triêng ăn 3 bữa (sáng, trưa, tối). Họ ưa thích các món nướng đối với cá,
thịt. Canh cũng là món thường có trong các bữa cơm. Tập quán ăn bốc tồn tại lâu đời (nay việc
dùng đũa, bát đã khá rộng rãi). Đồ uống truyền thống là nước lã, rượu cần chế từ gạo, ngô, sắn,

Ống đựng bằng tre là vật dụng khá


phổ biến trong các gia đình người
Gié – Triêng. Phần thân hộp được
vót bớt để lắp khít vào nắp. Những
chỗ dễ vỡ được bó chét bằng dây
mây tết bản rộng, cũng đồng thời
là hình thức trang trí. Trong ảnh
là ống đựng có 2 ngăn đựng vôi
và một ngăn đựng thuốc lá, là vật
dụng cá nhân.
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam.
Ảnh : Phạm Ngọc Long

75
kê và rượu chế từ nước một loại cây họ dừa mọc hoang
trên rừng. Nam nữ đều hút thuốc lá bằng tẩu.
Ở : Tại huyện Đắc Glây, tỉnh Kon Tum có nhóm Gié và
Triêng, tỉnh Quảng Nam có nhóm Bnoong ở huyện Phước
Sơn và Trà Mi, nhóm T’riêng và Ve ở huyện Giằng (nay
là huyện Nam Giang). Hình thức nhà sàn dài gồm nhiều
“bếp” là lối kiến trúc truyền thống phổ biến, đặc biệt ở
vùng người Gié và Bnoong có khi cả làng ở trong một vài
ngôi nhà. Về sau, nhà trệt đã xuất hiện đó đây. ở nhiều
nơi, trừ nhóm Bnoong, trong làng thường dựng nhà công
cộng cao to và đẹp. Tập quán bố trí nhà tạo thành một
vòng ôm quanh khoảng trống ở giữa là một nét văn hóa
lâu đời của họ ở Giằng và một số nơi ở Đắc Glây.
Mặc : Theo nếp cổ truyền, nam quấn khố, ở trần, trời
lạnh thì choàng tấm vải cho ấm người : nữ mặc áo, Đây là chiếc gùi 3 ngăn dành riêng cho đàn ông
quấn váy, có nơi dùng loại váy ống dài để che luôn sử dụng khi đi rừng, đi rẫy. Nó được đan bằng
cả thân trên, từ ngực trở xuống. Phụ nữ ưa đeo nhiều mây. Phía trên của dây đeo và phần miệng áp
trang sức : các loại vòng bạc, đồng, chuỗi cườm, đeo vào lưng người đeo có ốp thêm những miếng
da con mang (hoẵng).
ở cổ, tay, chân, tai, phụ nữ các gia đình khá giả có cả
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
hoa tai bằng ngà voi. Y phục theo kiểu người Việt hiện
Ảnh : Phạm Ngọc Long
tại đã thâm nhập tận các làng xa xôi hẻo lánh.
Phương tiện vận chuyển : Người Gié - Triêng dùng gùi.
Có những loại và cỡ gùi khác nhau : gùi đan thưa, đan
dày, gùi đeo theo người hằng ngày, gùi để đồ tại nhà,
gùi có hoa văn nan nhuộm đen, gùi không dùng nan
nhuộm, gùi cho riêng nam giới...
Quan hệ xã hội : Dân làng thuộc các họ khác nhau,
từng họ có truyền thuyết về cội nguồn của mình, có
tên gọi và có kiêng cữ riêng. Xưa kia, có những họ của
nữ, có những họ của nam. Quan hệ cộng đồng trong
làng thường xuyên và khá chặt chẽ. “Già làng” có uy tín
cao nhờ hiểu biết, nhiều kinh nghiệm, cũng thường là
người có công lập làng. Xã hội cổ truyền có nhiều biểu
hiện về tàn dư thời mẫu hệ và bước chuyển tiếp từ chế
độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ.
Cưới xin : Trai gái tự tìm bạn đời, cha mẹ thường chấp
Chiếc gùi này cư dân nhóm Giẻ dùng để gùi lúa
thuận nếu không vi phạm tập tục. Việc cưới xin trải qua khi thu hoạch. Nó được đan bằng cật một loại
nhiều bước, bao giờ cũng có lễ kết gắn cô dâu chú rể cây rừng. Nan tạo hoa văn có màu đen bóng
với nhau (thông qua việc họ đưa cơm với gan gà cho do được hơ nhiều lần trong khói nhựa thông.
nhau cùng ăn và uống chung bát rượu, hoặc có nơi họ Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
trùm chung tấm chăn), và cô gái phải tự chuẩn bị 100 Ảnh : Phạm Ngọc Long

76
bó củi đẹp từ trước để đem đến nhà trai. Nhà trai thường tặng nhà gái đồ đan và nhận được của
nhà gái những sản phẩm dệt. Trước kia, đôi vợ chồng cư trú luân phiên mỗi bên vài năm.
Sinh đẻ : Chồng phải làm lều ngoài rừng cho vợ đẻ. Sản phụ tự lo một mình trong sinh nở, sau 10
ngày mới được mang con về nhà. Đứa trẻ được coi là thành viên của gia đình sau khi đã tiến hành
một nghi lễ cúng cho trẻ gia nhập vào cộng đồng những người thân thuộc trong nhà.
Ma chay : Phong tục ở các nhóm không hoàn toàn giống nhau. Song, nét chung là quan tài đẽo
độc mộc, có nơi tạc hình đầu trâu trên đầu. Người chết được mai táng (có tài liệu viết xưa kia hỏa
táng) ; nhà mồ dựng không cầu kì, có rào xung quanh. Những đồ vật đem ra mộ cho người chết
nếu là chiêng, ché thì đều đập thủng hoặc vỡ. Trong quá khứ, người ta từng biết đến tục chôn
chung những người chết cách nhau không lâu trong gia đình vào một quan tài. Suốt 10 ngày khi
làng có người mới chết, trước khi tang gia cúng “nhắc nhở” cho hồn người chết ở yên bãi mộ, dân
làng không vào rừng, không đi làm xa nhà. Nghi thức đoạn tuyệt với mộ người chết thường được
tổ chức vào dịp đầu năm tại cạnh ngôi mộ.
Thờ cúng : Người ta quan niệm có nhiều “thần linh” và mọi vật cũng như con vật, con người đều
có siêu linh ẩn trú. Các vị Thần Nước, Thần Rừng, Thần Lửa, Thần Trời (đồng nhất với sấm sét),
Thần Mặt Trời, Thần Đất, Thần Làng, Thần Lúa, Thần Đá, Thần Cây đa v.v... được người Gié - Triêng
cầu cúng. Mỗi làng thường có vật “thiêng” như thứ bùa hộ mệnh, được cất giấu ở rừng và giữ bí
mật với người ngoài. Dòng họ, gia đình cũng có vật “thiêng” để cầu mùa gắn với canh tác lúa. Ma
người chết cũng được coi là một thế lực chi phối đối với cuộc sống. Liên quan đến thế giới siêu
nhiên đó, có rất nhiều lễ thức tín ngưỡng theo tập tục.
Lễ tết : Mỗi khi cúng bái đều có hiến tế, mà máu con vật hiến tế là quan trọng nhất. Lễ trọng phải
đâm trâu, và xa xưa có nơi phải cúng bằng máu người trong lễ thức đặc biệt liên quan đến thần
lúa. Trong chu kì sản xuất hằng năm thường có lễ thức khi chọn đất rẫy, phát rẫy, gieo trỉa, khi
hạn hay úng, khi mở đầu tuốt lúa, khi đưa lúa lên kho, khi được 100 gùi lúa trở lên và khi lấy thóc
lần đầu về ăn. Gắn với chu kì đời người, có các lễ thức trong thời kì mang thai, trong và sau khi
đẻ, khi đặt tên, khi bị đau ốm, khi cưa răng, trong việc cưới xin, khi chết đi. Tết dân tộc thường
sớm hơn Tết Nguyên đán, tổ chức theo làng.
Lịch : Người Gié - Triêng căn cứ vào chu kì Mặt Trăng để tính ngày. Theo đó, tên gọi mỗi ngày cụ
thể trong tháng phần lớn đều được lặp lại, tuy một ngày ở nửa đầu và một ngày ở nửa cuối tháng.
Mỗi tháng 30 ngày. Mỗi năm 12 tháng. Từng tháng có những công việc trọng tâm nhất định.
Văn nghệ : Bộ nhạc cụ phong phú, quý giá và quan trọng nhất là cồng - chiêng. Tùy nơi, người ta
dùng 3 cồng với 7 hay 9 chiêng, hoặc 6 chiêng, hoặc 4 chiêng, v.v... Có khi cồng chiêng tấu cùng
với trống, với ống nứa. Nguyên ống nứa cũng là loại nhạc cụ để thổi, vỗ, gõ. Các loại đàn sáo, khèn
đều đơn giản, thông dụng trong đời sống âm nhạc. Người Gié - Triêng, cũng như các tộc khác, có
những làn điệu dân ca cổ truyền và nhiều truyện cổ.

77
Người Hà Nhì

Tên tự gọi : Hà Nhi Già.


Tên gọi khác : U Ní, Xá U Ní.
Nhóm địa phương : Hà Nhì Cồ Chồ, Hà Nhì La Mí, Hà Nhì Đen.
Dân số : 17.535 người.
Ngôn ngữ  : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng), gần với
Miến hơn.
Lịch sử : Cư dân Hà Nhì đã từng sinh sống lâu đời ở nam Trung Quốc và Việt Nam. Từ thế kỉ VIII
thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của họ ở Tây Bắc Việt Nam. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì
hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.
Hoạt động sản xuất : Người Hà Nhì sớm biết trồng lúa trên ruộng bậc thang. Họ giỏi việc khai
khẩn tạo nên những thửa ruộng trên sườn núi dốc với những mương dẫn nước khéo léo. Họ quen
dùng phân chuồng và phân tro trong canh tác lúa nước ; đồng thời cũng làm nương cày hoặc
nương cuốc để trồng ngô hoặc rau đậu, bầu bí, bông, chàm...
Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo lối chăn thả tự nhiên. Đàn trâu nuôi thả rông trong
rừng có đến hàng trăm con.
Nghề trồng bông, dệt vải đảm bảo nhu cầu vải mặc truyền thống. Có nơi do khí hậu lạnh nên
không trồng được bông phải đem các sản phẩm như chàm, đồ đan, gia cầm đổi lấy bông. Phụ nữ
dệt vải trên khung cửi nhỏ, khổ 20cm. Vải bền do kĩ thuật dệt và được nhuộm chàm nhiều lần.
Trồng chàm và nhuộm chàm là một hoạt động rất đặc sắc ở người Hà Nhì.
Hái lượm còn chiếm vị trí đáng kể
trong đời sống hằng ngày.

Phụ nữ Hà Nhì giỏi nghề đan lát. Chiếc


nón giang là biểu tượng quen thuộc của
nghề này.
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Ảnh : Phạm Ngọc Long

78
Mặc dù cư trú ở các vùng núi cao, địa hình chia
cắt mạnh, nhưng người Hà Nhì rất giỏi khai
phá và làm ruộng bậc thang. Để có được nguồn
nước tự nhiên thường xuyên, họ chú trọng bảo
vệ các khu rừng đầu nguồn, nhất là ở gần nơi
cư trú hoặc canh tác ruộng nước.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

Ăn : Người Hà Nhì quen dùng cả cơm nếp và cơm tẻ trong các bữa ăn hằng ngày. Thực phẩm chủ
yếu được cung cấp từ săn bắt, đánh cá, hái lượm. Vào dịp lễ tết, họ thường làm nhiều loại bánh ;
ưa dùng thịt nướng, thịt xào và đặc biệt thích ăn cháo ám nấu với thịt gà hoặc thịt lợn.
Ở  : Họ quần cư chủ yếu trên dọc biên giới Việt - Trung, Việt - Lào thuộc các huyện Bát Xát
(Lào Cai), Mường Tè (Lai Châu). Bộ phận làm ruộng bậc thang, nương định canh từ lâu đã sống
định cư. Nhiều bản có tuổi trên 100 năm, đông tới 50, 60 hộ. Những nơi làm nương, bản thường
phân tán rải rác theo nương.
Đa số cư dân ở nhà đất, tường trình chắc chắn, dày tới 30, 40 cm, thích hợp với khí hậu lạnh vùng
núi cao. Tùy từng nơi, nhà có hàng hiên phía trước hoặc hàng hiên ở ngay trong nhà để tránh gió
rét. Họ quen nấu cơm bằng chảo ở bếp lò xây trên nền đất.
Phương tiện vận chuyển : Người Hà Nhì phổ biến dùng gùi đeo qua trán, một số nơi dùng ngựa
trong việc đi lại và chuyên chở.
Quan hệ xã hội : Tính cộng đồng trong làng bản biểu hiện khá tập trung không chỉ trong sản xuất
mà cả trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng.
Gia đình nhỏ phụ quyền song người phụ nữ vẫn được trân trọng trong xã hội. Có nhiều họ khác
nhau, mỗi họ lại chia ra thành nhiều chi. Tên chi gọi theo tên ông tổ. Người Hà Nhì không có tục
thờ cúng chung toàn dòng họ mà chỉ thờ cúng theo gia đình. Việc thờ cúng do con trai cả, dòng
trưởng đảm nhận. Nếu dòng trưởng không có người thừa kế thì việc thờ cúng chuyển cho con trai
út. Các thành viên trong gia đình, dù đã ra ở riêng, nếu bị chết phải đưa xác về quàn tại trước bàn
thờ bố mẹ thì người quá cố mới được thờ cúng chung với tổ tiên.
Hằng năm vào tối 30 Tết, một nghi lễ rất quan trọng trong gia đình được thực hiện. Đó là lễ tưởng
nhớ tổ tiên dòng họ, đọc tên từng tổ tiên và mọi người cùng nhắc lại. Tên từng người được gọi theo
cách gọi phụ tử liên danh, tên cha nối với tên con, nên có vần điệu dễ nhớ. Có họ nhắc tới 71 tên
gọi trong buổi lễ này. Có nơi nghi lễ này cũng được thực hiện trong lễ nhập quan cho người chết.
Cưới xin : Tùy từng vùng phong tục cưới xin khác nhau nhưng một điểm chung nhất là các cuộc
hôn nhân đều do trai gái tự tìm hiểu. Ở vùng Bát Xát (Lào Cai), cưới hỏi phải qua nhiều bước.

79
Sau ba lần dạm hỏi, lễ cưới thứ nhất được tổ chức nhằm đưa con dâu về nhà chồng. Lần cưới
thứ hai ăn uống linh đình ở nhà gái. Lễ này chỉ diễn ra sau khi đôi vợ chồng làm ăn khá giả,
lúc đó họ đã có con, cháu, có người 50, 60 năm sau hoặc cho đến khi chết vẫn chưa tổ chức
được lễ cưới này.
Ở Tây Bắc, sau lễ hỏi, con rể đến ở rể. Nếu trả đủ tiền cưới thì không phải ở rể, lễ cưới sẽ được tổ
chức ngay, từ đó con dâu mang họ của chồng.
Sinh đẻ : Phụ nữ Hà Nhì đẻ đứng. Để dễ đẻ, họ có tục đập vỡ ống bương đựng nước cho nước tóe
ra hoặc thả ống bương nước trong có cái đục từ trên đỉnh nóc nhà xuống, đục bắn ra giống như
đứa trẻ được đẻ ra. Có nơi sản phụ được uống nước tro của ruột voi với mong muốn sản phụ có sức
mạnh như voi. Nhau đẻ được chôn ở ngay sau cửa ra vào hay cột cạnh bếp lò.
Nhà có trẻ mới sinh được báo hiệu bằng chiếc nón úp trên cọc ở trước cửa, nếu cọc ở phía bên
phải - sinh con gái, bên trái - sinh con trai.
Ma chay : Quan tài bằng thân cây khoét rỗng, có nắp đậy kín. Nơi đào huyệt được chọn bằng cách
ném trứng, trứng vỡ ở đâu thì đào ở đấy. Kiêng chôn vào mùa mưa, vào thời điểm đó quan tài
người chết được treo xuống huyệt nhưng không lấp, bên trên có nhà táng hoặc đặt trên giàn. Hết
mùa mưa mới hạ huyệt và lấp đất.
Thờ cúng : Họ tin có linh hồn, thờ cúng tổ tiên, cúng bản và các nghi lễ nông nghiệp.
Lễ tết : Người Hà Nhì ăn Tết năm mới vào đầu tháng 10 âm lịch. Trong năm còn có Tết Cơm mới,
Tết mùng 5 tháng 5, rằm tháng 7.
Học : Người Hà Nhì chưa có chữ viết
riêng, việc giáo dục chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm truyền thống được
truyền từ đời này qua đời khác.

Ngày nay, con em người Hà Nhì đã tới trường


học chữ phổ thông. Một đội ngũ trí thức trẻ
người dân tộc đang được hình thành.
Ảnh : Vi Văn An

Văn nghệ : Người Hà Nhì có nền văn học dân gian với nhiều thể loại như truyện thần kì, cổ tích,
trường ca, ca dao, thành ngữ...
Dân ca, dân vũ là những hình thức văn nghệ được mọi lứa tuổi ưa thích.
Các loại nhạc cụ có trống, chiêng, đàn tính, đàn môi, sáo.
Chơi : Trẻ em Hà Nhì thích chơi các trò chơi đòi hỏi lòng dũng cảm, khéo léo như đấu vật, đuổi
bắt, trốn tìm, chơi cù, đu quay.

80
người hoa

Tên gọi khác : Khách, Hán, Tàu.


Nhóm địa phương : Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Triều Châu, Phúc Kiến, Sang Phang, Xìa
Phống, Thảng Nhằm, Minh Hương, Hẹ...
Dân số : 862.371 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).
Lịch sử : Người Hoa di cư đến Việt Nam vào những thời điểm khác nhau từ thế kỉ XVI, và sau này
vào cuối thời Minh, đầu thời Thanh, kéo dài cho đến nửa đầu thế kỉ XX.
Hoạt động sản xuất : Người Hoa ở vùng nông thôn chủ yếu sống bằng nghề nông, coi lúa nước là
đối tượng canh tác chính. ở các thành phố, thị xã, thị trấn họ làm nghề dịch vụ, buôn bán... Tiểu
thủ công nghiệp khá phát triển như nghề gốm (Quảng Ninh, Đồng Nai, Sông Bé (nay là tỉnh Bình
Dương ; Bình Phước), làm giấy súc, làm nhang (Thành phố Hồ Chí Minh)... Một bộ phận người Hoa
cư trú ở ven biển sống chủ yếu bằng nghề làm muối và đánh cá. Trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, người Hoa luôn coi trọng chữ “tín”.

Sản phẩm của nghề điêu khắc đá của người Hoa ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Ảnh : Phạm Văn Dương

81
Ăn : Lương thực chính là gạo, nhưng trong bữa ăn thường có các loại như mì xào, hủ tiếu, vằn
thắn... ở các gia đình bình dân, buổi sáng điểm tâm bằng cháo trắng với trứng vịt muối, còn
những nhà khá giả hơn là hủ tiếu, bánh bao, xíu mại... Người Hoa có kĩ thuật nấu ăn giỏi, thích
các món ăn xào mỡ với gia vị.
Thức uống của người Hoa ngoài tác dụng giải khát còn là loại thuốc mát, bồi dưỡng "lục phủ, ngũ
tạng". Các loại trà sâm, hoa cúc... là những thứ thông dụng trong mọi gia đình. Những dịp hội hè,
lễ tết nam giới cũng quen dùng rượu. Thuốc lá được nhiều người hút, kể cả phụ nữ, nhất là những
người phụ nữ có tuổi.
Mặc : Những trang phục gọi là truyền thống của người Hoa hiện chỉ còn thấy ở một số người có
tuổi hay trong các nghi lễ cưới xin, tang ma. Phụ nữ thường mặc áo cổ viền cao, cài khuy một
bên, xẻ tà cao hoặc một chiếc áo “sườn xám” may dài, ôm ngang hông, xẻ tà phần dưới đùi. Màu
sắc trang phục của họ, nhất là các thiếu nữ thích màu hồng hoặc màu đỏ, cùng với các sắc màu
đậm. Đàn ông mặc áo màu đen hay xanh đậm, cài khuy vải một bên, vai liền cổ đứng, xẻ tà hoặc
kiểu áo tứ thân, xẻ giữa, cổ đứng, vai liền, có túi. Phụ nữ thích dùng đồ trang sức, đặc biệt là
vòng tay (bằng đồng, vàng, đá, ngọc...), bông tai, dây chuyền... Đàn ông thích bịt răng vàng và
xem như một lối trang sức.
Ở : Những người làm nghề nông thường sống thành thôn xóm. Làng thường ở ven chân núi, trong
cánh đồng, trải dài trên bờ biển, gần nguồn nước, giao thông thuận tiện. Trong làng, nhà ở bố trí
sát nhau theo dòng họ. Ở thành thị họ thường sống tập trung trong các khu phố riêng.
Nhà cửa thường có 3 loại : nhà 3 gian hai chái, nhà chữ Môn và nhà chữ Khẩu. Nhà thường xây
bằng đá, gạch mộc hay trình đất, lợp ngói máng hay lá quế, lá tre, phên nứa...
Nổi bật trong nhà ở là các bàn thờ tổ tiên, dòng họ, thờ Phật và
các vị thần thánh cùng các câu đối, liễn, các tờ giấy hồng chữ
Hán với nội dung cầu phúc, cầu lợi, cầu bình yên.
Quan hệ xã hội : Xã hội phân hóa giai cấp sâu sắc và mang tính
phụ quyền cao.
Mối quan hệ với những người cùng họ được hết sức coi trọng.
Mỗi một dòng họ có một từ đường để thờ cúng. Hằng năm vào
một ngày nhất định, những người cùng họ tụ tập tại từ đường
để làm lễ giỗ tộc họ. Những hoạt động kinh doanh, sản xuất
thường có các hội nghề nghiệp tương ứng. Những hội này đều
có một vị tổ và một ngày giỗ tổ trong năm.

Múa Lân – Sư tử - Rồng là hình thức sinh hoạt văn nghệ truyền thống của
người Hoa thường tổ chức từ ngày 23 tháng Chạp (ngày ông Táo lên trời)
đến ngày 15 tháng giêng (Tết Nguyên tiêu) tại các chùa. Người Hoa chuẩn
bị kĩ càng trang phục trước khi múa lân.
Ảnh : Lê Duy Đại

82
Học chữ Hoa – một nhu cầu
bức thiết của người Hoa ở
Việt Nam đã được Đảng và
Nhà nước quan tâm và tạo
điều kiện. Hiện nay học chữ
Hoa đang phổ biến rộng rãi
trong cư dân người Hoa ở các
địa phương.
Ảnh : Lê Duy Đại

Gia đình được xây dựng theo chế độ một vợ một chồng khá bền vững và mang tính phụ hệ. Người
Hoa thường dựng vợ gả chồng cho con trong cùng một nhóm địa phương. Trưởng họ, ông mối,
các chức dịch đóng một vai trò khá quan trọng trong hôn nhân. Hiện nay, phụ nữ xây dựng gia
đình khá muộn (tuổi cưới trung bình là 28, 30) và có số con ít nhất (trung bình một phụ nữ sinh
2 hoặc 3 con).
Lễ tết : Trong một năm có nhiều ngày lễ tết : Nguyên đán, Nguyên tiêu, Thanh minh, Đoan ngọ,
Trung nguyên, Trung thu.
Tết Nguyên đán vào những ngày cuối năm cũ chuyển sang năm mới theo âm lịch và kéo dài tới ngày
rằm tháng giêng (Tết Nguyên tiêu). Lễ Nguyên tiêu là đặc trưng lễ tết của người Hoa, mọi hoạt động
tập trung nhất của tín ngưỡng và văn hóa truyền thống đều được biểu hiện trong dịp này.
Thờ cúng : Nổi bật trong các tín ngưỡng dân gian là thờ cúng tổ tiên, gia tộc, dòng họ, thờ cúng
các vị thần phù hộ (Thần Bếp, Thổ Địa, Thần Tài...) và một số vị thánh và bồ tát (Quan Công, bà
Thiên Hậu, ông Bổn, Nam Hải Quan Âm...).
Hệ thống chùa miếu khá phát triển. Chùa miếu của người Hoa thường gắn liền với các hội quán,
trường học. ở đó cũng là nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nơi diễn ra các hội lễ.
Học : Chữ Hoa được dạy và học trong các trường phổ thông.
Văn nghệ  : Sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Hoa có nhiều thể loại như hát, múa,
hài kịch... với nhiều loại nhạc cụ : tiêu, sáo, các loại đàn (tì bà, nhị, nguyệt...), chập chõa... Hát
“sơn ca” (Sán cố) là hình thức được nhiều người ưa chuộng, nhất là tầng lớp thanh niên. Tổ chức
văn nghệ dân gian truyền thống mang tính nghiệp dư đã có từ lâu là các "nhạc xã".
Múa lân, sư tử, rồng... là những loại hình nghệ thuật mang tính quần chúng sâu rộng được trình
diễn hằng năm, vào những ngày lễ lớn, ngày lễ tết.

83
Người hrê

Tên tự gọi : Hrê, trước kia thường gắn với tên sông sở tại như : “người Krế” - sông Krế ở Sơn Hà ;
“người Hrê” - sông Hrê ở Ba Tơ ; “người nước Đinh” - sông Đinh ở An Lão, v.v...
Tên gọi khác : Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Lũy, Mọi Sơn Phòng, Mọi Đá Vách, Chăm Quảng
Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Man Thạch Bích.
Dân số : 113.111 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á). Từ thời kì trước năm
1975, chữ viết ra đời bằng cách dùng hệ thống kí tự La-tinh để phiên âm, được sử dụng rộng rãi,
nhưng nay đã bị mai một.
Lịch sử : Người Hrê thuộc số cư dân sinh tụ rất lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.
Hoạt động sản xuất : Phần lớn người Hrê làm ruộng nước là chính, chỉ có một bộ phận sống chủ
yếu nhờ rẫy. Lối canh tác rẫy phát - đốt - chọc trỉa, với bộ nông cụ đơn giản gồm rìu, dao quắm,
gậy chọc lỗ, cái nạo cỏ, khi thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Cách thức làm ruộng tương tự như ở
người Việt vùng Nam Trung Bộ (dùng cày, bừa có đôi trâu kéo, biết gieo mạ và cấy, dùng liềm và
vằng để gặt, v.v...), nhưng còn thấy dấu vết của tập quán trồng lúa rẫy.
Từng gia đình thường nuôi trâu, lợn, chó, gà. Nghề thủ công chỉ có đan lát và dệt vải, nhưng nay
cũng không phát triển, nhất là nghề dệt chỉ còn ở vài nơi. Việc giao lưu hàng hóa thường theo
hình thức trao đổi vật trực tiếp. Hái lượm, săn bắt và đánh bắt cá cung cấp nguồn thức ăn quan
trọng cho mỗi gia đình.
Ăn : Người Hrê thường ngày ăn cơm tẻ, ngày lễ tết có thêm cơm nếp. Thức ăn chủ yếu là những
thứ kiếm được và muối ớt, khi có cúng bái thì thịt con vật bị hiến sinh được dùng làm đồ nhắm và
cải thiện bữa ăn. Thức ăn đựng trong các đồ vật làm bằng mo cau. Ăn bốc. Thức uống có nước lã,
nước chè xanh, rượu cần (nay rượu
cất khá thông dụng). Tập quán hút
thuốc lá và ăn trầu cau phổ biến.

Người Hrê dệt vải theo cách thức cổ truyền :


Bộ dụng cụ gồm những que, thanh, ống rời
nhau, đều làm bằng gỗ, tre. Chỉ khi giăng
thảm sợi để dệt, chúng mới liên kết với
nhau thành một hệ thống. Hoa văn được
dệt cùng với vải.
Ảnh : Vũ Hồng Thuật

84
Nhà ở của người Hrê thường dựng
sóng nhau trên triền đất chân gò,
núi, cạnh cánh đồng. Trong làng,
quanh nhà thường trồng cau,
chuối, mít, xoài, v.v… Mỗi làng ở
thành một khu vực mật tập, hoặc
gồm vài chòm xóm gần nhau.
Ảnh : Lưu Hùng

ở : Người Hrê sống chủ yếu ở miền tây tỉnh Quảng Ngãi (các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long) và
tỉnh Bình Định (huyện An Lão), một số ít ở tỉnh Kon Tum (huyện Kon Plông). Nhà sàn có cửa ra
vào ở mỗi đầu và một mặt bên, có 2 hàng cột tạo thành 2 vì cột, trên đỉnh đốc có hình cặp sừng
thú, vách nghiêng phía trên ra ngoài. Mặt sàn thường hơi cao một chút về bên không đặt bếp đun,
nhằm tạo thế nằm thoải mái : chân thấp hơn đầu. Nhà ở trong làng đều dựng ngang triền đất dốc,
tránh để đòn nóc chĩa hướng chắn ngang dòng chảy của sông suối.
Mặc : Ngày nay, hầu hết người Hrê mặc theo kiểu người Việt. Tuy nhiều phụ nữ còn dùng váy
nhưng không phải loại vải sợi bông tự làm ra với những dải hoa văn ở hai đầu ống váy và khi mặc
không tạo thành hai tầng như xưa.
Theo nếp cũ, đàn ông đóng khố, chít khăn, khi dự lễ hội hoặc đi xa thì mặc áo. Đàn bà có váy ống
mặc kiểu hai tầng ; có áo, khăn trùm đầu. Những vòng đeo trang sức làm bằng đồng, bạc, nhôm
và chuỗi cườm ; riêng nam giới không trang sức ở tai.
Phương tiện vận chuyển : Người Hrê quen dùng gùi sau lưng, mỗi quai gùi quàng giữ vào một
vai : chở thóc gạo thì dùng gùi đan dày ; chở củi, sắn thì có gùi mắt thưa ; đàn ông đi rừng hay
đi trận có riêng loại gùi như chiếc túi hoặc gùi ba ngăn. Ngoài ra, người Hrê còn gánh lúa khi gặt
và đội đồ vật trên đầu.
Quan hệ xã hội : Già làng có uy tín và ảnh hưởng lớn. Trước kia sự phân hóa xã hội đã khá sâu sắc,
chế độ tôi tớ - đặc biệt là đi ở vì nợ - có phần khắc nghiệt hơn nhiều tộc Thượng khác, hiện tượng
tranh chiếm và tập trung ruộng đất (theo đó là sự xác lập quyền thế của một số cá nhân) đã tương
đối phát triển. Tuy vậy, quan hệ trong làng vẫn thể hiện tinh thần cộng đồng công xã.
Cưới xin : Cư trú phía chồng hay phía vợ là tùy thỏa thuận giữa hai gia đình, phần đông sẽ dựng
nhà ở riêng sau khi có con đầu lòng. Đám cưới có nghi thức dâu và rể kết gắn với nhau thông qua
việc trao bát rượu, miếng trầu cho nhau hay quàng chung một vòng dây sợi, v.v... Vợ góa có thể
lấy tiếp em chồng, chồng có thể lấy cả em vợ. Con cô - con cậu, con dì - con già, con có chung
mẹ hoặc cha đều không được lấy nhau.

85
Sinh đẻ : Việc sinh đẻ diễn ra bên cạnh bếp lửa trong nhà, có bà đỡ hộ sinh, cắt rốn bằng dao, cái
nhau được gói trong mo cau rồi đem bỏ trong rừng hoặc chôn cạnh nhà. Sản phụ nghỉ ngơi vài chục
ngày, kiêng ăn cá niêng, trứng, chuối, thịt gà trắng, v.v... Đứa bé đầy tháng mới làm lễ đặt tên.
Ma chay : Quan tài độc mộc có dáng hao hao chiếc thuyền. Người chết được quàn tại nhà từ 1 đến
3 ngày rồi chôn trong bãi mộ của làng. Mộ đắp thành gò dài, trên dựng nhà mồ có nóc mái làm
như nhà ở. Tang gia “chia của” tựa hồ cho người chết đi ở riêng : từ đồ ăn thức uống cho đến vật
dụng trong nhà, từ trang phục, công cụ lao động, v.v... đều có ở mộ.
Thờ cúng : Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều
có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Khi ốm đau, rủi ro, khi làm nhà,
mang thai, đẻ khó, có người chết, khi gieo cấy và gặt hái, khi gieo trỉa và tuốt lúa, khi đưa thóc
lên kho và lần đầu lấy thóc về ăn, v.v... đều cúng bái. Cộng đồng làng chỉ tổ chức cúng cầu an,
tránh dịch bệnh, còn lại đều là các lễ cúng của gia đình.
Lễ tết : Lễ hội có đâm trâu là lớn nhất, dù đó là lễ của làng hay một nhà cũng đông vui. Hằng năm,
người Hrê ăn Tết vào khoảng tháng 10, sau khi thu hoạch lúa, nay nhiều làng theo Tết Nguyên
đán. Ngày Tết có cúng cho trâu và lợn, cầu sinh sôi, cúng mời tổ tiên và cúng sức khỏe cho mọi
người trong nhà ; có bánh gói bằng gạo nếp ; có rượu, thịt, v.v... Dịp Tết làng làm lễ cúng tập thể
cầu mong mưa thuận, đủ nước.
Lịch  : Cách tính tương tự âm lịch của
người Việt. Trong tháng, phân biệt ngày
tốt - ngày xấu và chọn ra những ngày nên
làm việc này, không nên làm việc kia.
Văn nghệ : Nhạc cụ thường dùng là bộ
chiêng ba chiếc, bộ cồng ba chiếc, trống,
các loại đàn ống tre hoặc có vỏ bầu làm
hộp âm, sáo, nhị, đàn môi, nữ giới chơi
bộ ống vỗ hai chiếc. Dân ca phổ biến
nhất là điệu Kalêu và Kachoi. Truyện cổ
(Hmon) được lưu truyền như một vốn quý
trong văn hóa dân tộc, gồm những đề tài
khác nhau. Các mô típ hoa văn hình học
dệt trên vải và thể hiện trên đồ đan cũng
mang tính truyền thống lâu đời.

Mỗi mùa canh tác rẫy có nhiều lễ thức tôn giáo.


Cũng như các tộc Thượng khác, người Hrê luôn
hi vọng nhờ đó mùa màng sẽ tốt tươi, lúa nhiều,
no ấm. Trong các lễ thức, bao giờ cũng có hiến tế
đồ ăn thức uống cho thần linh, đặc biệt là tiết,
gan và thịt con vật dùng để tế.
Ảnh : Vũ Hồng Thuật

86
NGƯỜI KHÁNG

Tên tự gọi : Mơ Kháng.


Tên gọi khác : Háng, Brển, Xá.
Nhóm địa phương  : Kháng Dẩng, Kháng Hoặc, Kháng Dón,
Kháng Súa, Ma Háng, Bủ Háng, Ma Háng Béng, Bủ Háng Cọi...
Dân số : 10.272 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ
hệ Nam Á). Họ nói thạo tiếng Thái. Đan hòm mây là một nghề thủ công
Lịch sử : Người Kháng là một trong số các dân tộc cư trú lâu truyền thống của người Kháng.
Sản phẩm của nghề này được ưa
đời nhất ở miền Tây Bắc nước ta. chuộng nên đã trở thành mặt hàng
Hoạt động sản xuất : Nương rẫy là hình thái kinh tế chủ đạo phổ biến.
với cách thức phát đốt, chọc lỗ tra hạt. Có thể phân thành Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam.
3 nhóm :
Ảnh : Phạm Ngọc Long
- Nhóm sống du canh du cư : làm rẫy.
- Nhóm du canh bán định cư : làm rẫy kết hợp làm ruộng.
- Nhóm định canh định cư : làm ruộng kết hợp làm rẫy. Tập
quán trồng lúa nếp kết hợp trồng ngô, sắn, vừng...
Chăn nuôi khá phát triển : lợn, gà, vịt, trâu, bò.
Nghề phụ nổi tiếng là đan lát đồ gia dụng (hòm, ghế mây,
mâm, gùi...). Người Kháng giỏi đóng và đi thuyền độc mộc,
thuyền đuôi én. Thuyền của họ đóng được các dân tộc anh em
ưa mua dùng.
Ăn : Người Kháng thích ăn xôi và các món có vị chua, cay như :
cá ướp chua, dưa lá củ ráy ngứa, món hỗn hợp gồm lá lốt, thịt,
ớt, tỏi, rau thơm hòa trộn, đồ chín. Tục uống bằng mũi (tu mui)
là nét văn hóa độc đáo của họ. Người Kháng quen uống rượu
trắng, rượu cần, hút thuốc lá và thuốc lào.
Mặc : Người Kháng ăn mặc giống người Thái.

Cùng cư trú lâu đời trên một địa bàn, nhiều nếp sinh hoạt của người Kháng
chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Thái. Bộ nữ phục Kháng trong ảnh
mang dáng dấp nữ phục Thái trắng.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

87
ở : Người Kháng cư trú tập trung ở các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc, như : Sơn La, Điện Biên, Lai Châu.
Nhà ở có 2 dạng : nhà tạm bợ và nhà kiên cố. Nhà sàn gồm 1 mái và 2 mái, không phủ nóc, không
có chái, có cửa chính thông suốt từ đầu này sang đầu kia, thông với cầu thang lên xuống.
Phương tiện vận chuyển : Gùi có dây đeo qua trán, thuyền đuôi én.
Quan hệ xã hội : Nằm trong sự quản lí của các mường Thái trước đây, người Kháng không có tổ
chức xã hội riêng. Chức dịch cao nhất trong bản là : quan cai gần như Tạo bản người Thái. Trong
các bản người Kháng đã có sự phân hóa giàu nghèo.
Tiểu gia đình phụ quyền chiếm ưu thế trong bản. Bên cạnh đó cũng tồn tại một số tàn dư của chế
độ mẫu hệ : tục ở rể, vai trò ông cậu... Trưởng họ vẫn có vai trò nhất định.
Cưới xin : Ngày xưa, việc lấy vợ, lấy chồng của người Kháng vừa tự do vừa phải qua nhiều nghi thức.
Sau bốn năm đêm tìm hiểu ngủ lại nhà người con gái, nếu đôi trai gái ưng ý nhau thì tiến hành ăn
hỏi và rất nhiều nghi thức mà đôi trẻ và hai bên nhà trai nhà gái phải thực hiện. Sau 3 năm ở rể, đôi
vợ chồng trẻ phải làm lễ ra mắt hai họ, nhà trai mới tổ chức đón dâu. Đây là lễ quan trọng nhất.
Ma chay : Người Kháng có tục chia của cho người chết gồm : chăn, đệm, dao, bát, đĩa, hòm đựng
quần áo, ống nước, giỏ xôi... và những gì khi còn sống người quá cố thường dùng. Tất cả những
lễ vật này được đặt phía trên đầu mộ. Ở phía đầu mộ còn chôn một cái cột cao, trên đó buộc treo
một hình con chim bằng gỗ và một cái áo mà người chết thường mặc. Sau khi chôn xong, về đến
nhà, anh em, bà con phải đứng dưới gầm sàn để ông cậu cắt mỗi người một nhúm tóc bỏ vào bát
nước lã đựng trứng hoặc cá sấy khô rồi đem vứt ở vệ đường vào bãi tha ma để hồn người chết
không về quấy rối con cháu, người thân.
Thờ cúng : Họ tin rằng con người có 5 hồn. Một hồn chính ở trên đầu và 4 hồn ở tứ chi. Khi chết,
hồn chính biến thành ma lành phù hộ con cháu, 4 hồn còn lại biến thành ma dữ hay quấy nhiễu
vòi "ăn". Người ta còn tin nhiều loại ma khác như : ma suối, ma bản... Người Kháng thờ ma cả
bố và cả mẹ. Việc cúng bố mẹ được tiến hành 3 năm
một lần. Đây là lễ vui nhất, gia đình thường mời anh
em, bà con trong bản tới dự bữa cơm, sau đó xòe, múa
thâu đêm.
Lễ tết : Người Kháng ăn Tết Nguyên đán, Tết Cơm mới
và thực hiện các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp
nương rẫy.
Văn nghệ : Những làn điệu dân ca của người Kháng
thường phản ánh đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nhiều
người biết hát các bài hát, áng thơ của người Thái,
thuộc nhiều tục ngữ ca dao.

Người Kháng cũng như nhiều dân tộc khác ở Tây Bắc, có thói
quen dự trữ nước ăn trong các ống bương. Gùi nước về nhà trên
chiếc gùi đeo bằng trán.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

88
Người khmer

Tên tự gọi : Người Khmer.


Tên gọi khác : Cur, Cul, Cu, Thổ, Việt gốc Miên, Khmer K’rôm.
Dân số : 1.055.174 người, là dân tộc có số dân đông nhất trong các tộc người nói ngôn ngữ
Môn - Khmer ở Việt Nam.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
Lịch sử : Trước thế kỉ XVII người Khmer và văn hóa của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất : Người
Khmer là cư dân nông nghiệp
dùng cày và trồng lúa nước.
Trong bộ công cụ nông
nghiệp khá hoàn thiện và
hiệu quả của họ, có những
nông cụ độc đáo thích ứng
với điều kiện địa lí sinh thái
Nam Bộ như cái phảng thay
cho cày chuyên dùng ở vùng
đất phèn, mặn để phát cỏ. Cù
nèo (pok) dùng để vơ cỏ. Cây
nọc cấy (sơ chal) dấu vết của
chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo
Tạo dáng đồ gốm.
ra lỗ để cắm cây lúa ở những Ảnh : Nguyễn Trung Dũng
chân ruộng nước nhưng
đất cứng, và cái vòng gặt
(kần điêu) dùng để cắt lúa.

Cày hai bò là một đặc trưng kĩ thuật


nông nghiệp của người dân Khmer.
Ảnh : Nguyễn Trường Giang

89
Người Khmer còn thạo nghề đánh cá, dệt chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm.
Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (k’leng), bàn dập (chơ), chưa dùng bàn xoay,
không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu, với độ nung thấp từ 600oC đến 800oC. Sản phẩm
gốm chủ yếu là đồ gia dụng, tiêu biểu nhất là bếp (cà ràng) và nồi (cà om) rất được người Việt,
người Hoa ở Đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn : Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và
cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại
mắm : mắm ơn pứ làm bằng tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là
mắm b’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích
nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ớt, cari...).
Mặc : Nam, nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay
thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu
đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên
đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc
xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng
(kăl xinh) và con dao cưới (kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc xăm pốt (váy) màu
tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. Áo dài Khmer (wện)
gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm : áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và
xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải
(thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
ở : Họ sống ở Đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và tụ cư
trên 3 vùng môi sinh lớn : vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây
Nam giáp biên giới Campuchia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà
trệt, mái lá, vách lá đơn giản.
Phương tiện vận chuyển : Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên
đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe thuyền của người Khmer có rất nhiều loại :
xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền “tắc rán” hoặc thuyền “đuôi tôm” chạy máy. Đặc biệt nhất là
chiếc ghe ngo (tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30 - 40 tay chèo, mũi và hai bên thành
thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào Mặt Trăng
ok-ang bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "phum",
“sóc” coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội : Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng, và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4
thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như : Danh, Kiên,
Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như : Trần, Nguyễn, Dương, Trương,
Mã, Lí... Lại có những họ thuần túy Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn
hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít khi xảy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân : Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thỏa thuận của con cái. Cưới xin trải qua
3 bước : làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải

90
ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm, hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú
bên ngoại.
Ma chay : Tục hỏa thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp Pì chét đẩy, xây cạnh
ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết : Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chôl Chhnăm Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng
tháng 4 dương lịch.
Lễ chào Mặt Trăng (Ok Om bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền ngo
giữa các phum-sóc.
Thờ cúng : Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng Thần Ruộng (Neak
Tà xre), gọi hồn lúa (Ok Om leok), Thần Mặt Trăng (Ok Om bok).
Học  : Con trai khi lớn đều được
cha mẹ cho gửi vào chùa làm sư
từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh
Phật, học chữ Khmer ở các trường
chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ
mới được phép hoàn tục và mới có
quyền được lập gia đình.
Văn nghệ : Người Khmer có cả một
kho tàng phong phú về truyện cổ
như thần thoại, truyền thuyết, cổ
tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một
nền sân khấu truyền thống như Dù
kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có
nguồn gốc Ấn Độ, vừa có nguồn gốc
Đông Nam Á. Nghệ thuật và kiến
trúc chùa tháp được coi là di sản
đặc sắc nhất của văn hóa Khmer.
Trong các ngôi chùa Khmer của
Phật giáo Tiểu thừa (Thérévada),
ngoài tượng Đức Phật Thích Ca
được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí
trung tâm khu chính điện, vẫn tồn
tại một hệ thống phong phú linh
thần, linh thú - những dấu vết tàn
dư còn lại của Bà la môn giáo và tín
ngưỡng dân gian.
Chùa và sinh hoạt Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần và xã hội.
Ảnh : Nguyễn Trung Dũng

91
Người khơ-mú

Tên tự gọi : Kmụ, Kưm Mụ.


Tên gọi khác : Xá Cẩu, Khạ Klẩu, Mãng Cẩu, Tày Hạy, Mứn Xen, Pu Thềnh, Tềnh.
Dân số : 56.542 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Khơ-mú là một trong những cư dân đã cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ
phận Khơ-mú cư trú tại miền núi các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An do chuyển cư từ Lào sang.
Hoạt động sản xuất : Là cư dân sinh sống chủ yếu bằng canh tác nương rẫy nên được gọi là "Xá
ăn lửa". Ngoài hình thái du canh, du cư là chủ yếu, bộ phận định cư thường canh tác nương theo
chu trình vòng tròn khép kín. Cây trồng ngoài lúa, ngô ra còn có bầu, bí, đỗ và các loại cây có
củ. Công cụ sản xuất gồm rìu, dao, cuốc, trong đó đáng lưu ý nhất là chiếc gậy chọc lỗ. Hoặc gậy
đơn hoặc gậy kép (bịt sắt) có thể dùng nhiều năm. Hái lượm và săn bắn vẫn có vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế. Nghề phụ gia đình chủ yếu là đan lát đồ gia dụng. Một số nơi biết thêm
nghề rèn, mộc, dệt vải. Việc trao đổi, mua bán chủ yếu là hình thức hàng đổi hàng. Vỏ ốc kxoong
trước kia được coi như vật ngang giá. Người Khơ-mú chăn nuôi trâu bò, lợn gà phục vụ sức kéo và
nhu cầu tiêu dùng, tín ngưỡng.
Ăn : Người Khơ-mú thường đồ xôi hay đồ ngô,
độn sắn. Họ thích ăn những món có vị cay, chua,
đắng, các thức ăn nướng, có mùi như chẻo, nậm
pịa, cá chua...
Mặc : Người Khơ-mú mặc giống người Thái, nhưng
có điều khác là cách trang trí những hàng tiền bạc
và vỏ ốc ở phía trước thân áo của phụ nữ. Ngày
nay, phần lớn người Khơ-mú, nhất là nam giới đều
ăn mặc theo người Thái, Việt.

Quen ăn nước mạch trong các khe núi. Không có thói quen
đưa nước lần về tận nhà. Hằng ngày, phụ nữ và trẻ em hứng
nước mạch vào các ống bương, gánh về nhà.
Ảnh : Trọng Thanh

92
ở : Hiện nay họ cư trú tại các tỉnh : Yên Bái,
Sơn La, Lai Châu. Vì điều kiện du canh, du cư
nên bản làng thường nhỏ bé, rải rác. Nhà sàn
chủ yếu dùng cột không ngoãm, vách phên,
sàn bương. Hiện nay nhiều nơi đã làm nhà
khang trang, vững chãi hơn.
Phương tiện vận chuyển : Cơ bản là gùi có dây
đeo trên trán, có ách tì vai và các loại túi đeo ;
bộ phận người Khơ-mú làm ruộng dùng thêm
sọt gánh.
Quan hệ xã hội : Người Khơ-mú quan hệ chặt
chẽ giữa những người đồng tộc và những người
láng giềng, nhất là người Thái.

Chiếc tiêu ba lỗ nối với bầu cộng âm làm từ một đốt nứa
to hơn ống thổi.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

Mỗi bản gồm nhiều gia đình thuộc các dòng họ khác nhau. Mỗi họ có trưởng họ. Người dân trong
bản đã có phân hóa giàu nghèo. Những dòng họ người Khơ-mú đều mang tên thú, chim, cây cỏ...
có thể chia làm 3 nhóm tên họ. Nhóm tên thú gồm hổ, chồn, cầy hương... Nhóm tên chim gồm
phượng hoàng đất, chìa vôi, cuốc, bìm bịp... Nhóm tên cây gồm guột, rau dớn, dương xỉ, tỏi...
Ngoài ra còn một số họ mang tên vật vô tri như : rọ lợn, môi múc canh...
Cưới xin : Hôn nhân theo nguyên tắc thuận chiều, đặc biệt trong phạm vi một dòng họ. Trong
hôn nhân, nhiều tàn dư mẫu hệ còn tồn tại như tục ở rể, chồng mang họ vợ, hôn nhân anh em
vợ, chị em chồng... Đám cưới được tiến hành qua các khâu dạm hỏi, ở rể, lễ cưới bên nhà vợ và
lễ đón dâu... Trai gái được tự do tìm hiểu nhưng quyền quyết định do bố mẹ, đặc biệt là ông cậu.
Ông cậu là người có ý kiến quyết định tiền thách cưới, đồ sính lễ.
Ma chay : Đám ma của người Khơ-mú gồm nhiều nghi thức tín ngưỡng. Đặc biệt bài cúng tiễn hồn
người chết kéo dài hàng giờ sau đó mới đem thi hài đi chôn.
Nhà mới : Lên nhà mới là dịp vui của gia đình và cả bản. Chủ nhà thường mổ lợn thết đãi bà con
xóm giềng. Đây là dịp dân bản trình diễn các sinh hoạt văn nghệ có tính cộng đồng.
Lễ tết : Ngoài Tết Nguyên đán ra, người Khơ-mú còn ăn Tết Cơm mới. Tết được tổ chức sau vụ gặt
tháng 10 âm lịch. Đây là dịp vui của cả bản sau một thời gian lao động mệt nhọc. Tết Cơm mới
của người Khơ-mú thể hiện sắc thái văn hóa tộc người đậm nét. Họ còn duy trì nhiều nghi lễ liên
quan đến nông nghiệp, trồng trọt.

93
Thờ cúng : Người Khơ-mú quan niệm có 5 loại ma quan trọng nhất là : Ma Trời, Ma Đất, Ma Thuồng
luồng, Ma Tổ tiên và Ma Nhà. Đó là các loại ma mang điều lành cho con người nhưng đôi khi giận
dữ có thể gây tai họa trừng phạt con người.
Ngoài lễ cúng mường, người Khơ-mú còn lễ cúng bản, đặc biệt là lễ cúng Ma Nhà trong các dịp tết
và khi con cháu trong nhà đau ốm. Bàn thờ Ma Nhà đặt trên gác bếp, còn ông bà thờ ở một gian
riêng kín đáo và rất kiêng kị đối với người ngoài. Mỗi dòng họ vẫn duy trì tục thờ ma dòng họ với
nghi thức và các động tác mang đặc trưng riêng.
Lịch : Ngoài theo lịch Thái, người Khơ-mú phổ biến cách tính ngày giờ căn cứ theo bảng cà la để
vận dụng trong việc dựng nhà, cưới gả...
Học : Nhiều người biết đọc, viết chữ Thái.
Văn nghệ : Làn điệu dân ca quen thuộc nhiều người ưa thích là Tơm. Làn điệu này mang đậm tính
sử thi, trữ tình. Cách hát theo kiểu đối đáp. Người Khơ-mú thích xòe, múa, thổi các loại sáo, các
bộ gõ bằng tre, nứa tự tạo, đặc biệt là thổi kèn môi.
Chơi : Trong các ngày lễ tết, trẻ em hay đánh cầu lông làm bằng lông gà, đánh quay và các trò chơi dân
gian khác.

Đàn “đao” (hưn mạy)


được làm bằng một
loại nứa tép hoặc tre,
do phụ nữ chế tác và
biểu diễn.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

94
Người La Chí

Tên tự gọi : Cù Tê.


Tên gọi khác : Thổ Đen, Mán, Xá.
Dân số : 10.765 người.
Ngôn ngữ  : Tiếng nói thuộc
nhóm ngôn ngữ Ka Đai (ngữ hệ
Thái - Ka Đai), cùng nhóm với
tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo.
Lịch sử  : Người La Chí có lịch
sử cư trú lâu đời ở Hà Giang,
Lào Cai.
Hoạt động sản xuất : Người La
Chí giỏi nghề khai khẩn và làm
ruộng bậc thang, trồng lúa nước.
Họ gặt lúa nếp bằng hái nhắt còn
gặt lúa tẻ bằng liềm, đập lúa vào
máng gỗ lấy thóc ngay ở ngoài
ruộng. Họ sử dụng cả ba loại Người La Chí đan những đôi hòm bằng tre vuông vức, cải hoa vắn rất
nương với các công cụ sản xuất đẹp dành riêng cho cô dâu đựng tư trang khi về nhà chồng. Những chiếc
khác nhau  : gậy chọc lỗ, cuốc, hòm tre đó trở thành biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi. Chỉ trong những
trường hợp vợ chồng li dị, đôi hòm tre mới có thể bị bỏ đi, còn không họ
cày. Người ta dành nương tốt
dùng đến lúc chết thì chôn theo.
nhất để trồng chàm, bông. Ảnh : Phạm Văn Dương

Ruộng bậc thang của người La Chí.


Ảnh : Phạm Văn Dương

95
Ăn : Người La Chí có cách nấu và ghế cơm bằng hơi
nước rất độc đáo. Cơm nấu trong chảo to, cơm sôi
thì vớt lên cho vào chõ đồ như đồ xôi. Cơm dỡ ra
không bị nát mà khô dẻo nhờ được đồ chín bằng
hơi nước nóng. Có nhiều cách giữ thực phẩm để ăn
dần nhưng sấy khô, làm thịt chua là phổ biến nhất.
Da trâu sấy khô là món ăn rất được ưa chuộng.
Họ thích để răng đen. Răng càng đen càng
đẹp. Thanh niên thích bịt răng vàng, coi đó là
hình thức làm duyên làm dáng, dấu hiệu của sự
trưởng thành.

Dùng đũa là thói quen của người La Chí, ngay cả khi ăn


nhanh ở trên đường.
Ảnh : Trọng Thanh

Mặc : Đàn ông mặc áo dài năm thân, cài khuy bên nách phải, tóc dài quá vai, đội khăn cuốn hay
khăn xếp, thích đeo túi vải chàm có viền đỏ xung quanh để đựng diêm thuốc và các thứ lặt vặt.
Phụ nữ mặc quần, một số ít còn mặc váy. Bộ y phục truyền thống là chiếc áo dài tứ thân xẻ giữa,
yếm thêu, thắt lưng bằng vải. Vào dịp tết, lễ người ta còn diện ba chiếc áo dài lồng vào nhau. Nữ
giới ưa dùng khăn đội đầu dài gần 3 mét. Màu chàm đen rất được ưa thích. Nữ đeo vòng tai, vòng
tay. Nam chỉ đeo vòng tay. Thầy cúng mỗi khi hành lễ có y phục riêng. Đó là bộ quần áo thụng,
dài quá mắt cá chân, xẻ giữa, có thắt lưng bằng vải, đầu đội mũ vải rộng, có quai. Trong một số
nghi lễ, người hành lễ đeo một miếng da trâu khô hoặc đội nón.
ở : Họ thường sống thành từng làng ở vùng núi đất các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần (Hà
Giang). Nhà của mỗi gia đình là một quần thể kiến trúc gồm nhà sàn - nhà trệt - kho thóc trong
một phạm vi không gian hẹp. Kiểu kiến trúc kết hợp chặt chẽ giữa sàn và nhà trệt là một sáng
tạo văn hóa độc đáo. Mỗi nhà gồm hai phần, mái lồng vào nhau, phần nhà sàn để ở, phần nhà
trệt là nơi làm bếp.
Lên nhà mới phải mời thầy cúng về cúng xua đuổi ma bằng cách dùng ba cây cỏ lá khua bốn góc
nhà, bắt đầu từ góc của bố mẹ trước. Nếu người con trai đã có bàn thờ ở nhà cũ thì tháo bàn thờ
đó về lắp ở nhà mới trong vị trí của người chủ gia đình. Trong suốt 13 ngày kể từ hôm lên nhà
mới, bếp lửa luôn luôn sáng thì mới may mắn.
Phương tiện vận chuyển : Có sự kết hợp giữa cách vận chuyển của cư dân vùng cao và cư dân vùng
thung lũng. Phụ nữ phổ biến dùng địu đan bằng giang hoặc địu vải. Cái địu đều có quai đeo trên
trán để chuyên chở. Đàn ông dùng địu có hai quai đeo vai kiểu địu của người Mông hoặc dùng đòn
gánh, gánh đôi dậu. Người La Chí địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.

96
Chiếc máng lần là phương tiện dẫn nước phổ biến về đến tận nhà hay gần nhà. Từ bến nước người
ta chứa nước vào những ống bương dài tới 1,5m và vác lên nhà sàn để gần chạn bát dùng dần.
Dùng ngựa để thồ hàng cũng là một phương tiện phổ biến.
Các quan hệ xã hội : Gia đình ba thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng thế hệ chung sống với nhau
là phổ biến. Mỗi họ có người đứng đầu chăm lo việc cúng. Đó không phải là người trưởng họ mà
chỉ là người biết cúng. Người ta chọn người giữ vị trí này bằng cách bói xem xương đùi gà.
Người La Chí có cách gọi tên theo nguyên tắc phụ tử liên danh với công thức là : họ - pô (bố) -
tên con - tên riêng của người được gọi. Người phụ nữ có con được gọi theo công thức sau : mìa
(mẹ) - tên con cả - tên chồng.
Tục nhận bố mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ biến. Trẻ chào đời sau ba buổi sáng, gia chủ đặt một
sợi chỉ đỏ trên một bát nước đầy ở trên bàn thờ, chờ ai đó vào nhà trước sẽ được nhận làm bố mẹ
nuôi, đặt tên cho cháu bé. Trẻ khóc nhiều được quan niệm là tên chưa hợp, phải bói tìm dòng họ
thích hợp làm bố mẹ nuôi đặt tên cho con.
Thờ cúng : Người ta cúng tổ tiên vào các dịp tết, lễ. Tổ tiên được cúng ba đời đối với nam, hai đời
đối với nữ. Theo phong tục, bố mẹ chôn ngày nào con cái nhớ suốt đời không được gieo giống hay
cho vay, mượn vào ngày đó. Đó không phải là ngày sinh sôi, phát triển.
Trong một nhà có nhiều bàn thờ
cho mỗi người đàn ông. Bàn thờ
dựng theo thứ tự của bố, con
trai út, các con trai thứ, trong
cùng của con trai cả. Mỗi bàn
thờ được coi là hoàn thành phải
qua ba lần cúng dỡ đi lập lại bàn
thờ mới.

Đi xa người La Chí thường đeo túi vải


nhuộm chàm vắt chéo qua vai.
Ảnh : Trọng Thanh

97
Học : Các kiến thức và kinh nghiệm dân gian được trao truyền giữa các thế hệ bằng miệng. Thần
thoại, cổ tích đặc biệt phong phú giải thích cho thế hệ trẻ nhiều hiện tượng thiên nhiên và xã hội
theo quan niệm dân gian.
Văn nghệ : Ngày tết, lễ trai gái thường hát đối đáp, chơi đàn tính 3 dây, đàn môi. Trống, chiêng
được dùng phổ biến.
Chơi : Tết Nguyên đán nam nữ thường tập trung ở bãi rộng chơi ném còn, đánh quay, chơi đu
thăng bằng. Tết tháng tám họ chơi đu dây. Trẻ em thích chơi ống phốc.

Trong lễ cưới của dân tộc La Chí, khi đón


dâu về tới chân cầu thang nhà sàn, nhà
trai chuẩn bị sẵn một thùng nước ấm để
người phù dâu rửa chân cho cô dâu và rửa
chân mình trước lúc bước lên cầu thang
vào nhà.
Ảnh : Phạm Văn Dương

98
NGƯỜI LA HA

Tên tự gọi : La Ha, Klá Phlạo.


Tên gọi khác  : Xá Cha, Xá Bung, Xá
Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống,
Bủ Hả, Pụa.
Nhóm địa phương  : La Ha cạn (Khlá
Phlạo), La Ha nước (La Ha ủng).
Dân số : 5.686 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn
ngữ Ka Đai (ngữ hệ Thái - Ka Đai).
Lịch sử  : Người La Ha có mặt sớm ở
miền Tây Bắc nước ta. Theo những tài
liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỉ XI, XII Với người La Ha và nhiều dân tộc khác ở Tây Bắc, vỏ quả bầu
không những chỉ để đựng nước mà còn cắt thành bầu đựng xôi.
khi người Thái Đen thiên di tới vùng
đất này, họ đã gặp tổ tiên của người Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm Ảnh : Phạm Ngọc Long
lễ cúng mường, người Thái vẫn còn tục
đặt cỗ “trâu trắng” để tế thần Ăm Poi -
một thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha
vào đầu thế kỉ XI.
Hoạt động sản xuất : Người La Ha đã
bắt đầu làm ruộng nước, nhưng loại hình
kinh tế chính vẫn là nương rẫy du canh
du cư và săn bắn, hái lượm. Phương thức
canh tác đơn giản, dùng gậy chọc lỗ và
dao phát nương. Cây trồng chủ yếu là
lúa nếp, ngô, đậu tương, bông. Phụ nữ
La Ha xưa không biết dệt vải. Về sau do
học được ở người Thái mà biết tự làm đồ
may mặc.

Chiếc hom giỏ thể hiện kĩ thuật cao của nghề đánh bắt cá truyền
thống, phổ biến cả ở đồng bằng lẫn miền núi.
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Ảnh : Phạm Ngọc Long

99
Đây là chiếc giỏ có nắp đậy người
La Ha đan bằng tre, nứa, mây để
cho nữ giới dùng làm vật đựng đồ.
Phụ nữ La Ha thường đeo vật dụng
này để đi chợ, hội hè hay đựng đồ
kim chỉ, vải thêu, đồ trang sức.
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam.
Ảnh : Phạm Ngọc Long

Ăn : Lương thực chính là gạo nếp chế biến theo cách đồ thành xôi, nay chuyển sang ăn cơm tẻ.
Thực phẩm thường được ướp chua, nướng, lùi hoặc sấy khô để dành. Phụ nữ ăn trầu.
Mặc : Trước kia đàn ông búi tóc sau gáy nhưng đến nay chỉ còn vài cụ già và thầy cúng giữ tục
này. Đàn bà nhuộm răng đen, mặc giống người Thái Đen. Một số nơi còn đeo thêm tạp dề ở thân
váy trước hoặc khoác trên lưng khi rét. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng thì búi tóc
trên đỉnh đầu giống người Thái Đen. Có nơi từ em bé gái đến bà cụ già chỉ có một cách búi duy
nhất là trên đỉnh đầu, hoặc do ảnh hưởng của người Thái Trắng chỉ vấn tóc trần hoặc búi tóc sau
gáy không phân biệt có chồng hay chưa.
ở : Nhà sàn cấu trúc theo 2 kiểu :
Kiểu ở tạm từ 1 đến 3 năm của những nhóm sống du canh du cư. Loại nhà này hai đầu hồi mái
nhà lượn tròn theo hình bầu dục, dài ra hai bên như hình hàm lợn...
Kiểu nhà ở lâu năm của những nhóm cư dân sống bán định cư, bán định canh hoặc định canh định
cư. Loại nhà này hai đầu hồi mái tròn khum hình mai rùa giống kiểu nhà người Thái Đen.
Bố cục trong nhà chia làm hai phần, phần để tiếp khách rộng từ 1/2 đến 2/3 diện tích nhà. Ngăn
giữa phần chủ và khách là một cái cột buộc hũ rượu cần bên cạnh.
Phương tiện vận chuyển : Gùi, trâu kéo, ngựa thồ.
Quan hệ xã hội : Người La Ha sống theo làng bản. Trước đây đứng đầu bản là Khun cai, hai người
giúp việc Khun cai là Khun tang, Khun téng do dân cử ra.
Gia đình người La Ha là gia đình nhỏ, phụ hệ. Không chỉ con cái mang họ bố mà vợ cũng phải
mang họ chồng. Con gái không được thừa kế tài sản.
Cưới xin : Hôn nhân một vợ một chồng đã mang tính chất mua bán thể hiện ở khoản tiền cưới
gọi là nang khả pọm (giá đầu người) để trả ơn bố mẹ vợ và tục ở rể. Tuy nhiên trai gái được tự do
tìm hiểu, không có sự ép buộc của cha mẹ. Sau thời gian tìm hiểu từ 3 đến 10 ngày người con trai
nói với bố mẹ cử người đi dạm. Nhà gái nhận trầu và đưa áo của cô gái cho bên nhà trai xem bói.

100
Nhà gái chia trầu cho họ hàng để hỏi ý kiến. Ai không đồng ý thì trả lại trầu. Trong 5 ngày nếu
nhà gái không trả lại trầu cho nhà trai có nghĩa là nhà gái đồng ý và 10 ngày sau người con trai
đến nhà gái bắt đầu ở rể làm công cho bố mẹ vợ. Thời gian ở rể là từ 4 đến 8 năm. Hết hạn ở rể
mới bắt đầu tổ chức lễ cưới chính thức thu mà phu (làm cơm rượu). Sau lễ cưới này, cô dâu được
đón về nhà chồng, đổi họ theo họ chồng và không được quay về ở với bố mẹ đẻ nữa, dù chồng
chết. Trường hợp người đàn bà góa đi bước nữa, người chồng thứ hai mang lễ cưới nhỏ thu cơi
poọng (làm gà báo cưới) đến gia đình người chồng thứ nhất chứ không cần có quan hệ gì với bố
mẹ của người đàn bà góa. Người đàn bà góa đi bước nữa vẫn quan niệm rằng khi chết đi, hồn lại
tìm về với người chồng chính thức đã làm lễ thu mà phu. Vì vậy, ở một số nơi, bố mẹ đã chết cả
mà chưa làm được lễ cưới thu mà phu thì con phải làm lễ cưới đó cho bố mẹ để bố mẹ được sống
với nhau ở thế giới bên kia.
Thờ cúng : Người La Ha thờ tổ tiên trong gian nhà hóng như của người Thái.
Thầy cúng một lao cúng gọi hồn và đuổi tà ma. Hằng năm hoặc 2, 3 năm một lần một lao làm lễ
cúng tổ tiên của mình và các vị thần linh khác. Trong số các vị thần ấy Thần Dương vật (linga) và
Thần Cung kiếm là đáng sợ hơn cả. Bởi vậy, bàn thờ của một lao bao giờ cũng có hình nộm dương
vật, kiếm và cái mộc.
Kiêng đem rau xanh, lá xanh, vật màu xanh và thịt sống vào cửa bên ở của gia đình, mà phải mang
những thứ đó vào cửa của bên khách. Khi đặt nồi, chảo lên bếp phải đặt hai quai theo hướng nằm
ngủ của người trong gia đình, kiêng không để quai nồi, chảo theo hướng của 2 cửa ra vào vì đó là
hướng đặt người chết trước khi đem chôn. Khi có người chết, tất cả những điều kiêng kị trên đều
được hủy bỏ và làm ngược lại.
Ma chay : Người La Ha không có tục đốt xác như người Thái Đen mà đem chôn. Thi hài được liệm
bằng vải hoặc bằng chiếu nan và khiêng ra đến mộ mới bỏ vào quan tài và hạ huyệt. Nếu người
chết là bố, người con trai cầm dao phá nơi thờ cũ đuổi ma bậc ông đi để bắt đầu thờ Ma Bố. Nếu
người chết là mẹ, con trai cầm dao đập vào phên chỗ mẹ ngủ, tượng trưng cho việc đuổi ma bậc
bà đi để bắt đầu thờ Ma Mẹ. Người chết được đặt nằm dọc theo cây xà ngang, nếu người chết là
bố thì đặt nằm dưới cây xà ngang thứ nhất, nếu là mẹ, đặt dưới cây xà ngang thứ hai, nếu người
chết là con trai cả đặt nằm dưới cây xà ngang thứ ba bên gọi là quản sang bên gọi là chan. Khi
khiêng người chết đi chôn, người chết là bố thì khiêng ra cửa gian khách (quản), là mẹ phá vách
trước khiêng ra, nếu là con khiêng ra cửa sàn để nước.
Trên huyệt người ta đã dựng sẵn một cái nhà nhỏ có 2 mái cao chừng 2m. Mái nhà mồ lợp bằng
gianh dỡ một phần của mái nhà ở mang ra. Người chết là bố thì dỡ gianh ở mái phía đầu chỗ ngủ
để lợp. Nếu người chết là mẹ thì dỡ gianh ở mái nhà phía chân chỗ ngủ, là con trai thì dỡ gianh
mái hồi phía sàn phơi thóc, con gái thì dỡ gianh ở mái hồi phía sàn để nước. Trong nhà mồ đặt
những thứ cần thiết cho cuộc sống như : giỏ cơm, điếu cày, quần áo, chăn, đệm. Sau khi đưa đám
trở về nhà, người ta thường khua cối giã gạo để xua ma không cho đến quấy phá gia đình.
Lịch : Theo lịch của người Thái.
Học : Người La Ha trước kia học chữ Thái.
Văn nghệ : Người La Ha hát, làm thơ bằng tiếng Thái khá thạo. Hai điệu múa đặc trưng là múa
dương vật (linga) và múa cung kiếm.

101
Người La Hủ

Tên tự gọi : La Hủ.


Tên gọi khác : Xá lá vàng, Cò Xung, Khù Sung, Kha Quy, Cọ Sọ, Nê Thú.
Nhóm địa phương : La Hủ na (đen), La Hủ sư (vàng) và La Hủ phung (trắng).
Dân số : 6.874 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng), gần với Miến hơn.
Hoạt động sản xuất : Người La Hủ chủ yếu làm nương du canh với nhịp độ luân chuyển cao. Gần
đây họ chuyển dần sang trồng lúa trên ruộng bậc thang. Người La Hủ nổi tiếng về nghề đan lát
(mâm cơm, ghế mây), rèn.
Săn bắt, đánh cá, hái lượm có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế.
Ăn : Người La Hủ đã chuyển từ ăn ngô, cơm nếp sang chủ yếu cơm tẻ, thích dùng các loại thịt
chim, thú do săn bắn được, cá bắt ở khe suối, măng chua, canh đậu, bầu bí.
Mặc : Người La Hủ không có truyền thống trồng bông. Trước đây, phụ nữ thường đem thịt thú
rừng, nấm hương, thuốc phiện và các lâm thổ sản quý đổi lấy vải của các dân tộc khác hoặc
đổi lấy bông để tự dệt thành vải. Phụ nữ mặc quần áo dài. Mặc hai lớp áo, áo trong tay dài, cài
khuy bên nách phải, áo ngoài
tay ngắn, cài khuy giữa ngực.
Ngày thường họ chỉ mặc áo
dài, ngày lễ, tết mặc thêm áo
ngắn ra ngoài.

Trang phục nữ La Hủ có nhiều tua


chỉ màu trên khăn ; nhiều đồng xu
trên áo và can ghép tay áo bằng các
loại vải nhiều màu. Chiếc mũ của
trẻ em không phân biệt trai gái, đều
được đính nhiều xu bạc và chỉ màu.
Mũ của chúng có liên quan đến hồn
vía. Vì vậy họ thường kiêng cho
hoặc bán mũ của con cái mình.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

102
Ngày nay, người La Hủ đã ở trong các ngôi nhà đất dựng trên các triền núi cao. Nhiều bản đã định canh định cư. Cảnh
trong ảnh là một góc bản Nậm Xã, xã Bum Tổ, Mường Tè, Lai Châu.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

ở : Trước đây họ thường làm nhà, lều rải rác ở ngay trên nương, trên núi cao thuộc hai xã Pa Ủ và
Pa Vệ Sủ, huyện Mường Tè (Lai Châu). Nhà lợp lá, lá vàng lại chuyển đi nơi khác nên người La Hủ
mới có tên Xá lá vàng. Hiện nay, họ phổ biến ở nhà trệt trình tường hoặc vách nứa hay ván. Bếp,
nhà thờ và giường ngủ của gia đình bao giờ cũng ở chung một gian.
Phương tiện vận chuyển : Người La Hủ quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có quai đeo qua trán
để chuyên chở trong điều kiện địa hình đất dốc. Họ thường địu trẻ khi đi xa hay lúc làm việc.
Quan hệ xã hội : Người La Hủ cư trú phân tán thành nhiều xóm nhỏ với thành phần dân cư thay
đổi thường xuyên do lối sống du canh. Xã hội chưa có sự phân hóa giàu nghèo. Người phụ nữ được
tôn trọng trong gia đình song ít có vai trò xã hội.
Quan hệ dòng họ lỏng lẻo, không có người đứng đầu dòng họ và không có nghi lễ cúng bái cho cả
họ. Một số mang tên chim, thú nhưng nhiều họ khác không còn ai nhớ ý nghĩa.
Cưới xin : Trai gái La Hủ được phép tự do yêu đương khi đến tuổi lập gia đình. Việc cưới hỏi được
tiến hành qua nhiều bước. Trong số lễ vật nhà trai đưa sang nhà gái bắt buộc phải có thịt sóc. Sau
lễ cưới, cô dâu cư trú bên chồng. Tuy nhiên, tục ở rể vẫn tồn tại với những chàng trai không sắm
đủ đồ dẫn cưới, nhất là bạc trắng.
Sinh đẻ : Phụ nữ La Hủ được phép đẻ trong gian buồng của mình với sự giúp đỡ của mẹ chồng hay
chị em gái. Sau khi đẻ ba ngày thì làm lễ đặt tên cho đứa trẻ. Tên của trẻ sơ sinh thường được đặt
theo ngày sinh, do vậy trong cộng đồng người La Hủ, việc trùng tên khá phổ biến. Nếu thấy trẻ
lâu lớn hoặc hay đau ốm, có thể làm lễ đổi tên khác.

103
Ma chay : Khi nhà có người chết, người ta bắn
súng để đuổi ma và báo cho họ hàng, làng xóm
biết. Quan tài thường là một khúc gỗ bổ đôi,
khoét rỗng cả hai nửa. Ngày giờ đi chôn được lựa
chọn cẩn thận.
Người La Hủ không có nghĩa địa cố định. Thời hạn
để tang của con cái đối với cha mẹ là ba năm song
không có các dấu hiệu đặc biệt trên trang phục
hay đầu tóc.
Thờ cúng  : Người ta cúng tổ tiên, bố mẹ và
những người thân đã mất chỉ vào các dịp cơm
mới, ngày tết tháng bảy hay gieo xong lúa
nương, khi cưới xin, ma chay. Không có tục
cúng vào ngày giỗ. Lễ vật duy nhất dâng cho tổ
tiên là cơm gói trong lá rừng.
Là cư dân hái lượm nhưng vào dịp Tết Cơm mới,
đầu tháng 10 hay tháng 11, họ kiêng 3 ngày không
đi hái rau, lấy củi, chặt cây, phát cỏ trong rừng để
cầu mong cây cỏ tốt quanh năm.
Quan niệm về sự sống và chết là do trời định. Ở Trong các dịp lễ tết, người La Hủ thường dùng
trống để giữ nhịp trong điệu xòe múa. Cũng giống
trên trời có hai căn nhà, một gọi là nà đề (nhà trống Hà Nhì, trống La Hủ được khoét bằng đoạn
ốm), một gọi là xơ đề (nhà chết). Nếu hồn của thân cây gỗ và chỉ bịt bằng da thú rừng như : nai,
người nào lên đến xơ đề thì nhất định sẽ chết. Còn hoẵng, bò tót…
nếu hồn lên tới nà đề thì phải làm lễ cúng xin hồn Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
về để được sống lâu hơn. Người ta tin mỗi người Ảnh : Phạm Ngọc Long
chỉ sống trong một hạn tuổi đã định ngay từ khi
mới đẻ ra. Nhưng cũng có thể sống vượt quá hạn
đó nếu như tổ chức lễ cúng di chá. Phải bói để tìm
nguyên nhân giải những hạn này.
Học : Xưa kia, người La Hủ không có chữ. Hiện nay, học sinh học chữ Quốc ngữ. Người La Hủ sử
dụng lịch truyền miệng chia năm thành 12 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật. Họ biết
nhiều cây thuốc trên rừng. Để giữ bí mật và mong sự linh nghiệm của những cây thuốc, người ta
thường phủ lên trên những nghi lễ, tín ngưỡng. Mỗi lần định đi hái thuốc họ giữ kín cả buổi không
nói chuyện với ai, bất chợt lẻn vào rừng không cho người khác biết.
Văn nghệ : Người La Hủ thích nghe và sử dụng thành thạo khèn, sáo, trống.
Chơi : Chiều chiều, trẻ em thường quây quần bên đống lửa quanh nhà, bên bờ suối vừa chơi, vừa
hát, gõ cây làm nhịp.

104
NGƯỜI LÀO

Tên tự gọi : Thay, Thay Duồn,


Thay Nhuồn.
Tên gọi khác : Phu Thay, Phu
Lào.
Nhóm địa phương  : Lào
Bốc (Lào Cạn) và Lào Nọi
(Lào Nhỏ).
Dân số : 11.611 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc
nhóm ngôn ngữ Tày - Thái
(ngữ hệ Thái - Ka Đai).
Lịch sử  : Người Lào có
nguồn gốc di cư từ Lào sang.

Hoạt động sản xuất  :


Người Lào làm ruộng nước Lợi dụng sức nước để giã gạo là tập quán vốn có của nhiều dân tộc miền núi
với kĩ thuật dẫn thủy nhập ở miền Bắc nước ta. Đây là một dạng cối nước của người Lào ở thượng nguồn
điền hợp lí. Ngoài ra họ sông Mã.
còn làm nương, chăn nuôi Ảnh : Mai Thanh Sơn
gia súc, gia cầm. Tiểu thủ
công nghiệp gia đình của
dân tộc đặc biệt phát triển.
Họ làm gốm bằng bàn xoay
với các sản phẩm như  :
chum, vại, vò, ché, nồi với
chất lượng tốt. Nghề dệt
thổ cẩm tạo ra nhiều sản
phẩm có giá trị cao, thể
hiện thẩm mĩ tinh tế. Nghề
rèn, nghề chạm bạc... cũng
góp phần thu nhập đáng
kể cho nhiều gia đình. Hái
lượm còn có vai trò nhất
định đối với đời sống kinh Quay xa dệt vải là công việc của người phụ nữ Lào.
tế của người Lào. Ảnh : Võ Mai Phương

105
Ăn : Người Lào ăn nếp là chính. Về thực phẩm
họ ưa ăn các món chế biến từ cá ; đặc biệt có
món pàđẹc (cá ướp) rất nổi tiếng.
Mặc  : Phụ nữ Lào mặc váy thắt ngang ngực,
buông ngang tầm bắp chân. Gấu váy thêu hoa
hoặc dệt nhiều môtip hoa văn màu tươi sáng
rực rỡ. Áo nữ ngắn, để hở phần ngực trên. Chiếc
trâm bạc cài tóc hay khăn piêu đội đầu của phụ
nữ Lào cũng được chạm khắc hoặc thêu thùa
khéo léo. Nam phục Lào có nhiều nét tương
đồng với người Thái.

Thiếu nữ Lào vẫn giữ tập quán mặc váy và đội khăn
trong khi chiếc áo đã được may theo chất liệu và kiểu
cách mới.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

ở : Người Lào cư trú xen kẽ với người Thái, người Lự, người Khơ-mú ở các huyện Điện Biên (tỉnh
Điện Biên), Phong Thổ (Lai Châu) và Sông Mã (Sơn La). Họ ở nhà sàn, lòng rộng, thoáng đãng,
cột kèo được chạm khắc tinh vi ; mái nhà thường kéo dài tạo nên hiên để đặt khung cửi và các
công cụ làm vải.
Phương tiện vận chuyển : Người Lào quen gùi, gánh đôi dậu, đặc biệt giỏi đi thuyền trên sông,
ở một số nơi họ còn sử dụng ngựa thồ.
Quan hệ xã hội : Trước kia xã hội người Lào tuy phụ thuộc hệ thống tổ chức hành chính của phong
kiến Thái nhưng được tự quản ở cấp bản. Mỗi bản có một người đứng đầu gọi là chẩu bản đại diện
cho lợi ích cộng đồng. Thiết chế tự quản chi phối nhiều tới hoạt động kinh tế, đời sống tâm linh
và đạo đức truyền thống.
Cũng như người Thái, người Lào quan niệm mỗi người có ba quan hệ họ hàng chính : Ải Noong -
Lung Ta - Dinh Xao. Các dòng họ đều có tục kiêng cấm liên quan đến tô tem giáo.
Cưới xin : Theo nguyên tắc hôn nhân thuận chiều. Con trai phía họ Dinh Xao được phép và
khuyến khích lấy con gái phía họ Lung Ta, nhưng nghiêm cấm lấy ngược lại. Không có tục hôn
nhân anh em chồng hoặc hôn nhân chị em vợ. Gia đình của người Lào dù lớn hay nhỏ mang tính
phụ quyền rõ rệt mặc dầu người phụ nữ vẫn được đề cao. Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên nhà
chồng. Gia đình của họ thường bền vững, ít có trường hợp đa thê, ngoại tình hay li dị. Quan hệ
trong mỗi nhà thường hòa hiếu, con cái được chăm sóc như nhau không phân biệt trai, gái.
Sinh đẻ : Phụ nữ mang thai và sinh đẻ được chăm sóc và quan tâm chu đáo. Họ cũng phải tuân
theo nhiều kiêng cấm trong ăn uống cũng như hành vi ứng xử. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau
một tháng.

106
Ma chay : Tục thiêu xác chỉ thực hiện đối với người đứng đầu bản (chẩu bản). Các trường hợp khác
đều thổ táng. Lễ thiêu xác chẩu bản do chẩu hua (ông sư) chủ trì với các nghi thức Phật giáo đã
được hòa nhập và cải biến hợp với truyền thống tộc người. Người Lào không khóc trong các đám
tang bởi họ quan niệm sự chết chỉ là quá trình thay đổi thế giới.
Lễ tết : Người Lào theo Phật lịch và ăn Tết vào tháng 4 âm lịch hằng năm (Bun Pi May). Hằng
tháng, vào ngày rằm và ba mươi có tục dâng lễ lên tháp theo nghi thức Phật giáo, lễ vật chỉ có
hoa quả. Họ cũng có nhiều nghi thức tín ngưỡng khác liên quan đến nông nghiệp như lễ cầu mưa
(Xo Nặm Phôn) hay có tục ăn cơm mới.
Thờ cúng : Mỗi gia đình đều có nơi thờ tổ tiên. Mỗi bản làng có một ông thầy cúng (món)
chuyên việc cúng khi có người đau ốm. Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa
và xã hội người Lào.
Học : Người Lào có chữ theo mẫu tự Sanscrit. Hiện nay vẫn còn nhiều sách viết trên lá cọ
do các thầy cúng (mo lắm) giữ. Xưa, con trai đều phải kinh qua học sách Phật từ 3 năm đến
7 năm. Học xong thầy đặt cho học trò là Siêng nghĩa là người đã giỏi chữ.
Văn nghệ : Người Lào có vốn văn học dân gian phong
phú với nhiều huyền thoại, cổ tích, dân ca... Phụ nữ
Lào không chỉ hát hay mà còn rất giỏi các điệu dân
vũ. Do sống xen kẽ lâu đời với người Thái, văn nghệ
dân gian Lào ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa
Thái. Chính điều đó đã làm cho văn nghệ của họ thêm
phong phú.
Chơi : Ném còn là trò chơi vui mang tính cộng đồng
không thể thiếu trong các ngày lễ. Trẻ em Lào còn
thích chơi quay, đánh cầu lông gà.

Người Lào ở Việt Nam hiện nay tuy đã không còn tập quán theo
Phật giáo, song vẫn để lại dấu vết của tôn giáo này trong các di
tích kiến trúc. Trong ảnh là chiếc Tháp ở Mường Luân (Điện Biên
Đông – tỉnh Điện Biên).
Ảnh : Mai Thanh Sơn

107
NGƯỜI LÔ LÔ

Tên tự gọi : Lô Lô.


Tên gọi khác : Mùn Di, Di, Màn
Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu
Lộc Màn.
Nhóm địa phương : Lô Lô hoa
và Lô Lô đen.
Dân số : 3.307 người.
Ngôn ngữ  : Tiếng nói thuộc
nhóm ngôn ngữ Tạng  - Miến
(ngữ hệ Hán - Tạng), gần với
Miến hơn.
Lịch sử : Họ là cư dân có mặt
rất sớm ở vùng cực bắc của Nữ phục Lô Lô được trang trí bằng nhiều đồ án hoa văn khác nhau. Nét
Hà Giang. đặc trưng ở cả hai nhóm là họ dùng nhiều phương pháp đắp ghép vải và
ưa dùng các gam màu sặc sỡ.
Hoạt động sản xuất : Người Lô Ảnh : Mai Thanh Sơn
Lô chủ yếu làm ruộng nước và
nương định canh với các cây
trồng chính như lúa nếp, lúa
tẻ và ngô. Chăn nuôi gia đình
tương đối phát triển và là một
nguồn lợi đáng kể.
Ăn : Người Lô Lô ăn ngô bằng
cách xay thành bột, đồ chín.
Bữa ăn phải có canh. Họ thường
dùng bát và thìa bằng gỗ.
Mặc : Phụ nữ có nhóm mặc áo
cổ tròn, xẻ ngực, có nhóm mặc
áo cổ vuông chui đầu, quần chân
què, có nơi bên ngoài còn quấn
thêm váy lửng, chân quấn xà
cạp. Trang trí trên y phục bằng
hoa văn chắp ghép những mảng
vải màu. Họ có sử dụng hoa văn Nam giới Lô Lô ưa dùng màu chàm trong trang phục. Đầu đội khăn quấn
nhiều vòng. Nhiều người có thói quen hút thuốc bằng tẩu.
in bằng sáp ong.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

108
ở : Tùy từng nơi họ sống trong ba loại nhà : nhà trệt, nhà sàn hoặc nhà nửa sàn nửa đất ở các
huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai).
Phương tiện vận chuyển : Người Lô Lô quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai để chuyên
chở ; địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.
Quan hệ xã hội : Người Lô Lô sống tập trung trong các bản tương đối ổn định. Tính cộng đồng
tộc người thể hiện rõ nét.
Có hơn 30 dòng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường quần tụ trong phạm vi một làng bản, thờ
cúng chung một ông tổ và có một khu nghĩa địa riêng nằm trong nghĩa địa chung của công xã.
Người Lô Lô thích các quan hệ hôn nhân nội bộ tộc người và thực hiện nguyên tắc ngoại hôn
giữa các dòng họ.
Cưới xin : Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao (bạc
trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu
song không được ngược lại.
Sinh đẻ : Phụ nữ khi mang thai phải kiêng kị nhiều trong chế độ ăn uống và sản xuất. Sản phụ đẻ
ở nhà với sự giúp đỡ của bà mụ trong bản. Sau 12 ngày làm lễ đặt tên cho con và có thể đổi tên
nếu đứa trẻ hay khóc hoặc chậm lớn.

Đại bộ phận người Lô Lô ở nhà nền đất, trình tường, cư trú theo khuôn viên từng gia đình. Mỗi khuôn viên có nhà bếp
và chuồng gia súc riêng. Ngày nay, mỗi khuôn viên ấy có hàng rào xếp đá vây quanh, trong đó có cổng ra vào.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

109
Ma chay : Tang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hóa trang, nhảy múa, đánh lộn... Dấu vết của tục
săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay
quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.
Thờ cúng : Người Lô Lô thờ cúng tổ tiên, bố mẹ và những người thân đã mất. Trên bàn thờ có
những bài vị hình nhân bằng gỗ, vẽ mặt bằng than đen. Linh hồn giữ vị trí quan trọng trong đời
sống tâm linh.
Lễ tết : Ăn Tết Nguyên đán như người Hán và người Việt. Ngoài ra còn có tục ăn Cơm mới, Tết
Đoan ngọ, Rằm tháng bảy...
Lịch : Họ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 12 tháng, mỗi tháng tương ứng với một
con vật.
Học : Khoảng thế kỉ XIV, người Lô Lô đã có chữ tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương
pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại
giấy dày, thô. Tới nay, chỉ có một số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ
đó mà ít ai đọc được.
Văn nghệ : Là một trong số ít các dân tộc ở nước ta hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh
hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn
hồng thủy. Truyện kể rằng : xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ
trời cứu để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi
lên mặt nước. Hết lụt, họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thủy tổ của loài
người tái sinh.
Trống đồng với tư cách là nhạc khí chỉ được dùng trong đám tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân
gian của cộng đồng. Quan niệm về âm dương, sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng
với lối hòa tấu hai trống đực và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết ;
mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu,
cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có vợ không ở trong thời
kì thai nghén mới được đánh trống.
Trống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính
chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên
của tổ tiên. Chỉ có trong đám ma mới đánh trống đồng. Ngày thường, người ta chôn trống dưới
đất ở nơi sạch sẽ, kín đáo.

110
Người lự

Tên tự gọi : Lừ, Thay hoặc Thay Lừ.


Tên gọi khác : Phù Lừ, Nhuồn, Duồn.
Nhóm địa phương : ở Việt Nam chỉ có nhóm Lự Đen (Lừ Đăm) ở xã Bản Hon, huyện Phong Thổ,
Sìn Hồ (Lai Châu), phân biệt nhóm Lự Trắng (Lừ Khao) ở Síp Song Păn Na (Trung Quốc).
Dân số : 4.964 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai).
Lịch sử : Người Lự đã có mặt ở khu vực Xam Mứn (Điện Biên) ít nhất cũng trước thế kỉ XI - XII.
Tại đây, họ đã xây thành Xam Mứn (Tam Vạn) và khai khẩn nhiều ruộng đồng. Vào thế kỉ XVIII, do
chiến tranh, người Lự phải phân tán đi khắp nơi, một bộ phận nhỏ chạy lên sinh sống ở vùng núi
Phong Thổ, Sìn Hồ (Lai Châu).
Hoạt động sản xuất : Người Lự sáng tạo ra hệ thống mương, phai truyền thống để dẫn thủy
nhập điền. Ruộng trồng lúa nếp theo kĩ thuật cấy mạ hai lần. Có nơi đã biết dùng phân xanh,
rác rưởi và phân chuồng để bón ruộng. Họ làm nương phát, đốt, chọc lỗ tra hạt hoặc cày do
tiếp thu từ người Mông. Nghề dệt phát triển. Dệt thổ cẩm với nhiều đường nét hoa văn đẹp.
Người Lự có nghề rèn gươm nổi tiếng. Hái lượm, săn bắt, đặc biệt đánh cá ở suối là hoạt động
thường xuyên.
Ăn : Người Lự ăn xôi, ưa thích các món chế biến từ cá, trong đó có món nộm chua với thịt cá tươi.
Lợn, trâu, bò chỉ mổ ăn khi có lễ tết, không mổ để bán.

Cũng như các dân tộc


nói ngôn ngữ Tày –
Thái, người Lự chú
trọng giải quyết các
nhu cầu về vải. Công
việc làm ra vải cho
mặc, làm chăn đệm
hoàn toàn do phụ nữ
đảm nhiệm.
Ảnh : Võ Mai Phương

111
Mặc : Nữ mặc áo chàm, xẻ ngực. Váy nữ bằng vải
chàm đen, có thêu dệt thành hai phần trang trí,
dễ cảm giác như váy có hai tầng ghép lại. Cổ đeo
vòng được nối hai đầu bằng chuỗi dây xà tích
bằng bạc. Đầu đội khăn cuốn nghiêng về phía
trái, để lộ mặt trước với những đường gấp viền
thêu hoa văn bổ dọc. Nhuộm răng đen. Đeo vòng
tay bằng bạc, bằng đồng.

Phụ nữ Lự dùng vải đen chàm để làm màu nền của váy,
áo, khăn và kiêng màu trắng. Họ thêu các mảng viền hoa
văn quả trám ngang, dọc tạo thành váy hai tầng. Áo có
đeo các vòng bạc ở ngực, mặc theo kiểu chéo vạt, cài dải
ở bên hông trái.
Ảnh : Võ Mai Phương

Nam mặc quần áo bằng vải chàm đen, áo cánh kiểu xẻ ngực, cài cúc tết dây vải, có hai túi ở hai
vạt áo và một túi ở ngực trái. Quần từ đầu gối trở xuống có thêu hoa văn. Họ đội khăn đen, gấp
nếp cuốn nhiều vòng, thích nhuộm răng đen. Đàn ông thường đeo gươm, không những để tự vệ
mà còn là tập quán trang trí.
ở : Người Lự cư trú ở các huyện Phong Thổ, Sìn Hồ (tỉnh Lai Châu) ; Điện Biên (tỉnh Điện Biên).
Nhà sàn 4 mái, mái kéo dài che thành hiên sân để đặt khung dệt và các dụng cụ làm ra vải. Trong
nhà có chăn, đệm, màn, rèm ; bếp ở giữa nhà.
Phương tiện vận chuyển : Gùi, trâu kéo, ngựa thồ.
Quan hệ xã hội : Quan hệ láng giềng là chủ đạo. Họ theo tập quán tương trợ giữa các gia đình
trong lao động sản xuất, khi làm nhà mới, cưới xin hay ma chay.
Hai họ - Pu Da (nội) và Ta Nai (ngoại) là quan trọng nhất.
Cưới xin : Người Lự khuyến khích hôn nhân ngược chiều với câu tục ngữ “Dao khâu đồng, hôn
nhân trở về lối cũ”. Em lấy vợ, anh em của vợ thuộc bàng hệ chéo hai, ba đời lại lấy chị em gái
của chồng. Không có trường hợp ép duyên. Theo tục ở rể 3 năm, sau đó về làm dâu 2 năm thì đôi
vợ chồng được phép ra ở riêng để thành đơn vị gia đình hạt nhân sống trong nếp nhà sàn riêng
của mình. Có ba bước cưới xin :
+ “Ăn giáp tối” : lễ nhập phòng.
+ “Ăn mới” : tổ chức ăn uống và nhà trai dâng lễ vật cho nhà gái trong đó phải có một thanh gươm.
+ “Đón dâu”.

112
Sinh đẻ : Khi đầy tháng nhờ ông máy đem bút vót bằng cây guột và một mảnh vải trắng, đĩa
mực tàu đến bói và tìm tên cho trẻ nhỏ. Đặt trứng gà lên bát gạo, ông máy gieo hạt gạo lên
trôn trứng xem chẵn, lẻ. Nếu ứng đúng như ông xướng thì lấy tên đó đặt cho trẻ và ghi tên vào
mảnh vải rồi trao lại cho bố mẹ giữ lấy làm khai sinh. Nữ thường có tên là Kẻo (Ngọc) và nam
là Khăm (Vàng)...
Ma chay : Khi có người chết, người trong họ nội đội khăn trắng để tang. Mổ một trâu đen (không
trắng) để cúng tiễn hồn về cõi hư vô. Quàn thi thể ở nhà 3 ngày rồi thuê 8 người ngoài họ để khiêng
ra rừng ma. Chôn không đắp thành mồ. Những người đi đưa đám trước khi lên nhà phải tắm rửa sạch
sẽ. Bà con gần gũi thuộc họ nội của người chết phải kiêng 3 ngày không lao động sản xuất.
Nhà mới : Kiêng không làm lễ lên nhà mới vào giữa trưa. Sau khi quét sạch nhà, mời 4 cụ già ngoài
họ đến ngồi uống rượu quanh một cái chậu có 4 chén rượu đặt ở giữa nhà. Một chàng trai trẻ đến
bên cửa ra vào, ngồi xổm và cất tiếng xin mua nhà, các cụ đang uống rượu đáp : “Chủ nhà sắp đến
nhận rồi". Vợ chồng chủ nhà đã đứng sẵn ở chân cầu thang. Chồng mang một cái chài trên vai, vợ
gánh một bên là kiềng và một bên là chõ đồ xôi ; chồng trước, vợ theo sau leo lên thang, đặt đồ
vào nhà. Tiếp theo, hai thiếu nữ thắp hai bó đuốc bước lên nhà. Một cô khác ở đầu cầu thang cầm
ống nước để dập tắt lửa cháy ở bó đuốc đi đầu. Người thứ hai, cầm bó đuốc vẫn cháy sáng, đưa
đến nhóm lửa ở bếp. Ngọn lửa phải giữ cho cháy suốt 3 ngày 3 đêm. Chủ nhà làm lễ thờ tổ tiên
bằng cỗ đầu lợn. Dân bản được mời đến ăn cỗ uống rượu, mọi người vui hát theo điệu sáo đôi.
Thờ cúng : Người Lự thờ cúng tổ tiên ở gian “hóng” trong nhà, mỗi năm một lần vào tháng giêng
theo lịch Lự, tương đương với tháng 10 âm lịch ; thắp thêm 10 ngọn nến sáp ong ở quanh mâm
cỗ. Ông “chủ đầu” (chảu hô) đọc bài cúng. Vào tháng giêng có lễ cúng bản gọi là “kiêng bản”
(căm bản) với mâm cỗ 3 yến lợn đều cúng dựng ở đầu bản và cạnh sông, suối. Vào tháng 3 mồng
3 có lễ cúng ở khu “rừng thiêng” (đông căm) với mâm cỗ 3 yến lợn và cũng như thế, tháng 6 mồng
6 với mâm cỗ 6 yến lợn. Sau khi “chủ đầu” làm lễ xong, cả bản ăn cỗ, uống rượu, chơi kéo co, ném
én, hát sáo đôi và kiêng “nội bất xuất, ngoại bất nhập” từ 3 đến 9 ngày gọi chung là "kiêng bản
kiêng mường".
Lễ tết : Cách đương đại 3 thế hệ về trước, khoảng 60, 70 năm, người Lự còn thực hiện những
nghi lễ Phật giáo gọi là bun như : lễ mừng năm mới (bun pi mày) vào tháng giêng ; lễ té nước
(bun huất nặm) vào tháng 11, tháng 12 và lễ thả ống pháo sáng (bun bẳng phay) vào tháng
2, 3 theo lịch Lự.
Lịch : Có lịch riêng - tháng giêng là tháng 10 âm lịch.
Học : Người Lự có sử dụng chữ theo mẫu tự Sanscrit. Người ta lấy gai hoặc que sắt nhọn làm bút
viết trên lá cọ rừng ghi nhiều loại truyện thần thoại, cổ tích. Cũng có thể dùng vỏ cây guột khô,
vót nhọn, chấm mực tàu viết trên miếng vải trắng. Xưa kia, trẻ 7, 8 tuổi có tập quán đến học chữ
của ông “chẩu hua” (sư).
Văn nghệ : Hát Lự (Khắp Lử) là cách - con gái dùng một khăn vải màu đỏ che mặt hát theo tiếng
sáo đôi do con trai thổi đệm. Theo lối hát này (ỉn khống), xưa, vào lúc màn đêm buông xuống, các
đôi nam nữ ngồi trên chiếu cói trải giữa sân say sưa hát, thổi sáo cùng nhau đến tận nửa đêm.
Chơi : Người Lự có các trò chơi kéo co, ném én. Nam thanh niên thích múa gươm.

113
Người Mạ

Tên tự gọi : Mạ.


Tên gọi khác : Châu Mạ, Chô Mạ, Chê Mạ.
Nhóm địa phương : Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung.
Dân số : 33.338 người.
Lịch sử : Người Mạ là cư dân sinh tụ lâu đời ở Tây Nguyên.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á).
Hoạt động sản xuất : Nương rẫy đóng vai trò chủ yếu trong đời sống của người Mạ. Đây là loại rẫy
đa canh, ngoài trồng lúa còn trồng các loại cây khác như bắp, bầu, bí, thuốc lá, bông vải. ở vùng
sông Đồng Nai, người Mạ làm ruộng bằng kĩ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng quần đất đến khi
nhão bùn thì gieo lúa giống. Họ tính năng suất của rẫy theo số gùi lúa thu được khi trỉa một gùi
lúa giống. Công cụ làm rẫy chủ yếu là rìu, xà gạc, dao, liềm, gậy chọc lỗ, gùi. Nghề đánh cá khá
phổ biến. Trước đây, họ biết chế thuốc độc từ loại lá rừng bỏ xuống suối để bắt cá. Người Mạ nổi
tiếng về nghề trồng bông dệt vải.
Ăn : Cơm gạo tẻ với muối trộn ớt, sả, măng tươi và một số loại rau rừng. Cách chế biến thức ăn
chủ yếu là nướng, luộc, nấu canh. Họ thích uống rượu cần và hút thuốc lá bằng điếu khan.
Mặc : Phụ nữ mặc váy quấn dài
quá bắp chân, áo chui đầu vừa
sát thân dài tới thắt lưng, kín
tà. Nam đóng khố, áo hở tà,
vạt sau dài hơn vạt trước. Mùa
lạnh, người già thường khoác
thêm tấm mền. Người Mạ có
tập quán cà răng, căng tai,
phụ nữ thích đeo chuỗi hạt
cườm nhiều màu sắc. Thanh
niên mang nhiều vòng đồng
ở cổ tay có ngấn khắc chìm
như là kí hiệu của các lễ hiến
sinh tế thần linh, cầu mát cho
chính mình.

Phụ nữ Mạ chuẩn bị con sợi để


dệt vải.
Ảnh : Lê Duy Đại

114
ở : Người Mạ thường sống thành từng làng (bon) với một khu vực đất đai riêng biệt trên các cao
nguyên Bảo Lộc, Di Linh, Đạ Tẻ, lưu vực sông Đồng Nai (tỉnh Lâm Đồng). Mỗi “bon” có từ 5 đến 10
nhà sàn dài. Nhà được làm bằng tre nứa, bương mai, hai mái lợp bằng lá mây. Mái cửa ra vào (cửa
mẹ) uốn khum thành vòm bằng cành trúc đội trên mái cỏ. Xung quanh nhà ở, họ còn dựng nhiều
kho lúa trên sàn cao. Các cột nhà kho đều trang trí theo mô típ chày cối.
Phương tiện vận chuyển : Chủ yếu là chiếc gùi nan mang sau lưng với nhiều loại to nhỏ khác
nhau. Chiếc gùi dùng đi xa được trang trí hoa văn qua các đường đan. Ở vùng ven sông Đồng Nai,
người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Quan hệ xã hội : Làng là đơn vị tổ chức xã hội cao nhất của người Mạ do chủ làng đứng đầu
(quăng bon). Chủ làng có nhiệm vụ cúng tế trong các nghi lễ mang tính chất cộng đồng. Người
Mạ tồn tại hai hình thức gia đình : gia đình lớn phụ quyền và gia đình nhỏ phụ quyền. Người chủ
gia đình lớn là người cao tuổi nhất của thế hệ cao nhất trong gia tộc, có nhiệm vụ điều hành mọi
công việc trong gia đình và trông coi các đồ dùng quý hiếm như chiêng, ché.
Trong loại gia đình lớn phụ quyền, từng cặp vợ chồng với con cái ở chung nhưng làm ăn riêng,
còn gia đình nhỏ phụ quyền thì như một đơn vị kinh tế cá thể nhưng vẫn lưu giữ dấu vết của gia
đình lớn phụ hệ.
Cưới xin : Quyền chủ động hôn
nhân do bên nhà trai, nhưng
sau lễ cưới nếu nhà trai nộp đủ
sính lễ thì đôi vợ chồng chỉ ở
lại nhà gái 8 ngày, còn không,
chàng trai phải ở rể đến khi
nộp đủ mới được đưa vợ về ở
nhà mình.

Khố (Ntrônh) là sản phẩm dệt từ đôi


bàn tay tài hoa của người phụ nữ Mạ,
có cái dài 4m, hai đầu khố dệt hoa
văn khá tinh xảo và có tua rua gắn hạt
cườm. Khi đi rừng hay làm rẫy, hai vật
dụng thân thiết nhất của người đàn
ông Mạ là chiếc gùi đeo sau lưng và
chiếc xà gạc cầm tay.
Ảnh : Phạm Văn Dương

115
Sinh đẻ : Khi sinh con trai, nhau của đứa trẻ đựng trong vỏ trái bầu khô chôn trước nhà, nếu sinh
con gái nhau chôn sau nhà. Sang ngày thứ 8, người mẹ bồng con ra sân tắm nắng ; nếu con trai
phải mang theo xà gạt, nỏ, dao vót nan ; nếu con gái mang theo gùi, rìu chẻ củi, túi đựng cơm và
dụng cụ dệt vải. Đứa bé mới ra đời thường đặt tên theo ông bà đã mất. Con trai đặt tên theo vần
của chú, bác, cậu. Con gái theo vần của dì, cô.
Ma chay : Quan tài là một cây gỗ bổ đôi, khoét rỗng. Cách trang trí vừa mang dáng dấp một ngôi
nhà dài, vừa thể hiện hình con trâu được cách điệu hóa. Người chết được chia một số tài sản sang
thế giới bên kia như xà gạc, rìu, ché, váy áo chôn cùng huyệt hoặc bỏ rải rác xung quanh mộ. Sau
lễ mai táng thì bỏ mả và tang chủ phải kiêng 7 ngày không được vào rừng hoặc lên rẫy.
Thờ cúng : Người Mạ tin có Thần (Yang). Họ thờ cúng nhiều Yang như Yang Hiu (Thần Nhà),
Yang Koi (Thần Lúa), Yang Bơnơm (Thần Núi). Họ thường giết súc vật tế thần vào những dịp
được mùa, sinh đẻ, bệnh tật, chết chóc. Lễ hiến sinh lớn nhất là lễ đâm trâu, thường được
thực hiện lúc kết thúc mùa rẫy.
Lịch : Người Mạ theo âm lịch.
Học : Người Mạ không có chữ viết, nền văn hóa dân gian Mạ vẫn sống bằng lối sống nghìn xưa -
thuộc lòng và truyền miệng.
Văn nghệ : Vốn văn học nghệ thuật dân gian khá phong phú gồm nhiều truyền thuyết, truyện cổ
và những bài dân ca trữ tình gọi là tam bớt.
Nhạc cụ truyền thống là bộ chiêng đồng 6 chiếc không núm. Khi hòa tấu có trống bịt da trâu đánh
giáo đầu, giữ nhịp và đổ hồi trước khi kết thúc. Con trai Mạ thường thổi khèn bầu, sáo trúc, tù và
bằng sừng trâu.

Ngôi nhà dài truyền thống của người Mạ còn lại rất ít trong các buôn làng.
Ảnh : Lê Duy Đại

116
NGƯỜI MẢNG

Tên tự gọi : Mảng.


Tên gọi khác : Mảng Ư, Xá Mảng, Niểng O, Xá Bá O.
Nhóm địa phương : Mảng Gứng, Mảng Lệ.
Dân số : 2.663 người.
Ngôn ngữ  : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn  -
Khmer (ngữ hệ Nam Á). Nhiều người Mảng biết
tiếng Thái.
Lịch sử : Xưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm
Ban, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu vẫn được coi là “quê
hương” của người Mảng. Nhiều truyền thuyết, truyện kể
Người Mảng có truyền thống ăn xôi nếp.
còn lưu truyền cho đến ngày nay giúp chúng ta có thể
Xôi nếp được đồ trên ninh, chín dỡ ra rồi
nhận ra người Mảng là một trong những cư dân bản địa ở cho vào cái cơi đựng cơm đan bằng tre
vùng Tây Bắc nước ta. mây. Cơi đựng cơm được đan tròn có nắp
đậy và chân đế cao để cách li giữa đáy
Hoạt động sản xuất : Người Mảng là cư dân “ăn nương” và bề mặt đặt giỏ. Người ta sử dụng cơi
chuyên sống bằng nông nghiệp nương rẫy theo lối sống đựng xôi trong các bữa ăn ở nhà hay trên
du canh du cư. Việc chọn nương, đánh dấu sở hữu được nương. Khi ăn, cơi để cạnh mâm, dùng tay
bốc xôi trong cơi, nắm lại thành nắm nhỏ
tiến hành từ sau Tết. Tháng 3 - 4 phát cỏ, để khô, nỏ ;
chấm vào thức ăn.
tháng 5 - 6 đốt rồi gieo hạt. Công cụ làm nương có rìu,
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
dao, gậy chọc lỗ. Năng suất lúa thường thấp do đất đai Ảnh : Phạm Ngọc Long
cằn cỗi, rừng non, đời sống bấp bênh, thiếu ăn quanh
năm. Mấy năm gần đây họ đã biết làm nương cuốc ; một
số nơi làm ruộng bậc thang, năng suất lúa ổn định hơn.
Chăn nuôi, thủ công... chưa phát triển. Hái lượm, săn bắn
trong suốt 4 mùa vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh tế.
Người Mảng nuôi trâu, bò, dê, gà, lợn. Nhiều sản phẩm
đan lát của người Mảng như bem, cót, gùi rất được các dân
tộc khác ưa chuộng.

Nét nổi bật trong nữ phục Mảng là tấm khăn trắng có thêu các đường viền
chỉ ở thắt lưng, ngực áo. Khi mặc để hở yếm trắng và dây chuyền. Váy
màu chàm đen có đường viền đỏ ở gấu. Chân quấn xà cạp bằng tấm vải
màu ghép.
Ảnh : Vi Văn An

117
Ăn : Người Mảng ăn 2 bữa (trưa - tối), ngô là lương thực
chính, ngô trộn sắn hoặc trộn với ít gạo đồ lên. Lá sắn
non đồ trộn muối là thức ăn gần như quanh năm của
người Mảng. Họ ưa hút thuốc lào, uống rượu trắng.
Mặc : Y phục truyền thống vẫn được gìn giữ mặc dù nhiều
người mặc giống người Thái hoặc Việt. Nét độc đáo trong y
phục phụ nữ Mảng là tấm choàng quấn quanh thân được cắt
may bằng vải thô màu trắng, ở giữa thêu hàng chỉ đỏ. Đầu
để trần, tóc buộc thành chỏm trên đầu bằng dây có tua khá
đẹp, chân quấn xà cạp.
ở : Nhà sàn, gỗ tạp, kĩ thuật thô sơ.
Phương tiện vận chuyển : Phổ biến dùng gùi, có dây đeo
trên trán, sau gáy có ách.
Mang gùi (dong buê) có dây quai vắt qua
Quan hệ xã hội  : Người đứng đầu tổ chức xã hội truyền trán và xỏ qua tấm ván ách tì lên gáy
thống là Pơgia. Ông ta cùng Hội đồng các trưởng họ điều là đặc trưng của cách vận chuyển sản
khiển mọi hoạt động văn hóa tôn giáo, xã hội trong bản. phẩm của người Mảng. Cách đeo gùi này
thấy ở nhiều dân tộc trong nước và trên
Về sau tổ chức xã hội này bị phá vỡ, chịu sự chi phối của tổ
thế giới.
chức xã hội Thái. Tuy nhiên, tổ chức bản (muy) vẫn duy trì
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
theo tập quán truyền thống. Bản có trưởng bản trông coi về
thu thuế, tạp dịch. Trong bản thường có một dòng họ lớn, Ảnh : Phạm Ngọc Long
các trưởng họ cùng với hội đồng già làng điều hành mọi
hoạt động xã hội, tôn giáo theo tập quán. Người Mảng có
năm họ chính, mỗi họ lấy một con vật làm vật tổ.
Ma chay : Tang lễ của người Mảng gồm nhiều nghi thức phức tạp, từ khâm liệm cho đến khi chôn
cất. Xưa, quan tài chủ yếu dùng vỏ cây hoặc tre ghép. Sau này, người ta dùng thân cây khoét
rỗng hay dùng hòm ván gỗ.
Nhà mới : Mặc dù nhà người Mảng rất tạm bợ, nhưng từ khâu chọn đất, san nền, dựng cột cho
đến lợp đều phải nhờ thầy bói xem ngày, giờ rồi mới tiến hành dựng nhà. Lễ mừng nhà mới là ngày
vui của cả bản. Lễ này gồm nhiều đặc trưng nghi thức phức tạp thể hiện đặc trưng tộc người.
Lễ tết : Ngoài Tết Nguyên đán ra, người Mảng ăn tết Cơm mới sau vụ gặt tháng 10 âm lịch. Hằng
năm, dân bản còn cúng ma bản và ma nhà để cầu yên. Đặc biệt ở họ tồn tại hàng loạt nghi lễ liên
quan đến nông nghiệp : lễ gieo nương ; cúng hồn lúa, mẹ lúa ; cúng sau vụ thu hoạch...
Thờ cúng : Ma nhà được cúng vào dịp Tết hoặc khi trong nhà có người đau ốm. Trời là đấng sáng
tạo tối cao. Ở đây có cả truyền thuyết về sự xuất hiện loài người theo mô típ truyện quả bầu.
Người ta quan niệm vũ trụ có 4 tầng : trên trời là thế giới thần linh sáng tạo, mặt đất là thế giới
người và các loài ma, dưới đất là người lùn xấu xí và dưới nước là thế giới thuồng luồng. Người
Mảng tin có nhiều ma, trong đó ma nhà có vị trí đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó họ cũng thờ
ma Đẳm - tổ tiên, dòng họ.
Văn nghệ : Làn điệu dân ca oxoỏng được nhiều người biết và ưa thích. Các truyện dã sử, truyện kể
về lịch sử dân tộc thường được người già kể say sưa.
Chơi : Vào các dịp lễ, tết, trẻ em chơi cầu lông, đánh quay. Thanh niên có nơi chơi ném còn.

118
Người Mông

Tên tự gọi : Mông, Na Miẻo.


Tên gọi khác : Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương : Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Đỏ, Mông Đen, Mông Xanh, Na Miẻo.
Dân số : 787.604 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc ngữ hệ Mông - Dao.
Hoạt động sản xuất : Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô,
lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là
các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu... Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng
như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, ...
dệt vải lanh, là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu
trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là
phương tiện vận chuyển rất có hiệu
quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa
rất gần gũi và thân thiết với từng
gia đình Mông.

Vẽ bằng sáp ong, nhuộm chàm là một cách


tạo hoa văn đặc trưng của người Mông và
người Dao. Người phụ nữ dùng bút chấm
vào sáp ong nóng chảy để vẽ vào những
hoa văn trên tấm vải lanh trắng. Vẽ xong,
tấm vải đó được nhuộm chàm nhiều lần
cho đến khi được màu đen vừa ý. Sau đó,
người ta đem vải nhúng vào nước nóng
cho sáp ong tan ra, để lại những hoa văn
màu trắng trên nền chàm xanh.
Ảnh : Trọng Thanh

119
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công
như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ
gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ
trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và
thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công
Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp
làm ra những sản phẩm nổi tiếng như
lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng
gỗ ghép.
Chợ ở vùng Mông thỏa mãn vừa nhu cầu
trao đổi hàng hóa vừa nhu cầu giao lưu
tình cảm, sinh hoạt.
Ăn : Người Mông thường ăn ngày hai bữa,
ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực
phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô
đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột
ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ
khéo làm các loại bánh bằng bột ngô,
gạo vào những ngày tết, ngày lễ. Người
Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo,
hút thuốc bằng điếu cày. Đưa mời khách Chợ phiên, nơi giao lưu trao đổi hàng hóa, gặp gỡ của anh em,
chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là bạn bè trai gái, là một sinh hoạt đặc trưng của người Mông ở
vùng cao biên giới. Người ta thồ trên lưng ngựa đến chợ đủ
biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, mọi thứ hàng hóa như : ngô, rau, củi… Đàn ngựa thồ được
tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến quần tụ trên bãi để ngựa ở chợ Bắc Hà (Lào Cai), Đồng Văn
với họ. (Hà Giang), là nét văn hóa đẹp ở vùng cao.

Mặc : Trang phục của người Mông rất sặc Ảnh : Trọng Thanh
sỡ, đa dạng giữa các nhóm.

Thắng cố (chảo canh) là


món ăn được ưa thích của
người Mông. Đây là món
canh gồm các loại thịt,
xương, lòng, gan, tim,
phổi bò (dê) cắt thành
từng miếng nhỏ được
nấu chung trong chảo to.
Người Mông thường nấu
thắng cố khi nhà có bữa đám
hay trong các phiên chợ.
Ảnh : Trọng Thanh

120
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay,
yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai
và ngực đắp vải màu, và thêu. Để tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Đen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng
lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.
Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình
vuông, hình quả trám, hình chữ thập.
Ở : Người Mông ở hầu hết các tỉnh từ vùng Đông Bắc, Tây Bắc đến Nghệ An, Thanh Hoá. Quần tụ
trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt
bàn thờ. Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói,
sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Lương thực được cất trữ trên sàn
gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.
ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao
khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển  : Người Mông quen
dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội : Bản thường có nhiều họ, trong
đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh
hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người
đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản,
trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận
xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân
thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn
nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan
hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông
qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.

Mỗi gia đình Mông đều có bàn thờ ở gian giữa nhà. Biểu
trưng cho nơi thờ là vài tờ giấy bản có tráng kim ở giữa
đóng trên vách được thay vào dịp Tết hằng năm. Mỗi
khi cúng, người ta lấy lông gà chấm vào tiết rồi dán lên
tờ giấy bản đó.
Ảnh : Võ Mai Phương

121
Ngày Tết, trai gái Mông vui chơi,
ca hát, múa khèn, tung còn, đánh
cầu lông gà, đánh quay…Chơi
quay là một trò chơi phổ biến ở
hầu hết các dân tộc ở miền Bắc,
nhưng mỗi dân tộc có cách đánh
quay riêng.
Ảnh : Võ Mai Phương

Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng
với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát
cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác
ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ... Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao
đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt
những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là
người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào
dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng.
Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng : Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ
tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ
cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau
khi cúng ma cầu xin cho ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học : Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ Quốc ngữ từ những năm 60 nhưng cho đến
nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết : Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã
bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn Tết Nguyên đán gần một
tháng, theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống. Ngày
Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai
là Tết mùng 5 tháng 5 (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tùy từng nơi, còn có các Tết vào các ngày 3
tháng ba, 13 tháng sáu, 7 tháng bảy (âm lịch).
Văn nghệ : Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong
đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi
tâm tình.

122
Người Mnông

Tên tự gọi : Mnông.


Nhóm địa phương : Mnông Gar, Mnông Nông, Mnông Chil, Mnông Kuênh, Mnông Rlâm, Mnông
Preh, Mnông Prâng, Mnông Đíp, Mnông Bhiêt, Mnông Sitô, Mnông Bu Đâng, Mnông Bu Nor, Mnông
Bu Đêh...
Dân số : 92.451 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.
Hoạt động sản xuất : Người Mnông trồng lúa nương trên rẫy bằng phương pháp "đao canh hỏa
chủng" : phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt ; thu hoạch theo lối tuốt lúa bằng tay. Họ trồng lúa nước
bằng phương pháp “đao canh thủy nậu” trên những vùng đầm lầy, dùng trâu để quần ruộng cho
nhão đất rồi gieo hạt, không cấy mạ như ở đồng bằng. Điều đáng lưu ý là vai trò của cái cuốc trong
nền nông nghiệp cổ truyền Mnông. Đi đôi với nền sản xuất nông phẩm, việc săn bắn, hái lượm còn
giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hằng ngày.
Sản xuất thủ công nghiệp gia đình phổ biến là nghề đan đồ gia dụng bằng nguyên liệu mây, tre,
lá ; thứ đến là nghề trồng bông dệt vải do phụ nữ đảm nhiệm. Trong mỗi làng còn có một số người
biết làm gốm thô, nặn bằng tay và nung lộ thiên. Sản phẩm là nồi đất các loại, bát ăn cơm và vò,
hũ. Nghề rèn nông cụ không được phát triển lắm trong các vùng Mnông. Đặc biệt ở vùng Buôn
Đôn, cư dân có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng rất nổi tiếng. Cho đến nay nghề này vẫn
được tiếp tục duy trì tuy số voi săn bắt được hằng năm đã giảm đi đáng kể.

Cách trang trí như thế này ở mỗi


đầu dải khố Mnông luôn là một
trong những đặc điểm nổi bật
để phân biệt với trang phục cùng
loại của các dân tộc khác tại Trường
Sơn - Tây Nguyên. Hãy chú ý trước
hết đến các cụm tua màu rực rỡ
được phân bố ở đôi đường biên,
mép khố và sau đó là sự bố cục
của các dải hoa văn hẹp trên cả hai
chiều ngang, dọc.
Ảnh : Chu Thái Sơn

123
Ngôi nhà trệt nhóm Mnông Prâng ở huyện Đắk Glong (tỉnh Đắk Nông) có kiến trúc như mô phỏng và mở rộng của một
vòm hang động. Đây là lối kiến trúc nhà không có chái. Cửa ra vào luôn được mở ở hai phía : phía hồi và phía mái,
điểm khác biệt so với lối mở cửa của nhà sàn dài Ê-đê cùng địa phương.
Ảnh : Chu Thái Sơn
Ăn : Họ ăn cơm gạo tẻ nấu trong những nồi đất nung, xa xưa thì phổ biến là cơm lam (gạo nếp
nấu trong ống nứa). Bữa ăn trưa ở trên ruộng rẫy thường là món cháo chua đựng trong những trái
bầu khô. Thức ăn chủ yếu là muối ớt, canh rau rừng, thịt chim, thú và cá suối bắt được. Việc chăn
nuôi gia súc, gia cầm chưa phát triển. Rau củ được trồng trên rẫy để bổ sung cho nguồn thức ăn
do hái lượm đem lại. Thức uống phổ biến là rượu cần.
Mặc : Về mùa nóng, đàn ông xưa kia thường đóng khố ở trần ; còn đàn bà thì quấn váy tấm và
cũng ở trần. Về mùa lạnh, họ khoác thêm trên mình một tấm mền, kiểu phục sức rất phổ biến ở
Trường Sơn - Tây Nguyên. Hiện nay trong trang phục Mnông đã tiếp thu nhiều yếu tố Việt. Tập
quán “cà răng căng tai” phổ biến trong xã hội cổ truyền, đến nay chỉ còn lại dấu ấn ở lứa tuổi
những người cao tuổi.
ở : Hiện nay người Mnông cư trú tập trung theo nhóm địa phương, chủ yếu ở các huyện : Lắc,
MĐrắk, Đắk Nông, Đắk Mil, Krông Pách, Ea Súp, Buôn Đôn... thuộc các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông;
một bộ phận cư trú ở phía bắc tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Dương và Bình Phước) và tây nam
tỉnh Lâm Đồng ; địa bàn phân bố về phía tây đến tận miền đông Campuchia, giáp ranh với biên giới
nước ta. Tùy theo vùng và từng nhóm địa phương mà họ xây cất nhà trệt hoặc nhà sàn. Nhà trệt có
mái tranh gần sát đất và nền đất là mặt bằng sinh hoạt, rất phổ biến ở nhóm Mnông Gar, Mnông
Preh, Mnông Prâng... Còn nhà sàn thường là sàn thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 0,70m đến 1m và
phổ biến ở nhóm Mnông Kuênh, Mnông Chil, Mnông Bhiêt... Riêng nhóm Mnông Rlâm ở vùng hồ
Lắc xây cất nhà sàn cao theo kiến trúc của người Ê-đê. Dù là nhà sàn hay nhà trệt thì mái vẫn lợp
bằng cỏ tranh : khung và sườn nhà được kết hợp 2 loại nguyên liệu là tre nứa và gỗ cây... Các bộ
phận được liên kết bằng chạc, ngoãm, dây mây và dây rừng.

124
Phương tiện vận chuyển : Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng nhờ có 2 quai quàng qua đôi vai. Việc
vận chuyển bằng voi là phương thức đặc biệt được chú trọng ở vùng người Mnông. Việc đi lại, vận
chuyển trên sông, hồ có thuyền độc mộc.
Quan hệ xã hội : Đơn vị cư trú cơ bản gọi là bon hay uôn, tương ứng với làng, xóm. Các gia
đình trong làng có quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Làng nhỏ
có độ mươi nóc nhà, làng lớn có khi tập trung đến vài chục nóc. Quan hệ huyết thống ở đây
tính theo dòng họ mẹ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm nét trong mọi quan hệ xã hội
hiện nay. Song tập quán mẫu hệ đã và đang tan rã ở nhiều thang bậc khác nhau theo từng
nhóm địa phương.
Trong xã hội cổ truyền người đứng đầu mỗi làng gọi là Rnút hay Kroanh bon, bên cạnh có người
phụ tá gọi là Rnoi, Rnớp. Khi cần chiến đấu thì cử ra một chức sắc gọi là Né tăm lăm lở làm thủ
lĩnh quân sự. Xã hội Mnông vận hành theo tập quán pháp và Tập quán pháp ca được truyền khẩu
qua các thế hệ để làm chuẩn mực cho mọi ứng xử trong đời sống.
Cưới xin  : Phụ nữ thường
chủ động hơn trong việc hôn
nhân. Lễ cưới do hai bên cùng
tổ chức. Sau hôn nhân phổ
biến là cư trú phía nhà gái.
Ở nhiều nhóm địa phương lại
phổ biến hình thức luân cư
song phương. Con sinh ra đều
mang họ mẹ. Trong tập quán
cưới xin có 3 nghi lễ là Sa ur,
Tâm ốp và Tâm nsông tương
ứng với lễ chạm ngõ, lễ ăn
hỏi và lễ thành hôn. Chế độ
một vợ một chồng là quy tắc
chặt chẽ trong quan hệ hôn
nhân. Luật tục Mnông phạt
vạ rất nghiêm khắc với tội
loạn luân và ngoại tình.

Nhạc cụ bằng tre, nứa rất phong


phú về chủng loại và phổ biến trong
các dân tộc tại Trường Sơn – Tây
Nguyên. Người nghệ sĩ Mnông đang
cất lên tiếng nhạc rừng tha thiết,
réo rắt qua ống sáo dọc 5 lỗ.
Ảnh : Chu Thái Sơn

125
Ma chay : Khi có người chết, cả làng nghỉ việc đồng áng để cùng lo mai táng, ma chay. Thi hài
được quàn tại nhà khoảng 2 ngày đối với người chết già, chết vì bệnh tật. Họ rất kinh hãi và chối
bỏ việc ma chay đối với mọi cái chết do tai nạn gây nên (chết đuối, ngã cây, rắn cắn, hổ vồ... và
chết do chiến tranh, đâm chém). Những cái chết “bất đắc kì tử” như vừa nêu thì thi hài không
được đem vào nhà mà phải mai táng tức khắc một cách thầm lặng. Thổ táng là hình thức duy nhất
trong việc tang ma, không có tập quán cải táng. Mọi người chết đều được chia tài sản để mang về
“lập nghiệp” ở thế giới của ông bà gọi là Phan.
Nhà mới : Khi một ngôi nhà được xây cất hoàn tất thì lễ khánh thành để vào nhà mới sẽ được tổ
chức linh đình bằng một ngày tiệc mặn cúng hiến sinh heo. Sau bữa ăn rồi mới đến tiệc rượu cần
rất rôm rả trong tiếng nhạc cồng chiêng.
Lễ tết : Lễ hội đâm trâu là lễ hội cổ truyền được coi trọng nhất. Kết thúc mùa thu hoạch lúa hằng
năm, mỗi làng đều tổ chức Tết ăn mừng cơm mới, tạ ơn trời đất và Thần Lúa. Trâu được hiến sinh
trong hội lễ tưng bừng để chuẩn bị cho một mùa vụ mới tràn đầy hi vọng.
Lịch : Nông lịch cổ truyền Mnông tính theo lịch âm, dựa vào quy trình canh tác rẫy. Mỗi năm cũng
có 12 tháng, mỗi tháng có từ 29 đến 30 ngày.
Học : Trong xã hội cổ truyền Mnông chưa có chữ viết, chỉ có văn chương truyền miệng. Việc giáo
dục, học tập được thực hiện bằng phương pháp chỉ dẫn trực tiếp, làm mẫu noi theo, bắt chước.
Thập kỉ gần đây mới xuất hiện chữ viết nhưng sự phổ biến rộng rãi đang vấp phải không ít trở
ngại.
Văn nghệ : Kho tàng truyện cổ, đặc biệt là sử thi và tập quán pháp ca tiềm ẩn nhiều giá trị, đã và
đang được khai thác, giới thiệu. Tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú. Nhạc cụ có cồng chiêng,
kèn bầu, kèn sừng trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đàn 8 dây, sáo dọc. Đặc biệt là vỏ trái bầu khô
được sử dụng một cách phổ biến để tạo nên bộ phận khuếch đại âm thanh trong nhiều nhạc cụ
bằng tre, nứa. Người ta đã tìm thấy ở vùng cư trú của người Mnông bộ đàn đá nguyên thủy nổi
tiếng từ giữa thế kỉ XX.
Chơi : Trẻ em thường thích chơi diều, đánh cù, bịt mắt bắt dê, chạy, nhảy...

126
Người Mường

Tên tự gọi : Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).


Nhóm địa phương : Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.
Dân số : 1.137.515 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ...
Hoạt động sản xuất : Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực
chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc
tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy
từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người
Mường có nhiều kinh nghiệm làm thủy lợi nhỏ.
Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia đình, săn bắn, đánh cá, hái
lượm và sản xuất thủ công nghiệp (dệt vải, đan lát...).
Ăn : Họ thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá tãi
đều cho khỏi nát trước khi ăn.
Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế
biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời
khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào
bằng loại ống điếu to. Đặc biệt, phụ nữ còn có
phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút
chung một điếu thuốc.

Bộ y phục của phụ nữ Mường thanh lịch và kín đáo gồm :


khăn trắng hình chữ nhật, áo ngắn, váy dài đến mắt cá chân,
yếm; đồ trang sức thường là dây đeo bạc có gắn hộp trầu hình
quả đào, móng vuốt hổ, gấu…
Ảnh : Hoàng Bé

127
Mặc : Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh
vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn
thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy
nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kì công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2
hoặc 4 dây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Đó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải,
nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa
bệnh thường đội mũ chầu.
ở : Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần
sông suối... ở các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà,
khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Đại bộ phận ở nhà
sàn, kiểu nhà 4 mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã
gạo, các công cụ sản xuất khác.
Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt
hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh.
Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin Thần Bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn
đá cái. Đêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.
Phương tiện vận chuyển : Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp
thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Đôi dậu, đòn gánh có mấu 2
đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.
Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để
dùng dần.
Quan hệ xã hội : Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình 2 - 3
thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng và con
trai trong gia đình được thừa kế tài sản.
Cưới xin : Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới.
Để dẫn đến đám cưới phải qua các bước : ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin
cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối
dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang
nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp, chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín
(bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu,
cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước.
Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và
hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.
Sinh đẻ : Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở
gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi
báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn
cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc rui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái
nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được
đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.

128
Ngày sinh con, gia đình tổ chức bữa cơm ăn mừng, mời thầy mo cúng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ
con. Đẻ được 3 - 7 ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng
cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ,
anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.
Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống
nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ (7 đến 10 ngày) nhất là 3 ngày đầu
luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi lọ mạ (thóc
giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi cách tắc (rau cỏ). Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới
được đặt tên gọi chính thức.
Ma chay : Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gian
thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo
theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy
rồng bằng vải.

Tế quạt ma là một nghi lễ độc đáo trong đám ma người Mường. Khi tế quạt ma, những người là dâu trong nhà,
trong họ của người quá cố phải mặc bộ đồ quạt ma rất đẹp, gồm : váy đen cạp mới, áo ngăn, áo chùng trắng, yếm
đỏ; hai tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa, tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt trang trí tua hạt
cườm; phía trước đặt một chiếc ghế mây.
Ảnh : Hoàng Bé

Tang lễ do thầy mo chủ trì, dẫn dắt. Bên cạnh hình thức chịu tang của con trai, con gái như vẫn
thường thấy ở người Việt, riêng con dâu, cháu dâu chịu tang cha mẹ, ông bà còn có bộ tang phục
riêng gọi là bộ quạt ma.
Lịch : Lịch cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng.
Trên mỗi thẻ có khắc kí hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự
công việc.
Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính
ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và
tháng 10 âm lịch.

129
Lịch người Mường gọi là sách đoi được sáng tạo dựa trên quan
sát chuyển động của sao ĐOI. Lịch được làm bằng 12 thẻ tre, mỗi
thẻ là một tháng, trong đó có số ngày trong tháng được khắc
bằng những kí hiệu khác nhau để đoán định ngày tốt xấu cho
khởi sự công việc.
Ảnh : Hoàng Bé

Văn nghệ : Hát xéc bùa (có nơi gọi xắc bùa hay khóa rác) được nhiều người ưa thích. Thường
(có nơi gọi ràng thường hoặc xường) là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân
tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.
Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Đặc biệt,
ở người Mường phải kể đến lễ ca. Đó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong
đám tang.
Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.
Chơi : Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu
đáo, công phu như : thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng
được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đơn giản, tiện lợi như trò đánh
cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.

130
NGƯỜI NGÁI

Tên tự gọi : Sán Ngải.


Tên gọi khác : Ngái Hắc Cá,
Ngái Lầu Mần, Hẹ, Sín, Đản,
Lê, Xuyến.
Dân số : 4.841 người.
Ngôn ngữ  : Tiếng nói thuộc
nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ
Hán - Tạng).
Lịch sử : Người Ngái có nhiều
gốc khác nhau và thiên di tới
Việt Nam làm nhiều đợt. Quá
trình này diễn ra suốt thời kì
Trung và Cận đại.
Làm những cây rơm để giữ dùng đun nấu dần là một thói quen của cư dân
Hoạt động sản xuất : Người nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng bằng và trung du. Người Ngái giữ các cây
Ngái sinh sống trong nội địa rơm trên dàn cao để tránh mối mục và gia súc phá hoại.
lấy việc trồng lúa nước làm Ảnh : Vi Văn An
nguồn sống chính. Ngoài
ra, họ còn trồng ngô, khoai,
sắn, chăn nuôi... Bộ phận
ở ven biển và hải đảo sống
bằng nghề đánh cá là chủ
yếu. Thủ công nghiệp với các
nghề như làm mành trúc, dệt
chiếu, mộc, nề, rèn, gạch
ngói, nung vôi,... cũng đóng
vai trò đáng kể trong đời
sống của người Ngái.
Ăn  : Người Ngái ăn ba bữa
trong ngày, thích ăn cháo,
thức ăn chủ yếu là rau... Họ
ưa dùng các loại gia vị như
tỏi, ớt, gừng... trong bữa ăn. Ngoài việc lập bàn thờ gia tiên, các thầy cúng người Ngái còn lập bài vị để
thờ bậc thánh sư (đạo Lão). Quan âm Nam Hải (đạo Phật) và Thành hoàng
bản thổ. Bài vị được viết bằng chữ Hán trên giấy đỏ cùng lá cờ xí, cờ tướng
và các thần Kim Quy, Thanh Xà (Rắn).
Ảnh : Võ Mai Phương

131
Mặc : Y phục thường không thêu thùa. Nam giới mặc quần lá tọa, áo có 2 hoặc 3 túi. Phụ nữ mặc
áo 5 thân dài quá mông, cài khuy vải bên nách phải, thích tết tóc cuốn quanh đầu.
ở : Người Ngái sống phân tán trong các tỉnh Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh... Họ ở
nhà đất với nhiều kiểu kiến trúc và chất liệu lợp mái khác nhau. Bộ phận ở ven biển và hải đảo
thường sống ngay trên thuyền.
Phương tiện vận chuyển : Cư dân ở miền núi quen dùng gùi đeo, sọt gánh, còn ở miền biển thì
dùng thuyền, xuồng ba lá.
Quan hệ xã hội : Gia đình nhỏ phụ quyền. Quan hệ cộng đồng còn mạnh mặc dù đã xuất hiện sự
phân hóa giàu nghèo. Trong mỗi làng bản, vị trí của người tộc trưởng của dòng họ lớn nhất được
đề cao và có vai trò lớn trong việc giải quyết các quan hệ làng xóm.
Người Ngái nhận họ và phân biệt chi ngành qua hệ thống tên đệm. Họ vợ, mà đại diện chính là
ông cậu (khảo), có vai trò quan trọng trong quan hệ thân tộc. Mặc dù vậy, dòng họ Ngái vẫn mang
tính huyết thống dòng cha.
Cưới xin : Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Nghi thức mỗi đám cưới với hai bước là lễ thành
hôn và lễ nhập phòng. Tuổi kết hôn sớm, hôn nhân mang tính gả bán cao. Sau đám cưới, cô dâu
cư trú bên chồng. Chỉ có những trường hợp đặc biệt (nhà gái không có con trai, chú rể đông anh
em...) mới có hiện tượng ở rể.
Sinh đẻ : Phụ nữ có mang và sinh nở phải kiêng khem nhiều trong cả ăn uống và hành vi. Trẻ sơ
sinh sau 2 - 3 ngày đã được mẹ cho ăn bột.
Ma chay : Người Ngái quan niệm chết tức là linh hồn chuyển sang sống trong một thế giới khác.
Vì thế, họ thường chôn theo người chết nhiều đồ tùy táng mà khi sống người ta vẫn dùng. Tang
lễ có nhiều công đoạn phức tạp : báo tang, nhập quan, chôn cất, mở mả...
Thờ cúng : Tin vào sự tồn tại của hai phần trong con người (thể xác và linh hồn) cũng như sự tồn
tại của hai thế giới (thế giới thực và thế giới siêu thực của các thần thánh, linh hồn người). Người
Ngái thường thờ cúng nhiều đối tượng như tổ tiên, thần, Phật, ma rừng, vong hồn thập loại chúng
sinh,... Nghi thức cúng mỗi đối tượng khác nhau dùng các loại lễ vật khác nhau. Đã tồn tại một
lớp người chuyên hành nghề tôn giáo.
Lễ tết : Ăn Tết Nguyên đán vào đầu năm âm lịch. Ngoài ra có các tết khác như Hàn thực (3 - 3
âm lịch), Đoan ngọ (5 - 5 âm lịch), Vu lan (15 - 7 âm lịch), Cơm mới (10 - 10 âm lịch).
Học : Người Ngái nói nhiều thổ ngữ khác nhau của tiếng Hán phương nam, nhưng xưa kia ít người
biết chữ. Ngày nay, đa số trẻ em đến tuổi đi học đều biết chữ Quốc ngữ và tiếng phổ thông.
Văn nghệ : Người Ngái có một kho tàng văn nghệ dân gian phong phú với loại hình nghệ thuật
như dân ca, dân vũ và đặc biệt là loại văn học truyền miệng. Họ có nhiều truyền thuyết, truyện
cổ tích, thành ngữ, tục ngữ... thể hiện quan niệm của họ về thế giới quan, nhân sinh quan và đến
nay vẫn còn giàu ý nghĩa nhân bản.
Chơi : Người Ngái thích chơi cù, chơi khăng, đuổi bắt, đánh cầu lông gà, đá cầu chinh và trò chơi tập
thể khác.

132
Người Nùng

Tên tự gọi : Nồng.


Nhóm địa phương : Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng
Phàn Slình, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín...
Dân số : 856.412 người.
Ngôn ngữ  : Tiếng Nùng
thuộc nhóm ngôn ngữ Tày -
Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai),
cùng nhóm với tiếng Tày,
tiếng Thái và tiếng Choang
ở Trung Quốc...
Lịch sử : Người Nùng phần lớn
từ Quảng Tây (Trung Quốc)
di cư sang cách đây khoảng
200 - 300 năm.
Hoạt động sản xuất : Người Bếp của người Nùng gồm 2 phần : Phần ngoài đặt 3 ông đầu rau hoặc kiềng
Nùng làm ruộng rất thành để nấu ăn và sưởi ấm ; phần trong là bếp lò đắp bằng đất sét đặt chảo to
thạo, nhưng do cư trú ở những để nấu cám lợn.
vùng không có điều kiện khai Ảnh : La Công Ý
phá ruộng nước, nên ở nhiều
nơi, họ phải sống bằng nương
rẫy là chính. Ngoài ngô, lúa,
họ còn trồng các loại cây có
củ, bầu bí, rau xanh...
Họ biết làm nhiều nghề thủ
công  : dệt, rèn, đúc, đan
lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó,
làm ngói âm dương... Nhiều
nghề có truyền thống lâu đời
nhưng vẫn là nghề phụ gia
đình, thường chỉ làm vào lúc
nông nhàn và sản phẩm làm
ra phục vụ nhu cầu của gia
đình là chính. Hiện nay, một Mỗi dịp tết, người Nùng đều làm nhiều loại bánh. Phổ biến các loại bánh được
số nghề có xu hướng mai một chế biến bằng bột gạo xay trên các cối xay bằng đá.
dần (dệt), một số nghề khác Ảnh : Trọng Thanh

133
được duy trì và phát triển (rèn). Ở xã Phúc Sen (huyện Quảng Hòa, Cao Bằng), rất nhiều gia đình
có lò rèn và hầu như gia đình nào cũng có người biết làm nghề rèn.
Chợ ở vùng người Nùng phát triển. Người ta thường đi chợ phiên để trao đổi mua bán các sản
phẩm. Thanh niên, nhất là nhóm Nùng Phàn Slình thích đi chợ hát giao duyên.
Ăn : Ở nhiều vùng, người Nùng ăn ngô là chính. Ngô được xay thành bột để nấu cháo đặc như
bánh đúc. Thức ăn thường được chế biến bằng cách rán, xào, nấu, ít khi luộc. Nhiều người kiêng
ăn thịt trâu, bò, chó.
Mặc : Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, thường làm bằng vải thô tự dệt, nhuộm
chàm và hầu như không có thêu thùa trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc
vải. Phụ nữ mặc áo năm thân, cài cúc bên nách phải, thường chỉ dài quá hông.
ở : Người Nùng cư trú ở các tỉnh vùng Đông Bắc nước ta tập trung ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn,
Thái Nguyên,... họ thường sống xen kẽ với người Tày. Phần lớn ở nhà sàn. Một số ở nhà đất làm theo
kiểu trình tường hoặc xây bằng gạch mộc. Ở ven biên giới, trước kia còn có loại nhà làm theo kiểu
pháo đài, có lô cốt và lỗ châu mai để chống giặc cướp.
Phương tiện vận chuyển : Các phương thức vận chuyển truyền thống là khiêng, vác, gánh, mang,
xách. Hiện nay, ở một số địa phương, người Nùng sử dụng xe có bánh lốp do súc vật kéo để làm
phương tiện vận chuyển.
Quan hệ xã hội : Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Nùng đã đạt đến trình độ phát triển
như người Tày. Ruộng và nương thâm canh đã biến thành tài sản tư hữu, có thể đem bán hay
chuyển nhượng. Hình thành các giai cấp : địa chủ và nông dân.
Cưới xin : Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu và khi yêu nhau họ thường trao tặng nhau một
số kỉ vật. Các chàng trai tặng các cô gái đòn gánh, giỏ đựng con bông (hắp lì) và giỏ đựng con sợi
(cởm lót). Còn các cô gái tặng các chàng trai áo và túi thêu.
Tuy nhiên, hôn nhân lại hoàn toàn do bố mẹ quyết định, trên cơ sở hai gia đình có môn đăng,
hộ đối không và lá số đôi trai gái có hợp nhau hay không. Nhà gái thường thách cưới bằng thịt,
gạo, rượu và tiền. Số lượng đồ dẫn cưới càng nhiều thì giá trị của người con gái càng cao. Việc
cưới xin gồm nhiều nghi lễ, quan trọng nhất là lễ đưa dâu về nhà chồng. Sau ngày cưới, cô dâu
vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi sắp có con mới về ở hẳn nhà chồng.

Mang đồ dẫn cưới sang nhà gái.


Ảnh : Vũ Thị Kim

134
Sinh đẻ : Ngoài lễ đặt bàn thờ bà mụ và lễ mừng trẻ đầy tháng, ở một số nhóm Nùng còn tổ chức
lễ đặt tên cho trẻ khi chúng đến tuổi trưởng thành.
Ma chay : Có nhiều nghi lễ với mục đích chính là đưa hồn người chết về bên kia thế giới.
Nhà mới : Làm nhà mới là một trong nhiều công việc hệ trọng. Vì thế, khi làm nhà, người ta rất
chú ý tới việc chọn đất, xem hướng, chọn ngày dựng nhà và lên nhà mới với ước mong có cuộc
sống yên vui, làm ăn phát đạt.
Thờ cúng : Thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ đặt ở nơi trang
trọng, được trang hoàng đẹp, ở vị trí trung tâm là bức
phùng slằn viết bằng chữ Hán cho biết tổ tiên thuộc
dòng họ nào. Ngoài ra còn thờ Thổ công, Phật bà Quan
Âm, Bà mụ, ma cửa, ma sàn, ma ngoài sàn (phi hang
chàn)... và tổ chức cầu cúng khi thiên tai, dịch bệnh...
Khác với người Tày, người Nùng tổ chức mừng sinh nhật
và không cúng giỗ.
Lễ tết  : Người Nùng ăn Tết giống như người Việt và
người Tày.
Lịch : Người Nùng theo âm lịch.
Học  : Có chữ nôm Nùng dựa theo chữ Hán, đọc theo
tiếng Nùng và chữ Tày - Nùng trên cơ sở chữ cái La-
tinh.
Văn nghệ : Sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ
dưới hình thức diễn xướng tập thể, thường là đôi nam,
đôi nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè. Trong nhà người Nùng có bàn thờ tổ tiên
thường để ở gian bên trái. Bàn thờ là nơi
Người ta thường sli với nhau trong những ngày hội, ngày
tôn nghiêm, được trang trí những bức hoành
lễ, ngày chợ phiên, thậm chí ngay trên tàu, trên xe. phi và câu đối viết bằng chữ Hán trên nền
giấy đỏ. Nhiều nơi còn có bức phùng slằn đề
Chơi  : Trong các ngày tết, ngày lễ, ngày hội thường
tên dòng họ.
có một số trò chơi như tung còn, đánh cầu lông, đánh
Ảnh : La Công Ý
quay, kéo co...

Quan niệm phổ biến là mỗi mảnh đất,


mỗi khu rừng đều có thổ công. Hằng
năm, người Nùng đều có lễ cúng thần
rừng ở những gốc cây cổ thụ hay các
tảng đá có hình thù kì dị trong các khu
rừng cấm. Người ta làm bàn thờ bằng
tre, nứa để đặt các lễ vật cúng thần.
Ảnh : Trọng Thanh

135
Người Ơ Đu

Tên tự gọi : Ơ Đu hoặc I Đu.


Tên gọi khác : Tày Hạt (người đói rách).
Dân số : 301 người.
Ngôn ngữ : Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á). Hiện nay chỉ còn một vài
cụ già biết tiếng mẹ đẻ. Hầu hết người Ơ Đu dùng các tiếng Khơ-mú, Thái làm công cụ giao
tiếp hằng ngày.
Lịch sử : Xưa kia, người Ơ Đu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn, nhưng
tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này
buộc họ phải dời đi nơi khác hay sống hòa lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Đu ở hai bản
đông nhất là Xốp Pột và Kim Hòa, xã Kim Đa, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Ở Lào, họ hợp
với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh
Sầm Nưa.
Hoạt động sản xuất : Người Ơ Đu
sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy
và một phần ruộng nước. Mỗi năm
họ chỉ làm một vụ : phát, đốt, gieo
hạt từ các tháng 4 - 5 âm lịch, thu
hoạch vào các tháng 9 - 10. Công
cụ làm rẫy gồm rìu, dao, gậy chọc
lỗ. Ngoài lúa là giống cây trồng
chính, họ còn trồng sắn, bầu, bí,
ngô, ý dĩ, đỗ. Hái lượm và săn bắn
vẫn có vị trí quan trọng trong đời
sống. Chăn nuôi trâu bò, lợn gà, dê

Gùi có dây đeo trán là phương tiện vận


chuyển đắc dụng nhất của người Ơ Đu.
Ảnh : Vi Văn An

136
Chiếc áo tơi liền nón có quai đeo vai để che mưa, che nắng là sản phẩm độc đáo của người Ơ Đu.
Ảnh : La Công Ý

khá phát triển. Trâu, bò dùng làm sức kéo, kéo cày ; lợn, gà sử dụng trong các dịp cưới, nghi lễ
tín ngưỡng, cúng ma... Đan lát đồ gia dụng bằng giang, mây, một phần tiêu dùng, phần để trao
đổi. Xưa kia, họ còn biết dệt vải.
Ăn : Người Ơ Đu thường ăn 1 bữa phụ (sáng), 2 bữa chính (trưa và tối). Trước đây, họ ăn xôi đồ ;
nay có cả cơm gạo tẻ ; khi mất mùa, họ ăn củ nâu, củ mài, hoặc sắn, ngô thay cơm. Họ thích uống
rượu, hút thuốc lào.
Mặc : Hiện nay, nam và nữ đều ăn mặc theo kiểu người Thái, người Việt trong vùng. Những bộ
trang phục cổ truyền còn rất ít.
ở : Trước đây, ngôi nhà sàn truyền thống, phải dựng quay đầu vào núi (dựng chiều dọc) gọi là
xiên tẳng. Khi dựng cột phải tuân theo một thứ tự nhất định. Nay kiểu nhà này không còn nữa.
Họ ở nhà sàn giống như nhà sàn người Thái.
Phương tiện vận chuyển : Phổ biến hơn cả là gùi có dây đeo trên trán. Gùi rất đẹp, bền chắc.
Quan hệ xã hội : Do số lượng dân số ít, sống xen kẽ với người Khơ-mú và Thái, cho nên các mặt
quan hệ xã hội, văn hóa của họ chịu nhiều ảnh hưởng của hai dân tộc này. Người Ơ Đu lấy họ theo
họ Thái, Lào. Tổ chức dòng họ rất mờ nhạt. Trưởng họ là người có uy tín, được kính trọng và có
vai trò lớn trong dòng họ. Gia đình người Ơ Đu là gia đình nhỏ phụ quyền. Đàn ông quyết định tất
thảy các công việc trong nhà. Phụ nữ không được hưởng quyền thừa tự. Họ phổ biến tục ở rể. Lễ
vật trong dịp cưới không thể thiếu là thịt sóc, thịt chuột sấy khô và cá ướp muối.

137
Sinh đẻ : Phụ nữ đẻ ngồi tại góc nhà phía gian dành cho phụ nữ. Nhau trẻ bỏ vào ống tre đem
chôn ngay dưới gầm sàn. Tuổi đứa con được tính từ ngày có tiếng sấm trong năm. Khi đó, đứa bé
được coi là đầy năm và được bố mẹ làm lễ đặt tên.
Thờ cúng : Người Ơ Đu tin rằng khi người chết, hồn biến thành ma. Hồn thân thể ngụ tại bãi tha
ma, hồn gốc ở chỏm tóc ở lại làm ma nhà. Ma nhà chỉ ở với con cháu một đời theo thứ tự từ con
trai cả đến con trai thứ. Khi các con trai đã chết hết, người ta làm lễ tiễn ma nhà về với tổ tiên.
Nơi thờ ma nhà tại góc hồi của gian thứ hai. Bàn thờ đơn giản, treo cao sát mái nhà.
Lễ tết : Người Ơ Đu ăn Tết Nguyên đán, Tết Cơm mới. Ngày hội lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong
năm. Ngày đó, cư dân khắp nơi đổ về mở hội tế trời, mổ trâu, bò, lợn ăn mừng tại bản Xốp Pột, xã
Kim Đa, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.
Văn nghệ : Người Ơ Đu sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ-mú, Thái như : sáo,
khèn, chiêng, trống ; thuộc các làn điệu dân ca Khơ-mú, Thái, kể chuyện dã sử.
Chơi : Người Ơ Đu có các trò chơi đánh khăng, chơi quay, ném còn, ô ăn quan.

Người Ơ Đu ở nhà sàn có 4 mái lợp bằng nứa hoặc tranh.


Ảnh : La Công Ý

138
NGƯỜI PÀ THẺN

Tên tự gọi : Pà Hưng.


Tên gọi khác  : Mèo Lài, Mèo Hoa, Mèo Đỏ, Bát
tiên tộc...
Dân số : 5.569 người.
Ngôn ngữ : Thuộc ngữ hệ Mông - Dao.
Lịch sử  : Theo truyền thuyết, người Pà Thẻn ở
vùng Than Lô (Trung Quốc) đến Việt Nam cách đây
khoảng 200 - 300 năm với câu chuyện vượt biển
Cất giữ giống là một việc rất trọng yếu của nông
cùng người Dao. dân, dù làm ruộng hay làm nương. Người Pà Thẻn
giữ giống bằng cách treo các loại hạt giống cây
Hoạt động sản xuất : Trước kia, người Pà Thẻn sống
trong nhà.
chủ yếu bằng nương rẫy. Phương thức canh tác là phát Ảnh : Trọng Thanh
đốt rồi chọc lỗ, tra hạt. Cây trồng gồm lúa, ngô và các
loại rau, đậu, khoai sọ, khoai môn. Công cụ sản xuất là
rìu, cuốc, dao. Do sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên,
nhất là những lúc mất mùa, giáp hạt, người Pà Thẻn
vẫn phải lên rừng đào củ mài, củ nâu... Vì thế, hái lượm
còn đóng vai trò đáng kể trong đời sống kinh tế. Nghề
dệt của họ có từ lâu đời, sản phẩm dệt được nhiều dân
tộc xung quanh ưa thích. Đàn ông thường đan lát, làm
mộc. Người Pà Thẻn chăn nuôi các loại gia súc và gia
cầm như : trâu, bò, dê, lợn, gà. Ngoài phục vụ nhu cầu
sức kéo, chăn nuôi còn nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu
dùng và lễ nghi tôn giáo.
Ăn : Người Pà Thẻn chủ yếu ăn cơm tẻ, ngày hai bữa
chính, thích các món ăn luộc hay xào.
Mặc : Bộ trang phục của phụ nữ Pà Thẻn còn giữ được
nhiều yếu tố riêng. Bộ trang phục của phụ nữ gồm : áo,
váy, khăn trong và khăn ngoài, màu sắc rất sặc sỡ. Một
số mô típ trang trí trên quần áo của họ cũng gần giống
như của người Dao.
ở : Hiện nay, họ cư trú tại hai tỉnh Tuyên Quang và
Hà Giang. Tùy từng nơi, người Pà Thẻn quen ở nhà
sàn, nhà nền đất hay nửa sàn nửa nền đất. Hiện nay, Dệt thổ cẩm là một nghề truyền thống của
ở nhiều nơi, đồng bào đã dựng nhà cột kê khang người Pà Thẻn.
trang, vững chãi. Ảnh : Trọng Thanh

139
Phương tiện vận chuyển : Gánh là cách vận chuyển chính của người Pà Thẻn.
Quan hệ xã hội : Quan hệ xóm giềng
giữ vai trò chủ đạo. Thôn xóm hòa
thuận, các gia đình thường quan
tâm giúp đỡ lẫn nhau, đổi công cho
nhau những lúc thời vụ hay những
công việc cần nhiều lao động.

Lễ vật quan trọng của người Pà Thẻn là


chiếc lồng gà trống thiến được trang trí
bằng vải đỏ do bên nhà trai cùng với chú
rể và các thiếu nữ phù rể mang theo trên
đường đi đón dâu.
Ảnh : Võ Mai Phương

Trong một bản của người Pà Thẻn, có nhiều dòng họ cùng cư trú, trong đó thường có một dòng họ
lớn nhất. Người Pà Thẻn có 8 họ gốc và một số họ khác của người Dao (Bàn, Triệu). Mỗi họ chia
ra nhiều chi họ gắn với truyền thuyết riêng.
Cưới xin : Gia đình một vợ một chồng bền vững. Việc lấy nhau giữa những người cùng họ bị cấm
nghiêm ngặt. Rất hiếm các trường hợp người chồng lấy vợ hai, vợ chồng ít khi li dị. Việc ngoại
tình bị xã hội lên án. Từ khi dạm hỏi cho đến lễ cưới phải qua nhiều nghi lễ. Có hai hình thức ở rể
là ở rể tạm thời (tối đa 12 năm) và ở rể đời - sang ở hẳn bên nhà vợ, con mang họ mẹ.
Ma chay : Khi có người chết thì người nhà bắn ba phát súng báo hiệu, sau đó tiến hành khâm
liệm. Lễ vật dùng cho đám ma do con gái đã có chồng đưa đến phúng viếng. Mỗi người viếng một
con lợn khoảng 25 kg, nhà nghèo thì chỉ 7 con gà trống. Quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng.
Trong quan tài có đổ gạo rang, phủ giấy bản rồi mới đóng chốt hạ huyệt.
Thờ cúng : Người Pà Thẻn tin vào sự tồn tại của các siêu linh, vạn vật có linh hồn. Ma quỷ, thần
thánh gồm hai loại : lành và dữ. Loại lành gồm các thần ở trên trời, tổ tiên, thổ địa... ; loại dữ
như ma sông, ma suối, ma của người chết "bất đắc kì tử"..., chúng thường phá hoại mùa màng,
làm hại gia súc.
Chủ yếu là thờ cúng tổ tiên trong nhà. Bàn thờ làm bằng tấm gỗ hình chữ U lộn ngược. Mặt bàn để
một bát hương và một bát nước lã. Người Pà Thẻn có nhiều tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp
như : cúng trước khi tra hạt, lễ cúng cơm mới. Truyền thuyết về sự xuất hiện của cây lúa là do 3 con
vật : chó, mèo, lợn lấy trộm giống lúa trên trời về cho con người, nên khi cúng cơm mới phải cho 3
con vật trên ăn trước. Khi hạn hán lâu, dân bản làm lễ cầu mưa. Các nghi lễ liên quan đến chăn nuôi,
săn bắn cũng được chú trọng.
Lễ tết : Người Pà Thẻn ăn Tết Nguyên đán và các Tết như các dân tộc khác ở vùng Đông Bắc.
Lịch : Vận dụng âm lịch trong sản xuất, đời sống.
Học : Nhiều người biết đọc, viết chữ Nôm Tày, Nùng.
Văn nghệ : Đời sống văn nghệ phong phú như ca hát, thổi sáo và các trò chơi dân gian.

140
NGƯỜI PHÙ LÁ

Tên tự gọi  : Lao Va Xơ, Bồ


Khô Pạ, Phù Lá.
Tên gọi khác  : Xá Phó,
Cần Thin.
Nhóm địa phương  : Phù Lá
Lão - Bồ Khô Pạ, Phù Lá Đen,
Phù Lá Hán.
Dân số : 9.046 người.
Ngôn ngữ  : Tiếng nói thuộc
nhóm ngôn ngữ Tạng Miến
(ngữ hệ Hán - Tạng), gần với
Miến hơn.
Lịch sử : Nhóm Phù Lá Lão -
Bồ Khô Pạ là cư dân có mặt
tương đối sớm ở Tây Bắc nước Cách quạt thóc đơn giản nhất (một người đổ thóc, một người cầm nia quạt)
vẫn phổ biến ở người Phù Lá và nhiều dân tộc khác.
ta. Các nhóm khác đến muộn
Ảnh : Mai Thanh Sơn
hơn, khoảng 200  - 300 năm
trở lại, quá trình hội nhập của
nhóm Phù Lá Hán còn tiếp
diễn cho tới những năm 40
của thế kỉ XX.
Hoạt động sản xuất : Người
Phù Lá làm nương và ruộng
bậc thang. Các sản phẩm đan
bằng mây, trúc với nhiều
hoa văn, màu sắc như các đồ
đựng quần áo, thức ăn rất
nổi tiếng. Họ quen sử dụng
nỏ, tên tẩm thuốc độc để săn
bắn ; trồng bông, dệt vải, xe
sợi bằng con trượt.
Ăn  : Người Phù Lá giã gạo
Nhóm Phù Lá Lão cho đến nay vẫn duy trì nghề trồng bông, dệt vải nhằm
hằng ngày bằng chày tay, ăn thoả mãn nhu cầu về mặc của gia đình. Tranh thủ lúc ở nhà, người phụ nữ
cơm tẻ ngày hai bữa, sáng bật bông, họ xe sợi lúc trên đường đi nương.
sớm và tối, thích hợp với điều Ảnh : Mai Thanh Sơn

141
kiện canh tác trên nương. Đồ nếp dùng trong lễ cúng,
làm bánh. Cơm nếp, các món ăn cá, thịt ướp với gạo rang
giã nhỏ cùng gia vị ớt, rau thơm, thịt nướng rất được họ
ưa thích.
Mặc : Phụ nữ ăn mặc khác nhau giữa các nhóm. Nữ giới
nhóm Phù Lá Lão - Bồ Khô Pạ mặc váy, áo ngắn, cổ vuông
chui đầu, vừa thêu vừa trang trí bằng hạt cườm, thắt lưng
đính vỏ ốc núi. Các nhóm khác mặc quần, áo dài xẻ ngực
hay áo ngắn xẻ nách.
Chiếc áo của nam giới Phù Lá Lão rất độc đáo, sau lưng
đính nhiều hạt cườm.
Nam nữ Phù Lá thường đeo túi vải bên mình.

Chiếc áo của nam giới Phù Lá (nhóm Lão) có nét riêng, độc đáo thể
hiện ở cách trang trí các hạt cườm ở sau lưng và các mép áo. Áo không
có cúc, thường chỉ được vắt chéo trước khi giắt vào cạp quần.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

ở : Người Phù Lá sống tập trung ở các tỉnh : Hà Giang,


Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu. Làng xóm thường cách xa
nương. Cư dân nhóm Phù Lá Lão thường ở phân tán thành
những chòm xóm với quy mô nhỏ. Các nhóm khác cư trú
tập trung hơn. Tùy từng nơi ở nhà sàn hay nhà trệt. Kho
thóc quây quần thành một khu thường làm cách xa nhà
để phòng hỏa hoạn.
Phương tiện vận chuyển : Nhóm Phù Lá Lão - Bồ Khô
Pạ đeo gùi đỡ bằng trán. Trái lại, nhóm Phù Lá Hán và
Phù Lá Đen cõng gùi trên lưng hoặc sử dụng ngựa thồ để
chuyên chở.

Bếp lửa là trung tâm của sinh hoạt gia đình trong nhà sàn. Khi lên
nhà mới, việc đầu tiên rất thiêng liêng là nhóm lửa và duy trì ngọn
lửa trên bếp.
Ảnh : Trọng Thanh

142
Quan hệ xã hội : Quan hệ láng giềng là mối quan hệ chủ đạo trong các bản Phù Lá. Những ngày
mùa, các gia đình trong bản thường giúp đổi công cho nhau, ăn chung với gia chủ bữa tối. Khi
gia đình nào đó có công to việc lớn (cưới xin, làm nhà, ma chay...) đều nhận được sự giúp đỡ của
các thành viên khác trong bản.
Trong bản có nhiều họ khác nhau, mỗi
họ lại chia thành nhiều chi. Phủ bên
ngoài các tên họ bằng âm Hán, Hán -
Việt, Việt, Thái còn có những tên họ
riêng bằng tiếng dân tộc. Dấu vết thờ
vật tổ trong các dòng họ còn đặc biệt
rõ nét ở nhóm Phù Lá Lão. Quan hệ
dòng họ không thật chặt chẽ.

Dòng nước mát đã được chuyển đổi từ truyền


thống đến hiện đại. Phụ nữ Phù Lá không còn
phải đi vác nước ở các khe nước về nhà nữa, họ
đã được dùng nước lấy từ trong lòng đất.
Ảnh : Trọng Thanh

Cưới xin : Trai gái tự do tìm hiểu trước hôn nhân. Tối tối, gái trai chưa vợ chưa chồng thường
đến tụ tập vui chơi ở nhà bạn gái hay trai và ngủ luôn ở gian khách, nơi dành cho những người
chưa vợ chưa chồng. Nếu yêu nhau, người con trai được vào ngủ chung với người yêu của mình.
Sau vài đêm đi lại với nhau, hai bên thật ưng ý, người con gái trở về ngủ ở nhà mình. Đến đêm
người yêu lại tới ngủ cùng. Tiếp đó là các lễ dạm, hỏi, cưới như bình thường. Trong đám cưới có
tục uống rượu, hát đối để được vào nhà đón và đưa cô dâu về nhà trai, tục co kéo cô dâu giữa
nhà trai và nhà gái, tục vẩy nước bẩn và bôi nhọ nồi lên mặt đoàn nhà trai trước khi ra về, tục
lại mặt sau 12 ngày cưới.
Sinh đẻ : Sản phụ đẻ ngồi. Họ không được ngủ trên giường, mà phải ngủ trên đệm rơm. Nhau đẻ
chôn dưới gầm giường hoặc chân cột dưới gầm sàn, phía buồng ngủ. Sau khi đẻ kiêng người lạ vào
nhà 3 ngày với dấu hiệu úp nón trên cọc ở trước cửa hay cọc bôi than đen có cắm lá đùm đúm ở
ngoài cửa. Lễ đặt tên 12 ngày sau khi đẻ do thầy mo thực hiện. Mỗi người được đặt hai tên, một
tên gọi thông thường, một tên khác chỉ dùng để cúng bái tổ tiên hay cúng lúc chết.

143
Ma chay : Thi hài người chết để ở giữa nhà, đầu quay về phía bàn thờ, phía trên căng một chiếc
chài rộng, đỉnh chài móc dưới mái nhà. Nước rửa mặt cho người chết không được đổ đi mà để tự
bốc hơi hết. Cúng cơm có bát cơm cắm đôi đũa, con gà (thui hay nướng, không cắt tiết, không
rửa). Trong những ngày tang gia, con cái trải đệm rơm ngủ hai bên quan tài. Áo quan bằng thân
gỗ, không nắp, đậy bằng dát vầu hoặc đóng bằng ván. Lễ viếng có kèn, trống. Khiêng quan tài ra
đến nghĩa địa mới đào huyệt. Có nơi còn làm nhà mồ cho người chết. Trong đám tang, người Phù
Lá rất quan tâm đến việc giữ gìn hồn vía của những người đi đưa tang để không bị ở lại dưới mộ
hay nghĩa địa.
Thờ cúng : Người Phù Lá thờ riêng tổ tiên nam để phù hộ cho sức khỏe, tổ tiên nữ phù hộ cho
mùa màng. Lễ cơm mới chủ yếu cúng ở nơi thờ tổ tiên nữ do phụ nữ đại diện và nữ giới trong
nhà được ăn cơm trước. Lễ cúng bản thường vào tháng hai hằng năm. Họ thực hiện nhiều
nghi lễ tín ngưỡng nông nghiệp trên nương, ruộng. Chiếc chài mới cũng phải qua lễ cúng mới
được dùng.
Thầy cúng giữ vị trí quan trọng trong xã hội. Thầy cúng thường được dạy theo cách truyền khẩu
vào các dịp tết tháng giêng, tháng bảy.
Lễ tết : Người Phù Lá ăn Tết Nguyên đán, các tết Tháng năm, Tháng bảy, Cơm mới.
Học : Một bộ phận người Phù Lá ở các huyện Mường Khương, Bắc Hà (tỉnh Lào Cai), Xín Mần (tỉnh
Hà Giang) có truyền thống sử dụng chữ Hán và xem tiếng Hán phương Nam như công cụ giao tiếp
hằng ngày.
Văn nghệ : Kho tàng văn học dân gian phong phú, nhiều truyện cổ tích rất gần với mô típ của
người Việt. Người Phù Lá sử dụng kèn, trống. Trai gái thích hát giao duyên. Nhóm Phù Lá Lão còn
biết múa xòe trong âm hưởng của các làn điệu dân ca Thái.
Chơi : Trẻ em thích chơi đu quay, đá cầu, trốn tìm, đánh cỏ gà, chơi cù,... Trong các dịp hội
hè, lễ tết... ngay cả người lớn cũng tham gia vào các trò chơi vui nhộn với phong thái rất
hồn nhiên.

144
Người Pu Péo

Tên tự gọi : Kabeo.


Tên gọi khác : La Quả, Penti Lô Lô.
Dân số : 705 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm Ka Đai (ngữ hệ Thái - Ka Đai). Người Pu Péo nói giỏi tiếng Mông,
Quan hỏa.
Lịch sử : Họ đã từng sinh sống lâu đời ở vùng cực bắc Việt Nam. Các dân tộc láng giềng đều thừa
nhận người Pu Péo là một trong những cư dân khai khẩn ruộng nương đầu tiên ở vùng cực bắc
nước ta.
Hoạt động sản xuất : Người Pu Péo chuyên trồng ngô, đậu trên nương với kĩ thuật cao, như cày
nương, bón phân và trồng xen canh gối vụ. Một số trồng lúa trên ruộng bậc thang. Họ sử dụng
trâu, bò làm sức kéo. Có người làm nghề ngói máng, mộc.
Ăn : Bột ngô đồ và canh là 2 món ăn chính của
người Pu Péo. Họ dùng thìa để húp canh.
Mặc : Váy và áo phụ nữ rất đặc sắc, chỉ sử
dụng kĩ thuật đắp vải màu. áo mặc hai lớp. Áo
ngoài xẻ ngực, không khuy cài, xung quanh
gấu và hò áo được trang trí bằng cách đắp
những miếng vải khác màu xếp thành hình
tam giác, hình vuông hay hình quả trám ; cổ
tay áo viền những khoanh vải khác màu. Áo
ngắn mặc trong, cài khuy bên nách phải cũng
được trang trí bằng vải màu như áo ngoài.
Tóc của phụ nữ vấn trước trán gài lại bằng
chiếc lược gỗ, phủ khăn vuông.

Chiếc váy của phụ nữ Pu Péo đẹp bởi cách trang trí ở
dưới gấu bằng những mép vải màu hình vuông, tam
giác cắt đắp thành dải.
Ảnh : La Công Ý

145
ở : Người Pu Péo định cư ở huyện Đồng
Văn, Yên Minh, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang.
Xưa kia họ ở nhà sàn, nay ở nhà trệt. Nhà
trình tường hay chỉ là ván bưng, lợp ngói
máng hoặc cỏ gianh.
Phương tiện vận chuyển : Phổ biến dùng
gùi đeo lưng.

Cách vấn tóc thành búi ở trán và cài bằng chiếc


lược gỗ là một đặc trưng văn hóa Pu Péo.
Ảnh : La Công Ý

Các quan hệ xã hội : Người Pu Péo tồn tại song song hai loại dòng họ. Một loại gọi theo tên bằng
chữ Hán, đọc theo cách phiên âm của địa phương như Củng, Tráng, Phù... được sử dụng chính thức
trong các giấy tờ. Một loại họ khác cổ hơn, thể hiện mối dây liên lạc máu mủ giữa các thành viên
của dòng họ, mỗi dòng họ như thế thường gồm một cặp như kacung - kacăm, karảm - kachâm,
karu - karựa, kabu - kabởng.
Cưới xin : Cưới xin có nhiều bước. Hôm đón dâu, phù dâu phải cõng cô dâu ra khỏi cổng để theo
đoàn nhà trai về. Trong bữa cơm cúng tổ tiên, thức ăn để trên nong, cả nhà cùng dâu rể phải ăn
bốc. Lễ lại mặt tiến hành nhiều lần, sau ngày cưới 3, 7, 13, 30 ngày.
Sinh đẻ : Quan niệm phổ biến về ảnh hưởng to lớn của bà mụ tới con trẻ từ thai nhi cho đến tuổi
13. Sản phụ đẻ trong căn buồng riêng của mình. Nhau đẻ chôn trong ống tre dưới gầm giường
hoặc bọc vào chiếu cũ để lên cành cây trên rừng. Con trai đặt tên sau 5 ngày, con gái sau 3 ngày.
Trong thời gian chưa đặt tên cho con, bố chỉ được quanh quẩn trong nhà, ra khỏi nhà phải đội
nón. Tên của đứa trẻ được dùng cho đến 13 tuổi, sau đó đặt tên chữ cho con. Tên chữ đặt theo
tiếng Quan hỏa cùng với tên đệm của dòng họ. Mỗi thế hệ có một tên đệm chung, như họ Củng
có 18 tên đệm, họ Tráng 7 tên đệm.
Ma chay : Có lễ làm ma và lễ làm chay hay còn gọi là ma khô. Khi bố mẹ chết, người ta đặt nghiêng
hũ thờ trên bàn thờ để báo hiệu cho tổ tiên biết có người chết và chậm nhất 13 ngày sau khi chôn
phải làm lễ dựng lại hũ thờ này. Trong những ngày còn quàn trong nhà, cơm nước không được

146
nấu ở bếp chính mà kê đá làm bếp ở gian giữa nhà. Mỗi bài cúng của thầy cúng đều có nội dung
riêng liên quan đến nhiều truyền thuyết lịch sử của người Pu Péo, đưa hồn về quê hương cũ. Người
ta cắm Ta leo trước cửa ngăn ma vào nhà sau khi khiêng quan tài ra khỏi cửa và đốt lửa ngoài sân
đun nước rửa chân tay trước khi vào nhà sau lễ đưa đám.
Người Pu Péo tin vào sự tái sinh của người chết. Sau khi chôn người chết, sáng hôm sau gia đình
xem vết chân trên lớp tro rắc trước cửa nhà.
Vài năm sau, gia đình sẽ tổ chức làm chay để cúng đưa hồn người chết về quê cũ. Trong lễ này,
người Pu Péo còn bảo lưu hai phong tục cổ là uống rượu cần và đánh trống đồng.
Thờ cúng : Họ tin mỗi người có 8 hồn, 9 vía. Đêm 30 Tết Nguyên đán, các gia đình đều làm lễ
gọi hồn cho từng thành viên trong nhà. Thờ tổ tiên 3 đời. Trên bàn thờ có những hũ sành nhỏ
tượng trưng cho một đối tượng thờ, ít nhất 3 hũ cho 3 đời. Mỗi khi thành viên nào đó trong
gia đình ốm đau, thầy bói sẽ bói và cho biết cần phải thờ ai để có thêm một hũ thờ nữa đặt lên
bàn thờ.
Lễ tết : Ăn Tết Nguyên đán, đêm 29 gói và nấu bánh chưng đen tiễn năm cũ và đêm 30 gói và nấu
bánh chưng trắng mừng năm mới, cúng tổ tiên. Sáng mồng một Tết, nam nữ đi gánh nước vàng
nước bạc lấy lộc. Trong 3 ngày Tết, sau bữa cơm không được rửa bát, mỗi lần đến bữa chỉ dùng
giấy lau sạch với mong muốn không có mưa quá to làm trôi hết đất màu.
Lịch : Sử dụng lịch 12 con vật, khớp với âm lịch.
Văn nghệ : Hát đám cưới xin dâu giữa nhà trai và nhà gái suốt 3, 4 giờ trở thành một sinh hoạt
văn nghệ rất độc đáo. Đám cưới là dịp để trai gái ca hát, vui chơi.

147
Người Ra-glai

Nhóm địa phương : Rai (ở Hàm Tân - Bình Thuận), Hoang, La Oang (Đức Trọng - Lâm Đồng)...
Dân số : 96.931 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malaiô - Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Đảo). Do có sự tiếp
xúc với các dân tộc khác quanh vùng nên ở người Ra-glai đã xuất hiện hiện tượng song ngữ và đa
ngữ. Tiếng phổ thông hiện giữ một vai trò quan trọng, là ngôn ngữ giao tiếp của người dân nơi
đây với những dân tộc cận cư khác.
Lịch sử : Người Ra-glai đã sinh sống lâu đời ở vùng Nam Trung Bộ.
Hoạt động sản xuất : Nghề làm rẫy luôn chi phối các hoạt động kinh tế khác. Trên rẫy đồng bào
trỉa cả lúa, bắp, đậu, bầu bí và cây ăn trái. Rẫy được phát bằng chà gạc, rựa hoặc rìu. Cư dân sử
dụng đoạn gỗ ngắn, nhọn đầu để trỉa giống, làm cỏ rẫy bằng chiếc cào nhỏ và thu hoạch lúa
bằng tay... Rèn và đan lát là hai nghề thủ công khá phát đạt. Nghề dệt không phát triển... Chăn
nuôi phổ biến với các đàn gia súc, gia cầm gồm trâu, lợn, gà, vịt... Ngày nay cư dân đã biết trồng
cấy lúa nước.
Ăn : Sáng và chiều là hai bữa ăn chính. Cơm trưa thường được mang lên rẫy. Canh nấu lẫn thịt, cá
và các loại rau là món ăn được ưa thích. Đồ uống gồm nước lã đựng trong vỏ bầu khô và rượu cần.
Thuốc lá tự thái, quấn trong vỏ bắp ngô được dùng phổ biến trong các gia đình.
Mặc : Rất khó tìm thấy y phục truyền thống của người
Ra-glai. Ngày nay, đàn ông thì mặc quần âu và áo sơ mi,
đàn bà mặc váy hoặc quần với áo bà ba. Thời xa xưa, đàn
ông nơi đây ở trần, đóng một loại khố đơn giản, không có
hoa văn trang trí. Những ngày lễ hội truyền thống, phụ
nữ mặc áo dài, phía trên được ghép thành những ô vuông
màu đỏ, trắng xen kẽ nhau.

Có nhiều cách chế thóc thành gạo : Xay, cối giã gạo bằng chân, cối
giã gạo bằng sức nước, cối giã gạo bằng chày tay… Người Ra-glai
cũng như các dân tộc Tây Nguyên giã gạo phổ biến bằng chày tay.
Ảnh : Vũ Hồng Thuật

148
ở : Người Ra-glai ở trong vùng núi và thung lũng có độ cao từ 500 - 1000m, tập trung ở các huyện
Ninh Sơn (Ninh Thuận), Bắc Bình (Bình Thuận) và một số nơi thuộc các tỉnh : Phú Yên, Khánh Hòa,
Lâm Đồng. Trước đây, họ ở nhà sàn. Hiện nay, nhà đất đã khá phổ biến. Những căn nhà thường
có dạng hình vuông, chỉ rộng chừng 12 - 14m2. Một vài nhà lớn hơn, có hình chữ nhật. Kĩ thuật
lắp ghép rất đơn sơ, chủ yếu sử dụng chạc cây và dây buộc. Mái lợp bằng tranh hoặc lá mây. Vách
được che bằng phên đan hay sử dụng đất trát.
Phương tiện vận chuyển : Như các dân tộc khác trên Trường Sơn - Tây Nguyên, phương tiện vận
chuyển của người Ra-glai là gùi. Gùi được đan đơn giản, không hoa văn trang trí. Gùi có các kích
cỡ khác nhau, phù hợp với đôi vai của từng người và từng công việc cụ thể.
Quan hệ xã hội : Mỗi làng là nơi sinh sống của nhiều dòng họ. Trong những trường hợp cần thiết
“Hội đồng già làng” hình thành dựa trên sự thừa nhận của mọi thành viên trong làng. Mỗi đơn vị
cư trú đều có một người đứng đầu, là người có công tìm đất lập làng. Khi nhiều làng cùng sinh
tụ trên một vùng rừng núi thì ở đó có một người là chủ núi bên cạnh các chủ làng. Tầng lớp thầy
cúng cũng đã hình thành... Tuy nhiên, mọi quan hệ xã hội của người Ra-glai trước kia và hiện nay
đều chịu sự chi phối của chế độ gia đình mẫu hệ.
Cưới xin : Tình yêu của trai gái trước hôn nhân được người Ra-glai tôn trọng. Việc cưới xin phải
trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục khá phức tạp. Lễ cưới được tiến hành cả ở hai bên gia đình :
nhà gái trước, nhà trai sau. Quan trọng nhất trong lễ cưới là nghi thức trải chiếu cho cô dâu, chú
rể. Cô dâu, chú rể ngồi trên chiếu này để hai ông cậu của hai bên cúng trình với tổ tiên, thần linh
về việc cưới xin. Cũng chính trên chiếc chiếu này, họ ăn chung bữa cơm đầu tiên trước sự chứng
kiến của hai họ. Sau lễ cưới, việc cư trú bên vợ đang còn phổ biến.
Sinh đẻ : Trước và sau sinh nở, phụ nữ Ra-glai kiêng một số thức ăn, không nói tên một vài loài
thú và tránh làm những công việc nặng nhọc. Họ được chồng dựng cho một căn nhà nhỏ ở bìa
rừng để sinh đẻ. Họ đẻ ngồi và tự mình giải quyết các công việc khi sinh. Có nơi, sản phụ được sự
giúp đỡ của một người đàn bà giàu kinh nghiệm. Khi sinh xong, người mẹ bế con về nhà và khoảng
7 ngày sau họ tiếp tục làm các công việc như bình thường. Ngày nay, phụ nữ nơi đây đã đến sinh
đẻ ở trạm xá, với sự giúp đỡ của các nữ hộ sinh.
Ma chay : Người chết được quấn trong vải hoặc quần áo cũ rồi đặt trong quan tài bằng thân cây
rỗng hay quấn bằng vỏ cây là tùy theo mức giàu nghèo của gia đình. Người chết được chôn trên
rẫy hoặc trong rừng, đầu hướng về phía tây. Khi có đủ điều kiện về kinh tế người ta làm lễ bỏ mả,
dựng nhà mồ cho người chết. Quanh nhà mồ được trồng các loại cây như : chuối, mía, dứa và khoai
môn. Trên đỉnh nhà mồ còn chạm khắc hình chiếc thuyền và những chú chim bông lau. Vật dụng
thuộc về người chết được phá hỏng, đặt quanh và trong nhà mồ.
Thờ cúng : Người Ra-glai cho rằng có một thế giới thần linh bao quanh và vượt ra ngoài
hiểu biết của họ. Các vị thần đều có thể bớt gây tai họa hay trợ giúp họ nếu được cúng tế
và thỉnh cầu. Vong linh người chết là lực lượng siêu nhiên gây cho họ nhiều sợ hãi nhất.
Cư dân còn tin vào sự linh hóa của các loại thú vật... Vì vậy, hằng năm thường xuyên diễn
ra các nghi lễ cúng bái với việc hiến tế để mong thần linh giúp đỡ. Việc cúng tế này đã có
sự tham gia của lớp thầy cúng, họ đang dần tách khỏi lao động và coi cúng bái như một
nghề nghiệp chính thức.

149
Lễ tết : Theo chu kì sản xuất, người Ra-glai thường tiến
hành các nghi lễ khi chọn rẫy, phát và đốt rẫy, gieo trỉa
và thu hoạch lúa. Theo chu kì đời người, đó là các lễ tiết
khi sinh nở, lúc ốm đau, rồi cưới xin, ma chay... Những
nghi lễ lớn trong năm thường tập trung vào khoảng
tháng 1 - 2 dương lịch, khi đã thu hoạch rẫy, gồm cả
lễ mừng thu hoạch, cưới xin và lễ bỏ mả. Đây chính là
những ngày tết của cư dân vùng này.
Văn nghệ : Đó là những truyện cổ tích, thần thoại, những
làn điệu dân ca, những câu tục ngữ, ca dao... thể hiện
tâm tư, tình cảm của cư dân. Đó cũng còn là bộ nhạc cụ
khá phong phú của người Ra-glai. Bộ chiêng đồng đầy
đủ với 12 chiếc. Tuy nhiên, có thể sử dụng 4, 6, 7 hay
9 chiếc. Khèn bầu, kèn môi, đàn ống tre khá phổ biến.
Người Ra-glai cũng là cư dân biết sử dụng những thanh
đá kêu, ghép thành bộ thường gọi là đàn đá, đánh thay
chiêng, khá độc đáo và lí thú.

Cồng chiêng là nhạc cụ rất phổ biến ở Trường


Sơn – Tây Nguyên. Nam, nữ, người già, người
trẻ Ra-glai đều say sưa chơi và thưởng thức
tiếng cồng chiêng trong các đêm hội.
Ảnh : Phạm Lợi

Kèn môi là một loại nhạc cụ truyền thống của


người Ra-glai, các bộ phận của kèn được làm
bằng chất liệu khác nhau : nhôm, lá đồng,
tre, dây đàn, sáp ong. Khi thổi, tay phải giữ
bệ kèn, thân kèn cho vào môi ngậm, ngón tay
trỏ của tay trái gẩy vào đầu nốt nhạc.
Ảnh : Vũ Hồng Thuật

150
Người Rơ măm

Tên tự gọi : Rơ Măm.


Dân số : 352 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á), chịu ảnh hưởng
nhiều yếu tố ngôn ngữ của dân tộc Khmer và gần gũi với tiếng nói của một số nhóm trong
dân tộc Xơ-đăng. Người Rơ Măm hiện sử dụng thành thạo tiếng nói của nhiều dân tộc, trong
đó có tiếng phổ thông.
Lịch sử : Những người già làng cho biết, họ là cư dân đã sinh sống ở khu vực này từ xa xưa. Đầu
thế kỉ XX, dân số của tộc này còn khá đông, phân bố trong 12 làng, ở lẫn với người Gia-rai. Hiện
nay, họ chỉ sống tập trung trong một làng ở tỉnh Kon Tum.
Hoạt động sản xuất : Người Rơ Măm sống bằng nghề làm rẫy, trồng lúa nếp là chính, thêm một ít
lúa tẻ, ngô và sắn. Họ sử dụng dao phát, rìu để đốn hạ cây, dùng lửa để đốt dọn rẫy, khi gieo trỉa
dùng hai gậy chọc lỗ và một ống đựng hạt. Đôi bàn tay vẫn là công cụ chính để tuốt lúa. Săn bắt
và hái lượm còn giữ vai trò kinh tế quan trọng. Việc bắt cá dưới suối khá hiệu quả với đôi tay, rổ,
đó và lá độc. Trong số những nghề phụ gia đình, nghề trồng bông, dệt vải được chú ý phát triển
nhất. Trước kia, vải họ dệt ra đủ cung cấp cho nhu cầu mặc của gia đình, ngoài ra, còn là hàng hóa
trao đổi lấy dầu đốt, muối ăn và các công cụ lao
động bằng sắt mà họ không làm ra được.
Ăn : Tập quán ăn bốc còn tồn tại khá phổ biến
vào thời điểm hiện nay. Người dân thích cơm
nếp đốt trong ống tre, nứa ăn với canh và muối
ớt. Họ lấy nước từ các mạch ngầm, đựng trong
những chiếc vỏ bầu khô để uống, không cần đun
sôi. Những ngày lễ tết, hội hè, cư dân uống rượu
cần chế từ các loại gạo, sắn, bắp...

Cho dù những ngôi nhà kiểu cũ không còn nữa, nhưng hằng
năm, các cây nêu ngày lễ đâm trâu, cái nọ tiếp cái kia vẫn
đang và sẽ còn mọc lên với hàng cột vượt lên trên chiều
cao của những mái nhà, những hàng cây. Đó là sự kết hợp
hài hòa giữa truyền thống và hiện đại ở làng Le của người
Rơ Măm hôm nay.
Ảnh : Phạm Lợi

151
Mặc : Trong xã hội truyền thống, đàn ông Rơ Măm mặc khố, phía trước thả tới đầu gối, phía sau
buông đến ống chân. Phụ nữ quấn váy và ở trần, một số mặc áo cộc tay. Váy và khố đều có màu
trắng của vải mộc, không nhuộm. Phụ nữ ưa đeo hoa tai làm bằng ngà voi, nứa hoặc gỗ. Nam nữ
thanh niên đều cà 4 hoặc 6 chiếc răng cửa của hàm trên, khi bước vào tuổi trưởng thành.
ở : Làng truyền thống của người Rơ Măm được dựng theo một trật tự cố định. Nhà ở là loại nhà
sàn dài, cất kế tiếp, xung quanh ngôi nhà chung. Cửa chính của mọi ngôi nhà đều quay nhìn vào
nhà rông. Khoảng cách giữa nhà rông và nhà ở của các gia đình là khu sân chơi. Quanh làng có
hàng rào bảo vệ. Mỗi nóc nhà thường có nhiều bếp. Mỗi cặp vợ chồng ở trong một buồng có vách
ngăn, với một bếp riêng. Gian chính giữa nhà là nơi tiếp khách...
Tại làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, hiện nay mỗi gia đình sống trong một ngôi
nhà cao to, rộng thoáng, vách gỗ, mái ngói, do Nhà nước xây dựng.
Phương tiện vận chuyển : Gùi là phương tiện vận chuyển chính của người Rơ Măm, sử dụng sức
mạnh của đôi vai và lưng. Gùi được đan cải hoa văn bằng nan nhuộm đen. Có loại gùi dành riêng
cho việc vận chuyển công cụ săn bắt, đi rừng, làm rẫy của đàn ông. Có loại gùi lại chỉ sử dụng để
vận chuyển váy, áo, đồ trang sức phụ nữ đem theo khi đi dự lễ tết, hội hè...

Đây là một trong những dụng cụ gắn liền với


cuộc sống hằng ngày của người Rơ Măm.
Ảnh : Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Quan hệ xã hội : Đứng đầu làng là một già làng, người cao tuổi nhất trong làng, do dân tín nhiệm
bầu ra. Làng truyền thống là một công xã láng giềng. Mọi thành viên quan hệ với nhau dựa trên cơ
sở bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Họ không chỉ quan hệ với nhau trong khuôn khổ làng mà
còn quan hệ với làng khác, dân tộc khác qua việc trao đổi hàng hóa và trao đổi hôn nhân. Quan
hệ xã hội ở đây còn lưu giữ khá đậm các tàn dư của thời kì mẫu hệ vào giai đoạn đang chuyển
nhanh sang chế độ phụ hệ.
Cưới xin : Việc cưới xin của người Rơ Măm thường phải qua hai bước chính : ăn hỏi và đám cưới.
Lễ cưới được tổ chức đơn giản, chỉ là bữa ăn uống cộng cảm của dân làng để chứng kiến và chúc
mừng bữa ăn chung đầu tiên của cô dâu, chú rể. Tính chất hôn nhân của họ đang ở giai đoạn tiến
lên chế độ phụ hệ. Sau ngày cưới, đôi vợ chồng trẻ sống bên nhà vợ 4 - 5 năm rồi về ở bên nhà
chồng hoặc cư trú luân phiên cả hai bên. Việc li dị rất ít xảy ra.

152
Sinh đẻ : Trước kia, phụ nữ Rơ Măm sinh đẻ trong ngôi nhà nhỏ ở ngoài rừng. Đứa trẻ ra đời được
cắt rốn bằng nứa hoặc một loại lá cây sắc. Mỗi làng có một hay hai bà đỡ là những người phụ nữ
đã có tuổi, nhiều kinh nghiệm trong việc sinh nở. Phụ nữ phải kiêng một số thức ăn có nhiều mỡ,
từ khi có thai cho đến lúc đứa trẻ tròn 3 năm tuổi. Gần đây họ sinh con tại nhà. Ngày đó, người
lạ không được vào, nếu ai vi phạm sẽ bị giữ lại trong nhà đến hết thời gian kiêng cữ và đứa trẻ sẽ
được đặt tên trùng với tên người khách lạ.
Ma chay : Người Rơ Măm thường dùng trống để báo tin trong nhà có người chết. Xác chết được đặt
ở mặt trước ngôi nhà, đầu hướng vào trong, mặt nhìn nghiêng. Việc chôn cất sẽ được tiến hành
vào một hai hôm sau. Các ngôi mộ xếp theo hàng lối sao cho mặt người chết không nhìn hướng
vào làng. Một số ít ngôi mộ chôn chung, từ 2 đến 3 người, thường là những người thân trong gia
đình. Trong lễ bỏ mả có hai người đeo mặt nạ (một nam, một nữ) đánh trống nhảy múa. Mặt nạ
nam có hai sừng trên đầu, mặt nạ nữ có hai chiếc răng nanh. Kết thúc lễ bỏ mả, hai chiếc mặt nạ
được treo lại trên nhà mồ...

Nét tiêu biểu trong kiến trúc nhà mồ


truyền thống của người Rơ Măm là
hình tượng những cặp ngà voi, được
đẽo gọt công phu, trên đỉnh 4 cây
cột dựng ở các góc nhà mồ.
Ảnh : Phạm Lợi

Thờ cúng : Người Rơ Măm quan niệm "vạn vật hữu linh", cả linh hồn con người sau khi chết cũng
là lực lượng siêu nhiên đầy quyền lực và bí ẩn. Đó là những đối tượng mà họ thờ cúng để cầu mong
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một trong những lực lượng siêu nhiên được người dân thờ cúng nhiều
nhất là Thần Lúa. Họ cúng Thần Lúa vào ngày bắt đầu trỉa giống, khi lúa lên đòng, trước ngày tuốt
lúa... để cầu mong một mùa rẫy bội thu...
Lễ tết : Trong tất cả những nghi lễ được tiến hành theo chu kì sản xuất hay chu kì đời người đều
có hiến tế các con vật như : gà, lợn, hoặc trâu. Ngày lễ lớn nhất thường được tổ chức sau thu
hoạch mùa rẫy. Các gia đình trong làng làm lễ mừng kế tiếp nhau, có thể mỗi ngày một gia đình
hay 4 - 5 ngày một chủ hộ giết lợn, gà, thậm chí tổ chức đâm trâu mời bà con trong làng tới dự.
Sau lễ mừng lúa mới là thời điểm diễn ra hàng loạt đám cưới của nam nữ thanh niên và lễ bỏ mả
cho người đã chết.
Văn nghệ : Những làn điệu dân ca, những bài hát giao duyên của nam nữ thanh niên, những
câu chuyện kể của người già với bộ nhạc cụ gồm chiêng, trống và các loại đàn, sáo... được
làm ra từ nguồn tre, nứa trong rừng là yếu tố chính tạo dựng nên nền văn nghệ dân gian của
cư dân nơi đây.

153
Người Sán Chay

Tên tự gọi : Sán Chay.


Tên gọi khác : Hờn Bán, Chùng, Trại...
Nhóm địa phương : Cao Lan và Sán Chỉ.
Dân số : 147.315 người.
Ngôn ngữ : Tiếng Cao Lan thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai) còn tiếng Sán
Chỉ thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).
Lịch sử : Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm.
Hoạt động sản xuất : Là cư dân
nông nghiệp, làm ruộng nước
thành thạo nhưng nương rẫy vẫn
có vai trò to lớn trong đời sống
kinh tế và phương thức canh tác
theo lối chọc lỗ, tra hạt vẫn tồn
tại đến ngày nay. Đánh cá có vị
trí quan trọng. Với chiếc vợt ôm
và chiếc giỏ có hom, việc đánh
cá đã cung cấp thêm nguồn thực
phẩm giàu đạm, góp phần cải
thiện bữa ăn.

Bộ nữ phục truyền thống của người Sán


Chay bao gồm váy, áo, yếm, thắt lưng và
khăn. Chiếc áo uyên ương mà họ gọi là
pù dăn đinh có trang trí hoa văn ở lưng
áo và hò áo. Loại hoa văn thường thấy là
ngôi sao 8 cánh.
Ảnh : La Công Ý

154
Ăn : Người Sán Chay ăn cơm tẻ là chính. Rượu cũng được dùng nhiều, nhất là trong ngày tết, ngày
lễ. Đàn ông thường hút thuốc lào. Phụ nữ ăn trầu.
Mặc : Phụ nữ mặc váy chàm và áo dài có trang trí hoa văn ở hò áo và lưng áo. Thường ngày, chỉ
dùng một thắt lưng chàm nhưng trong ngày tết, ngày lễ họ dùng 2, 3 chiếc thắt lưng bằng lụa hay
nhiễu với nhiều màu khác nhau.
ở : Người Sán Chay cư trú ở các tỉnh vùng Đông Bắc nước ta, chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, Bắc
Giang, Lạng Sơn, Phú Thọ... Họ sống trên nhà sàn giống nhà của người Tày cùng địa phương.
Phương tiện vận chuyển : Người Sán Chay thường đeo chiếc túi lưới ở sau lưng theo kiểu
đeo ba lô.
Quan hệ xã hội : Trước Cách mạng tháng Tám, ruộng đất dần dần trở thành tư hữu hóa và phân
hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Trong xã hội đã xuất hiện địa chủ và phú nông. Tùy theo từng địa
phương, chính quyền thực dân phong kiến đặt ra một số chức dịch như quản mán, tài chạ, quan
lãnh... Bên cạnh đó có tổ chức tự quản ở các bản do dân bầu ra gọi là khán thủ. Có nhiều dòng họ,
trong đó có những dòng họ lớn, đông dân như Hoàng, Trần, La, Ninh. Các chi họ và nhóm hương
hỏa giữ vị trí quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng.
Cưới xin : Trước khi đón dâu, lễ vật và trang phục của những người đi đón được tập trung lại ở
giữa nhà để quan lang làm phép. Khi xuất phát, quan lang đứng dưới giọt gianh giương ô lên cho
mọi người đi qua. Trên đường về nhà chồng, cô dâu phải đi chân đất. Sau khi cưới, cô dâu vẫn ở

Nhà sàn là ngôi nhà truyền thống của nhiều dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Nhà của người Sán Chay thường
quay lưng lên đồi, phía trước nhìn ra ruộng và xung quanh là vườn cây lâu năm.
Ảnh : La Công Ý

155
nhà bố mẹ đẻ cho đến lúc sắp
đẻ mới về ở nhà chồng. Ông
mối được cô dâu, chú rể quý
trọng, coi như bố mẹ và khi
ông mối chết phải để tang.

Bàn thờ của người Sán Chay khá


đơn sơ, nhiều khi chỉ là một ống
tre để cắm hương. Nhưng hằng năm
đến trước Tết Nguyên đán các bàn
thờ được quét dọn và dán lên một
mảnh giấy đỏ.
Ảnh : La Công Ý

Sinh đẻ : Trong vòng 42 ngày sau khi đẻ cấm người lạ vào nhà. Nếu ai đó lỡ vào mà sau đó trẻ sơ
sinh bị ốm thì phải đem lễ vật đến làm lễ cúng vía. Sau khi đẻ 3 ngày tổ chức lễ ba mai.
Ma chay : Đám ma do thầy tào chủ trì gồm nhiều nghi lễ chịu ảnh hưởng sâu sắc của Đạo giáo và
Phật giáo. Đặc biệt ngôi nhà táng được làm rất công phu và đẹp.
Làm nhà mới : Việc chọn đất, chọn hướng và chọn ngày giờ để làm nhà mới rất được người Sán Chay
coi trọng.
Thờ cúng : Trong nhà người Sán Chay có rất nhiều bàn thờ. Ngoài thờ cúng tổ tiên, họ còn thờ
trời đất, Thổ Công, Bà Mụ, Thần Nông, Thần Chăn nuôi... Phổ biến nhất là thờ Ngọc Hoàng, Phật
Nam Hoa, Táo Quân.
Lễ tết : Họ ăn Tết như người Tày.
Lịch : Người Sán Chay theo âm lịch.
Học : Người Sán Chay sử dụng chữ Hán trong cúng bái và chép bài hát.
Văn nghệ : Ngoài kể chuyện cổ tích, đọc thơ, người Sán Chay còn yêu thích ca hát. Phổ biến hơn
cả là sình ca, lối hát giao duyên nam nữ gồm 2 loại : hát ở bản về ban đêm và hát trên đường đi
hoặc ở chợ. Bên cạnh đó còn có ca đám cưới, hát ru...
Chơi : Đánh cầu lông, đánh quay là những trò chơi phổ biến của người Sán Chay. Trong ngày hội
có nơi còn biểu diễn trò "trồng chuối", "vặn rau cải".

156
Người Sán Dìu

Tên tự gọi : San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân).


Tên gọi khác : Trại, Trại Đất, Mán Quần cộc, Mán Váy xẻ...
Ngôn ngữ : Người Sán Dìu nói thổ ngữ Hán Quảng Đông (ngữ hệ Hán - Tạng).
Dân số : 126.237 người.
Lịch sử : Người Sán Dìu di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay.
Hoạt động sản xuất : Người Sán Dìu có làm ruộng nước nhưng không nhiều, canh tác ruộng khô
là chính. Ngoài các loại cây trồng thường thấy ở nhiều vùng như lúa, ngô, khoai, sắn,... họ còn
trồng nhiều cây có củ.
Từ rất lâu họ đã biết dùng phân bón ruộng. Nhờ đắp thêm mũi phụ, lưỡi cày của họ trở nên bền,
sắc và thích hợp hơn với việc cày ở nơi đất cứng, nhiều sỏi đá.
Ăn : Người Sán Dìu ăn cơm tẻ là
chính, có độn thêm khoai, sắn.
Sau bữa ăn, họ thường húp thêm
bát cháo loãng như người Nùng.

Chiếc váy quấn gồm 2 mảnh cùng gắn


vào một cạp là một nét đặc trưng
văn hóa của người Sán Dìu.
Ảnh : La Công Ý

157
Mặc : Bộ y phục truyền thống của phụ nữ gồm khăn đen, áo dài (đơn hoặc kép), nếu là áo kép
thì bao giờ chiếc bên trong cũng màu trắng còn chiếc bên ngoài màu chàm dài hơn một chút ;
yếm màu đỏ ; thắt lưng màu trắng, hồng hay xanh lơ ; váy là hai mảnh rời cùng chung một cạp,
chỉ dài quá đầu gối có màu chàm ; xà cạp màu trắng. Đồ trang trí gồm vòng cổ, vòng tay, hoa
tai và dây xà tích bằng bạc.
Nam giới ăn mặc như người Việt : búi tóc vấn khăn hoặc đội khăn xếp, áo dài thâm, quần trắng.
ở : Họ sống tập trung ở trung du Bắc Bộ, trong vùng từ tả ngạn sông Hồng đổ về phía đông
vùng Đông Bắc nước ta. Chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Tuyên Quang...
Làng xóm của họ tựa như làng người Việt, có lũy tre bao bọc và giữa các nhà thường có tường
hay hàng rào. Ở nhà đất trình tường hay thưng ván.
Phương tiện vận chuyển  : Ngoài gánh còn sử dụng xe quệt như là một phương tiện vận
chuyển chính. Xe làm bằng tre, gỗ do trâu kéo, dùng để vận chuyển tất cả mọi thứ, từ thóc
lúa, củi đuốc cho đến phân bón. Do không có bánh nên xe quệt có thể sử dụng ở nhiều loại
địa hình khác nhau.
Quan hệ xã hội : Trước Cách mạng tháng Tám, ruộng đất đã tư hữu hóa và xã hội đã có sự phân
hóa giai cấp rõ rệt. Địa chủ và phú nông nắm giữ nhiều ruộng đất và bóc lột các tầng lớp nông dân
lao động dưới hình thức phát canh thu tô, thuê mướn nhân công và cho vay nặng lãi.
Bên cạnh bộ máy chính quyền, ở các làng còn có người đứng đầu làng do dân bầu ra để quản lí công
việc chung.

Bộ đồ nghề của thầy cúng Sán Dìu


gồm có án, lệnh bài, sách cúng,
tù và và thẻ xin âm dương.
Ảnh : La Công Ý

Cưới xin : Nam nữ được tự do yêu đương nhưng họ có thành vợ thành chồng hay không lại tùy
thuộc vào “số mệnh” và sự quyết định của bố mẹ.
Đám cưới gồm nhiều nghi lễ. Đáng chú ý nhất có lễ khai hoa tửu diễn ra tại nhà gái, trước hôm cô
dâu về nhà chồng. Người ta lấy một bình rượu và một cái đĩa, trên đĩa lót hai miếng giấy cắt hoa,
miếng trắng để dưới, miếng đỏ để trên, đặt lên trên đĩa hai quả trứng luộc có xâu chỉ đỏ và buộc
ở mỗi bên trứng hai đồng xu. Sau khi cúng thì bóc trứng lấy lòng đỏ hòa với rượu để mọi người
uống mừng hạnh phúc của cô dâu, chú rể.

158
Ma chay : Khi hạ huyệt, con cái phải từ phía chân quan tài bò một vòng quanh miệng huyệt. Con
trai bò từ trái sang phải còn con gái bò từ phải sang trái, vừa bò vừa xô đất lấp huyệt. Lúc đứng
dậy, mỗi người vốc một nắm đất và chạy thật nhanh về nhà bỏ vào chuồng trâu, chuồng lợn,...
với ý nghĩa cho gia súc sinh sôi, nảy nở. Tiếp đó chạy vào nhà và ngồi xuống thúng thóc với quan
niệm ai dính nhiều thóc là may mắn. Cuối cùng, mỗi người tự xé lấy một miếng thịt gà luộc để ăn,
ai đến trước nhất được mào gà, tiếp theo được đầu, cổ, cánh... Nhà mồ có mái bằng, lợp lá rừng.
Khi cải táng, xương được xếp vào tiểu hoặc chum theo tư thế ngồi và nếu chưa chọn được ngày
tốt thì chôn tạm ở chân đồi hay bờ ruộng.
Nhà mới : Mỗi khi có ai làm nhà thì mọi người trong họ, trong làng tự đến giúp đỡ, chủ nhân
không cần phải mời giúp. Trong lễ lên nhà mới, chủ nhà mời người cao tuổi trong họ đem lửa,
bình vôi, ít hạt giống vào nhà.
Thờ cúng : Trên bàn thờ thường đặt ba bát hương thờ tổ tiên, pháp sư và Táo quân. Nếu chủ nhà
chưa được cấp sắc thì chỉ có hai bát hương. Những người mới chết chưa kịp làm ma cũng đặt bát
hương lên bàn thờ nhưng để thấp hơn. Ngoài ra, người Sán Dìu còn thờ Thổ thần ở miếu, thờ
Thành hoàng ở đình.
Lễ tết : Có những ngày tết như nhiều dân tộc khác ở trong vùng. Riêng tết Đông chí còn mang
thêm ý nghĩa cầu mong có con đàn, cháu đống. Những người đã lấy nhau lâu mà vẫn chưa có con
thì sau khi ăn Tết xong người vợ về nhà bố mẹ đẻ ở. Người chồng cho ông mối đến hỏi và sau đó
tổ chức cưới lại như là cưới vợ mới.
Lịch : Người Sán Dìu theo âm lịch.
Học : Trước kia, thanh niên thường học chữ Hán để làm thầy cúng ; hiện nay, còn rất ít người biết
chữ Hán.
Văn nghệ : Giống như ở nhiều dân tộc khác, người Sán Dìu cũng có hát giao duyên nam nữ mà họ
gọi là soọng cô, thường được hát về đêm. Có những cuộc hát kéo dài suốt nhiều đêm.

159
NGƯỜI SI LA

Tên tự gọi : Cù Dề Sừ.


Tên gọi khác : Kha Pẻ.
Dân số : 840 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến,
gần với Miến hơn.
Lịch sử : Người Si La có nguồn gốc di cư từ Lào sang.
Hoạt động sản xuất : Trước kia chuyên làm nương du
canh, nay sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, ngô trên
ruộng và nương. Hái lượm giữ vị trí quan trọng trong
đời sống.
Ăn : Người Si La quen dùng cả cơm nếp và cơm tẻ với các
loại canh rau rừng là chính. Đạm động vật chủ yếu là sản
phẩm của săn bắn, đánh cá.
Mặc : Phụ nữ mặc váy, hở bụng. Áo cài khuy bên nách
phải, nổi bật là vạt ngực gắn đầy những đồng xu bạc, Người Si La thích dùng loại túi lưới được
đan bằng tơ gai. Quai đeo ở túi, nữ còn can
xu nhôm ; cổ và tay áo được trang trí bằng cách gắn
thêm chỉ màu. Đan túi là công việc của nữ.
lên những đường vải màu khác nhau. Váy màu đen hay
Ảnh : Mai Thanh Sơn
chàm, khi mặc giắt ra phía sau. Khăn đội đầu phân biệt
theo lứa tuổi và tình trạng hôn nhân. Phụ nữ thường
đeo túi đan bằng dây gai.
Tục nhuộm răng phổ biến, nam giới nhuộm đỏ, nữ
nhuộm đen.
ở : Người Si La quần tụ trong vài ba bản ở huyện Mường
Tè, Lai Châu. Ở nhà đất, hai gian và hai chái nhỏ, có hiên
và một cửa ra vào. Bàn thờ ở góc trái trong cùng, trên
có một chén rượu nhỏ và một quả bầu. Bếp chính ở giữa
nhà, kê ba ông đầu rau bằng đá, ông đầu rau quan trọng
nhất, nơi mà tổ tiên thường ở, trông coi bếp lửa, quay
lưng hướng về bàn thờ.

Thiếu nữ Si La khi chưa chồng thì vấn tóc quanh đầu và đội khăn
trắng giản dị. Khi lấy chồng thì búi tóc lên đỉnh đầu và cuốn đội khăn
chàm đen.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

160
Phương tiện vận chuyển : Người Si La phổ biến dùng gùi. Ngoài ra họ còn biết dùng thuyền, mảng
đi lại trên sông.
Quan hệ xã hội : Làng bản Si La xưa kia chịu sự cai quản của hệ thống chức dịch người Thái, chưa
có sự phân hóa giai cấp. Tính cộng đồng trong công xã cao.
Quan hệ dòng họ khá chặt chẽ. Có nhiều tên họ khác nhau nhưng họ Hù và họ Pờ đông hơn cả.
Do quan niệm cùng tên họ là cùng chung tổ tiên xa xưa do điều kiện cư trú xa cách, người ở chi
họ này dễ dàng xin nhập sang chi họ khác, cùng thờ tổ tiên với nhau. Mỗi chi họ đều có người già
nhất, không phân biệt dòng trưởng hay thứ, đứng đầu. Hằng năm vào hai kì, Tết năm mới và Cơm
mới, có lễ cúng tổ tiên chung ở nhà người trưởng họ với các lễ vật rất đặc trưng như thịt sóc, cua,
cá bống, ống rượu cần tượng trưng, vài bông lúa, khoai sọ, bó lá hạt cườm. Trên mâm cúng không
dùng hương mà đốt nến bằng sáp ong. Những đồ thờ gia bảo của dòng họ bày ở bàn thờ là trống,
nhạc ngựa, quả bầu, chén đựng rượu. Khi người trưởng họ mất, chỉ sau ba năm người lên thay mới
được quyền chuyển những đồ thờ này sang bàn thờ nhà mình. Người trưởng họ có vai trò lớn trong
việc điều chỉnh các quan hệ giữa các thành viên trong họ, cưới xin, ma chay, cho người ra khỏi họ
hoặc kết nạp thành viên mới vào họ. Những người cùng họ không được lấy nhau.
Cưới xin : Trai gái yêu nhau được quan hệ với nhau, người con trai được ngủ qua đêm tại nhà người
yêu của mình. Có tục cưới hai lần. Lần đầu đón cô dâu về nhà chồng. Lần thứ hai sau một năm,
nhà trai trao tiền cưới cho nhà gái.
Sinh đẻ : Phụ nữ sinh con ở trong nhà, đẻ ngồi. Nhau đẻ đựng trong ống nứa, phủ một lớp tro
bếp lên trên dựng ở góc bếp cho đến ngày đặt tên cho đứa trẻ. Họ thường mời bà già trong bản
tới đặt tên cho con để mong con sống lâu. Sau khi đặt tên, bà già này bịt ống đựng nhau bằng lá
chuối, nếu con trai buộc 9 lạt, con gái buộc 7 lạt, rồi đem treo hoặc chôn. Lễ cúng hồn cho trẻ sơ
sinh được tiến hành 3 ngày sau khi đặt tên.
Ma chay : Nghĩa địa thường để dưới bản, mộ của những người cùng họ thường ở gần nhau. Kiêng
đặt mộ xa giữa những người khác họ. Chọn được đất ưng ý để đặt mộ thì cuốc một nhát, đặt cục
than vào nhát cuốc đó, coi như đất đã có chủ. Sáng hôm sau mới làm nhà táng và đào huyệt.
Quan tài bằng khúc gỗ bổ đôi khoét rỗng. Cúng đưa hồn người chết về quê hương cũ ở Mồ U. Sau
khi chôn, gia đình tang chủ dội nước tắt bếp, mang hết than củi cũ ra ngoài nhà rồi mới đốt bếp.
Không có tục cải táng và tảo mộ. Để tang bằng cách con trai buộc túm ít tóc trên đỉnh đầu, con
gái tháo vòng tay, vòng cổ.
Thờ cúng : Con cái thờ bố mẹ đã mất. Mỗi bàn thờ phải có chén thờ lấy từ chén cúng cơm bố mẹ
trong ngày làm ma. Nhà có bao nhiêu con trai thì có bấy nhiêu chén và tất cả để lên bàn thờ. Đến
khi chia nhà thì mang chén đó ra lập bàn thờ riêng. Thờ tổ tiên từ đời ông trở lên do người trưởng
họ đảm nhận. Lễ cúng bản là lễ cúng quan trọng nhất cầu mong cả bản không ốm đau, bệnh tật,
lợn gà không bị thú rừng bắt trong năm. Cứ 7 năm lại làm lễ cúng hồn lúa, dùng vợt bắt cá, gạo
đưa đường để đưa hồn lúa từ nương về bản, tới nhà rồi cất kĩ trên bồ thóc.
Học : Trước kia, họ không có chữ viết riêng, kinh nghiệm trao truyền bằng lời hoặc qua thực hành.
Văn nghệ : Người Si La hát giao duyên giữa nam nữ thanh niên, hát sử ca.
Tết lễ : Ăn Tết năm mới vào đầu tháng 12 âm lịch. Ngoài ra họ còn ăn Tết Cơm mới.
Chơi : Các em nhỏ Si La thường chơi các đồ chơi tự chế từ tre gỗ hay đất sét. Đồng thời, chúng
cũng có các trò chơi tập thể rất vui nhộn.

161
NGƯỜI TÀY

Tên gọi khác : Thổ.


Nhóm địa phương : Thổ, Ngạn, Phén,
Thu Lao và Pa Dí.
Dân số : 1.477.514 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn
ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai).
Lịch sử : Người Tày có mặt ở Việt Nam
từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên
niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên.
Hoạt động sản xuất : Người Tày là cư
dân nông nghiệp có truyền thống làm
ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm
canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp
thủy lợi như đào mương, bắc máng,
đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng.
Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng Lạng Sơn nổi tiếng thuốc lá sợi vàng. Thuốc ngon do đất, giống,
trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng sấy và cũng do cách phơi.
Ảnh : Trọng Thanh
rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà.
Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa
khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi
phát triển với nhiều loại gia súc, gia
cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến
nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề
thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng
nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại
hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một
hoạt động kinh tế quan trọng.

Người Tày (Pa Dí) có truyền thống làm các


loại bánh bằng bột. Những ngày tết, phiên
chợ, phụ nữ trong các gia đình thường rất
bận rộn làm bánh.
Ảnh : Trọng Thanh

162
Ăn : Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là
chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và
chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường
làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh
giầy, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán,
bánh trôi, bánh khảo... Đặc biệt có loại bánh
bột hấp nhân bằng trứng kiến và cốm được làm
từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Trang phục của người Tày hầu như không thêu hoa văn.
Riêng áo phụ nữ nhóm Pa Dí có thêu hoa văn ở cổ và hò
áo, ống tay áo được nối bởi những đoạn vải màu. Điểm
nổi bật nhất trong bộ trang phục nữ Pa Dí là chiếc mũ
hình mái nhà.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

Mặc : Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không
có thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên
ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao búi
tóc, quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ
mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).
ở : Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Đông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn,
Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống
thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.
Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7
hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che
bằng liếp nứa.
Phương tiện vận chuyển : Với những thứ nhỏ, gọn, người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc
cho vào túi vải để đeo trên vai ; còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng
vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng bè, mảng để chuyên chở trên sông suối.
Quan hệ xã hội : Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kì
mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.
Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối...
vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt
phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất
sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.

163
Cưới xin : Nam nữ được tự do yêu đương,
tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng
hay không lại tùy thuộc vào bố mẹ hai
bên và “số mệnh” của họ có hợp nhau hay
không. Vì thế, trong quá trình đi tới hôn
nhân, phải có bước nhà trai xin lá số của
cô gái về so với lá số của con mình. Sau
khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến
khi có mang, sắp đến ngày sinh nở mới về
ở hẳn bên nhà chồng.

Lễ lẩu then (lẩuput) là một nghi lễ để thầy cúng


(bà Then) mang lễ vật đi tiến cống Ngọc Hoàng
nhằm xin những điều tốt lành hoặc để cấp sắc
nhằm thăng quan tiến chức cho người làm Then.
Trong ảnh là các bà Then đang hành lễ.
Ảnh : La Công Ý

Sinh đẻ : Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ và đôi khi cả chồng
phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khỏe
mạnh và tránh được những vía độc làm hại.
Sau khi sinh được 3 ngày, cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng, tổ chức lễ ăn mừng
và đặt tên cho trẻ.
Ma chay : Đám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và
đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất ba năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người
chết lên bàn thờ tổ tiên. Hằng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.
Nhà mới : Khi làm nhà phải chọn đất, xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà
mới, chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.
Thờ cúng : Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ Thổ công, Vua Bếp, Bà Mụ.
Lễ tết : Hằng năm có nhiều ngày Tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở
đầu năm mới và rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình
hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và Tết Cơm
mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho cư dân nông nghiệp
trồng lúa nước.

164
Lịch : Người Tày theo âm lịch.
Học : Chữ Nôm Tày, xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ Nôm Việt, ra đời khoảng thế
kỉ XV, được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày - Nùng, dựa trên cơ sở chữ
cái La-tinh, ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa những năm 80, được dùng trong các trường tiểu
học vùng có người Tày, Nùng cư trú.
Văn nghệ : Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong
slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn
slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ
biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng
tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản.
Ngoài múa trong nghi lễ, ở một số địa phương có múa rối với
những con rối bằng gỗ khá độc đáo.
Chơi  : Trong ngày hội lồng tồng, ở nhiều nơi tổ chức ném
còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày
thường, trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Đàn tính là nhạc cụ được sử dụng phổ biến ở người Tày. Bầu đàn làm bằng
vỏ quả bầu khô, cần đàn bằng gỗ, dây đàn bằng tơ. Đàn có thể có 2 hoặc 3
dây. Đàn tính thường dùng để trong nghi lễ, đệm cho hát then. Ngày nay
đàn tính còn dùng biểu diễn trên sân khấu.
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Ảnh : Phạm Ngọc Long

165
Người Tà-Ôi

Tên gọi khác : Tôi Ôi, Pa-cô, Tà Uốt, Kan Tua, Pa Hi, v.v...
Nhóm địa phương : Tà-ôi, Pa-cô, Pa Hi.
Dân số : 34.960 người.
Ngôn ngữ : Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á), ít nhiều gần gũi với tiếng Cơ-tu
và Bru - Vân Kiều. Giữa các nhóm có một số khác biệt nhỏ về từ vựng.
Lịch sử : Người Tà-ôi thuộc lớp cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn.
Hoạt động kinh tế : Làm rẫy, trồng lúa rẫy là nguồn sống chính của người Tà-ôi. Cách thức canh
tác tương tự như ở các tộc Cơ-tu, Bru - Vân Kiều. Ruộng nước đã phát triển ở nhiều nơi.
Săn bắn, đánh cá, hái lượm đem lại nguồn thức ăn đáng kể. Nghề dệt chỉ có ở một số nơi, sản phẩm
được các dân tộc láng giềng ưa chuộng (nhất là y phục có đính hoa văn bằng chì và cườm trắng).
Đồ đan mây tre chủ yếu đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp. Đồ sắt, đồ gốm, đồ đồng chủ yếu do trao
đổi với người Việt và các dân tộc khác ;
quan hệ hàng hóa với bên Lào cũng
khá quan trọng. Ngày nay, người Tà-ôi
đã sử dụng tiền, nhưng tập quán dùng
vật đổi vật vẫn thông dụng.
Ăn : Cơm là lương thực chủ yếu ; ngô,
sắn, khoai, củ mài, v.v... bổ sung khi
thiếu gạo. Thức ăn thông thường là
các loại rau, măng, nấm, ốc, cá, thịt
chim muông. Người Tà-ôi ưa thích
món băm trộn tiết gia súc với thịt
luộc. Thức uống gồm nước lã, rượu,
đặc biệt rượu chế từ nước thứ cây họ
dừa được dùng phổ biến. Họ dùng
tẩu tự tạo bằng gốc le hoặc bằng đất
nung để hút thuốc lá.

Người Tà-ôi ở một số nơi giỏi nghề dệt vải sợi


bông, hoa văn được tạo bằng sợi màu và bằng
chì, cườm trắng. Loại vải có hoa văn chì, cườm
được ưa thích.
Ảnh : Lưu Hùng

166
Mặc : Nữ mặc váy ống loại ngắn và áo, hoặc váy loại dài che luôn cả từ ngực trở xuống (ở nhóm
Tà-ôi phía biên giới thuộc A Lưới), có nơi dùng thắt lưng sợi dệt ; nam quấn khố mặc áo, thường
hay ở trần. Ngoài vải do tự dệt, người Tà-ôi còn dùng vải mua ở Lào và y phục như người Việt đã
thông dụng, nhất là với nam giới. Xưa kia, có những nơi phải dùng đồ mặc chế tác từ vỏ cây. Hình
thức đeo trang sức cổ truyền là các loại vòng tay, vòng chân, vòng cổ, khuyên tai bằng đồng, bạc
hay hạt cườm, mã não, v.v... Phụ nữ đeo cả loại vòng dây đồng quấn thành hình ống ôm quanh
đoạn ống chân và cẳng tay. Tục cà răng, xăm trên da và đeo trang sức làm căng rộng lỗ xâu ở dái
tai chỉ còn số ít ở các cụ già.
ở : Người Tà-ôi cư trú trên một dải từ tây Quảng Trị (huyện Hướng Hóa) đến tây Thừa Thiên - Huế
(huyện A Lưới và Hương Trà). Họ ở quần tụ thành từng làng ; ở nhà sàn dài. Trước kia, nhà sàn
dài có khi trên một trăm mét, là nơi ở của nhiều cặp vợ chồng cùng các con (gọi là các "bếp").
Giữa các "bếp" trong làng thường có quan hệ bà con thân thuộc với nhau. Mái nhà uốn tròn ở 2
đầu hồi, trên đỉnh dốc có khau cút nhô lên. Trong nhà, mỗi “bếp” (gia đình riêng) đều có buồng
sinh hoạt riêng.
Phương tiện vận chuyển : Chủ yếu và thường nhật là đeo gùi sau lưng. Có các loại, các cỡ gùi
khác nhau, đan bằng mây hoặc tre lồ ô. Đàn ông có riêng loại gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") như
gùi của đàn ông Cơ-tu, dùng
khi đi săn, đi rừng, đi sang
làng khác.

Mỗi khi đi chơi xa hay đi dự lễ hội,


phụ nữ Tà-ôi mặc đẹp, đủ cả váy,
áo, thắt lưng và cũng thường đeo
theo chiếc gùi sau lưng.
Ảnh : Lưu Hùng

167
Nhà sàn dài có mái uốn tròn ở đầu
hồi là hình thức cư trú truyền thống
của người Tà-ôi. Nay vẫn thấy ở đó
đây một số ngôi nhà khá dài.
Ảnh : Phạm Lợi

Quan hệ xã hội : Người Tà-ôi sống theo tập tục cổ truyền, trọng người già, tin theo "già làng",
quý trẻ em không phân biệt trai hay gái. Mỗi làng bao gồm người của các dòng họ khác nhau, từng
dòng họ có người đứng đầu, có kiêng cữ riêng và tên gọi riêng. Xã hội đã phân hóa giàu - nghèo
và có sự khác nhau nhất định về vị thế, nhưng nếp cộng đồng dân làng vẫn đậm nét. Làng là đơn
vị tổ chức xã hội cơ bản và tự quản trong xã hội cổ truyền.
Cưới xin : Trai gái lớn lên sau khi đã cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên thì được tìm hiểu nhau và
lấy vợ, lấy chồng. Việc cưới hỏi do nhà trai chủ động. Nhà gái cho con đi làm dâu và được nhận của
cải dẫn cưới gồm cồng, chiêng, ché, nồi đồng, trâu, lợn, v.v... Cùng với đám cưới, cô dâu chú rể
phải làm lễ “đạp bếp” tại nhà bố mẹ cô gái để đánh dấu từ đó cô ta sẽ thực sự là người nhà chồng ;
ít năm sau phải tổ chức lễ tạ ơn “thần linh” đã cho hai người sống yên ổn với nhau. Người Tà-ôi
thích cho con trai cô lấy con gái cậu. Một số người giàu có thể có hơn một vợ.
Sinh đẻ : Phụ nữ phải kiêng khem nhiều trong thời kì có thai và sau khi mới sinh, với ý muốn nhờ
vậy sẽ dễ đẻ, con dễ nuôi, v.v... Việc sinh nở có người giúp đỡ. Con trai hay con gái đều được yêu
quý và tâm lí chung thường muốn có cả hai. Sản phụ lao động cho tới khi ở cữ và cũng chỉ nghỉ
ít ngày sau khi sinh con.
Ma chay : Bãi mộ chung của làng chỉ chôn những người chết bình thường. Quan tài đẽo độc mộc.
Người giàu thì quan tài được làm cầu kì hơn ở 2 đầu. Có tục “chia của” cho người chết như các
dân tộc khác. Việc mai táng sau khi chết là tạm thời. Vài năm sau khi chôn, tang gia tổ chức lễ
cải táng, đưa hài cốt vào quan tài mới và chôn trong bãi mộ, bên cạnh những thân nhân quá cố
từ trước. Khi đó, nhà mồ được trang trí đẹp bằng chạm khắc và vẽ trên gỗ.
Thờ cúng : Người Tà-ôi tin mọi vật đều có siêu linh, từ trời, đất, núi, rừng, suối nước, cây cối cho
đến lúa gạo, con người, con vật đều có “thần” hoặc "hồn". Việc bói toán và cúng lễ là một phần
quan trọng trong đời sống cá nhân cũng như cộng đồng dân làng. Mỗi dòng họ có một bàn thờ ở
nhà trưởng họ, mọi gia đình đều có thể tới đó làm lễ cúng khi ốm yếu, rủi ro, cầu khẩn một điều gì
đó. Nhiều làng còn thờ cúng chung vật “thiêng” là hòn đá, cái vòng đồng, chiếc ché, v.v... Chúng
dị dạng hoặc có xuất xứ khác lạ, được coi là có quan hệ huyền bí đối với cuộc sống của làng.

168
Lễ tết : Có rất nhiều lễ cúng, liên quan đến sức khỏe, tài sản, việc ngăn chặn dịch bệnh, việc làm
rẫy,... Những lễ lớn đều có đâm trâu tế thần và trở thành ngày hội trong làng. Gắn với chu kì canh
tác có những lễ thức quan trọng nhằm cúng cầu Thần Lúa, mong bội thu, no đủ. Tết cổ truyền vào
thời kì nghỉ ngơi sau khi tuốt lúa, trước mùa rẫy mới.
Lịch : Căn cứ vào quy luật tròn - khuyết của Mặt Trăng để xác định ngày trong tháng. Tháng có 30
ngày, năm có 12 tháng và có ngày tốt, ngày xấu cho các công việc khác nhau.
Học : Cách đây mấy chục năm, chữ viết ra đời trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh để tạo ra bộ vần,
lấy tiếng Pa-cô làm chuẩn.
Văn nghệ : Vốn tục ngữ, ca dao, câu đố, truyện cổ khá phong phú. Người già am hiểu thường
kể cho con cháu các truyện đời xưa, có tác dụng vừa giải trí, vừa giáo dục. Dân ca có điệu Calơi
đối đáp khi uống rượu, hội hè ; điệu Ba boih hát một mình khi lao động hoặc đi đường ; điệu
Rơih gửi gắm, dặn dò đối với bậc con cháu nhân các dịp vui vẻ ; điệu Cha châp dành cho tình
cảm trai gái của thanh niên,... Nhạc cụ gồm nhiều loại : cồng, chiêng, tù và sừng trâu hay sừng
dê, khèn 14 ống nứa, sáo 6 lỗ, nhị vừa kéo vừa điều khiển âm thanh bằng miệng, đàn Ta lư,...
Chúng được dùng vào những hoàn cảnh, tình huống khác nhau và theo các tập quán sẵn có của
đồng bào. Ví dụ : Trong đám ma thì gõ một chiêng với một trống ; ở lễ hội vui lại có thêm một
tù và, một khèn bè...

169
NGƯỜI THÁI

Tên tự gọi : Tay hoặc Thay.


Tên gọi khác : Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tay Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.
Nhóm địa phương :
a) Ngành Đen (Tay Đăm).
b) Ngành Trắng (Tay Đón hoặc Khao).
Dân số : 1.328.725 người.
Ngôn ngữ : Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai).
Lịch sử : Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt
ở Việt Nam từ rất sớm, định cư chủ yếu ở các tỉnh từ Tây Bắc đến khu IV cũ (Thanh Hoá, Nghệ An).
Hoạt động sản xuất : Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thủy lợi thích
hợp được đúc kết như một thành ngữ - Mương, phai, lái, lin (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua
chướng ngại vật, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay
chuyển sang hai vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm
và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.
Ăn : Ngày nay, gạo tẻ đã trở thành lương thực chính ; gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền
thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được
món ớt giã hòa muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá
nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước
nhúng lấy từ lòng non - (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối,
thính làm mắm ; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ,
sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc... Họ ưa thức ăn có các vị : cay, chua, đắng, chát, bùi, ít
dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng...
thường uống rượu cần, rượu cất.
Người Thái hút thuốc lào bằng điếu
ống tre, nứa và châm lửa bằng mảnh
đóm tre ngâm khô nỏ. Người Thái
Trắng trước khi hút còn có lệ mời
người xung quanh như trước khi ăn.

Người Thái Đen ở Mường Chanh (Sơn La) có


nghề làm gốm với các sản phẩm quen thuộc
như nồi đất, chõ đất, chum, vò…
Ảnh : Hoàng Bé

170
Cót (xát) rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu (phục tay) và các tấm đệm ngủ lên
trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
Ảnh : Tiến Dũng

Mặc : Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn,


đủ màu sắc, đính hàng khuy bạc hình bướm,
nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực,
bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu
thâm, hình ống ; thắt eo bằng dải lụa màu
xanh lá cây ; đeo dây xà tích bạc ở bên hông.
Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách,
hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy
bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính
vải trang trí ở nách và đối vai ở phía trước như
của Thái Trắng. Nữ Thái Đen đội khăn piêu nổi
tiếng với các hình hoa văn thêu nhiều màu
sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt theo
kiểu chân què có cạp để thắt lưng ; áo cánh
xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt. Áo người
Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái ; cài
Dệt vải là một nghề thủ công truyền thống lâu đời của
khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến
người Thái. Hình ảnh cô gái Thái bên khung cửi là nét đẹp
là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc quen thuộc vẫn thường gặp ở mỗi nhà trong làng bản.
hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, Ảnh : Mai Thanh Sơn

171
bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ
rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.
ở : ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau : nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút ;
nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can ; nhà sàn dài, cao, mỗi gian
hồi làm tiền sảnh ; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.
Phương tiện vận chuyển : Gánh là phổ biến, ngoài ra, gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua
trán, dùng ngựa cưỡi, thồ. Ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng
thuyền đuôi én.
Quan hệ xã hội : Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo.
Tông tộc Thái gọi là Đẳm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu : Ải Noong (tất cả các thành
viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các
thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Cưới xin : Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng
phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản.
- Cưới lên (đong khửn) - đưa
rể đến cư trú nhà vợ - là bước
thử thách phẩm giá, lao động
của chàng rể. Người Thái Đen
có tục búi tóc ngược lên đỉnh
đầu cho người vợ ngay sau lễ
cưới này. Tục ở rể từ 8 đến
12 năm.
- Cưới xuống (đong lông) đưa
gia đình trở về với họ cha.

Đưa tiến bộ kĩ thuật vào cuộc sống


đảm bảo sự phát triển bền vững của
các dân tộc. Nuôi cá lồng trên sông,
suối là một nghề mới mang lại thu
nhập cao.
Ảnh : Tiến Dũng

172
Sinh đẻ : Phụ nữ đẻ theo tư
thế ngồi, nhau bỏ vào ống
tre đem treo trên cành cây ở
rừng. Sản phụ được sưởi lửa,
ăn cơm lam và kiêng khem
một tháng ; ống lam bó đem
treo trên cành cây. Có nghi
thức dạy trẻ lao động theo
giới và mời Lung Ta đến đặt
tên cho cháu.

Cọn nước là cách vận chuyển nước


từ chỗ thấp lên chỗ cao để lấy nước
tưới ruộng. Đó là một phát minh
quan trọng của các cư dân làm
nông nghiệp vùng thung lũng.
Ảnh : Tiến Dũng

Ma chay : Lễ tang có 2 bước cơ bản.


Pông : phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng),
thiêu (Thái Đen).
Xống : đưa đồ tang lễ ra bãi tha ma và kết thúc bằng lễ gọi ma trở về ngụ tại gian thờ cúng tổ
tiên ở trong nhà.
Nhà mới : Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại
nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.
Lễ tết : Cúng tổ tiên ở người Thái Đen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn Tết theo âm
lịch. Bản mường có cúng Thần Đất, Núi, Nước và linh hồn người làm trụ cột.
Lịch : Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Đen chênh với âm lịch 6 tháng.
Học : Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác
phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.

173
Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ đồ xôi (ninh đồng,
chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để thức ăn cần sấy khô. Người Thái thường dùng
ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.
Ảnh : Tiến Dũng

Văn nghệ : Người Thái có các điệu xòe, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên
phong phú.
Chơi : Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa
xòe, chơi quay và quả mák lẹ. Họ có nhiều trò chơi cho trẻ em.

174
Người Thổ

Tên tự gọi : Thổ.


Tên gọi khác : Người Nhà làng, Mường, Con Kha, Xá Lá Vàng.
Nhóm địa phương : Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai, Li Hà, Tày Poọng.
Dân số : 68.394 người.
Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Địa bàn cư trú hiện nay của người Thổ vốn là giao điểm của các luồng di cư xuôi
ngược. Do những biến động lịch sử ở những thế kỉ trước, những nhóm người Mường từ miền
tây Thanh Hóa dịch chuyển vào phía nam gặp gỡ người Việt từ các huyện ven biển Diễn
Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương ngược lên hòa nhập với cư dân địa phương ở đây. Những
người tha hương cùng chung cảnh ngộ ấy ngày một hòa nhập vào nhau thành một cộng
đồng chung - dân tộc Thổ.
Hoạt động sản xuất : Người Thổ sống chủ yếu dựa vào làm nương, rẫy và một số nhỏ làm ruộng
nước. Dù làm ruộng hay làm nương, trình độ canh tác của đồng bào đã phát triển khá cao biểu
hiện ở kĩ thuật làm đất (dùng cày nương “cày nộn” một cách thành thạo), thâm canh cây trồng.
Cây lương thực được trồng chủ yếu là lúa, sau đó đến sắn và ngô. Ở các nhóm Kẹo, Mọn, Cuối, gai
là cây được trồng nhiều và giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của họ. Ở người Thổ, nghề
đánh cá cũng rất phát triển ; săn bắn, hái lượm tuy chỉ phát triển ở một số vùng nhưng nó đã góp
phần đáng kể vào việc giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống của họ.
Ăn : Trước đây, người Thổ ăn gạo nếp là chính, nhưng hiện nay hầu hết đã chuyển sang ăn gạo tẻ.
Những khi giáp hạt, đói kém, họ thường ăn các loại củ, các loại rau và các loại quả hái ở rừng.
Trong các ngày lễ, tết, người Thổ thường làm các loại bánh chưng, bánh giầy, bánh gai.
Mặc : Đàn ông mặc tương tự người Việt với chiếc quần trắng cạp vấn, áo dài lương đen và đầu đội
khăn nhiễu tím. Phụ nữ vùng Lâm La mặc váy vải sợi bông màu đen, có thêu hai đường chỉ màu từ
cạp tới gấu váy. Một số mặc áo 5 thân màu nâu hoặc trắng. Ở vùng Quỳ Hợp, váy phụ nữ thường
được mua hoặc đổi của người Thái. Váy bằng vải sợi bông nhuộm chàm, dệt kẻ sọc ngang, khi mặc
những đường sọc đó tạo thành vòng tròn song song quanh thân. Áo cánh trắng cổ viền, tay hẹp
như áo cánh người Việt. Phụ nữ đều đội khăn vuông trắng giống như người Mường và để tang bằng
khăn dài trắng giống người Việt.
ở : Người Thổ cư trú tập trung ở các huyện miền tây tỉnh Nghệ An. Họ sống thành những làng bản
đông đúc, chủ yếu theo lối mật tập.
Nhà ở truyền thống là loại nhà sàn được che xung quanh bằng liếp nứa hoặc gỗ. Nhưng ở một số
vùng, nhà lại được làm theo kiểu cột ngoãm. Ngày nay, nhà cửa của họ cũng đang trong quá trình
chuyển từ nhà sàn sang nhà đất như kiểu nhà người Việt trong vùng.

175
Phương tiện vận chuyển  : Người
Thổ chủ yếu dùng hai phương thức
vận chuyển : đối với những thứ nhỏ
gọn thì có thể mang, xách hay cho
vào sọt, bồ để gánh ; còn những vật
nặng phải dùng đến sức trâu, bò để
kéo xe (toàn bộ khung và bánh xe
đều được làm bằng gỗ).
Quan hệ xã hội  : Đơn vị hành
chính nhỏ nhất trước kia của người
Thổ là làng với một ông trùm làng
đứng đầu. Trùm làng được bầu lại
hằng năm và có nhiệm vụ đốc thúc
công việc sưu dịch, thuế khóa,
giải quyết các vụ việc xảy ra trong
phạm vi của làng.

Phong tục rất đa dạng, nhiều khi trái ngược


nhau. Ở nhiều dân tộc khác, khăn trắng là
dấu hiệu nhà có tang, nhưng ở người Thổ
và người Mường, khăn trắng được sử dụng
hằng ngày để tôn vẻ đẹp của trang phục.
Ảnh : La Công ý

Gia đình nhỏ phụ quyền là chủ yếu. Mối quan hệ trong gia đình cũng như làng xóm là tình
tương trợ hữu ái.
Tuy sống xen cài giữa nhiều dân tộc, nhưng việc kết hôn giữa người Thổ với các dân tộc
lân cận dường như không đáng kể, quan hệ hôn nhân giữa các nhóm Thổ với nhau không
có sự phân biệt nào.
Cưới xin  : Tục ngủ mái thịnh hành trong các nhóm Thổ vùng Nghĩa Đàn, Tân Kì, Quỳ
Hợp nhưng lại vắng bóng ở các nhóm Thổ vùng Tương Dương, Con Cuông. Từ những đêm
ngủ mái, các đôi nam nữ tìm hiểu nhau dẫn đến xây dựng gia đình. Hôn lễ của người Thổ
phải qua nhiều bước. Thông thường khi cưới, nhà trai phải dẫn một con trâu, 100 đồng bạc
trắng, 30 vuông vải, 6 thúng xôi, một con lợn. Nhiều vùng còn có tục ở rể.
Sinh đẻ : Khi sinh được 3 ngày thì cúng bà mụ để đặt tên cho con và người mẹ phải kiêng
cữ trong vòng một tháng ; trong tháng đó, người lạ không được vào nhà.

176
Ma chay : Tổ chức khá linh
đình và tốn kém. Trước đây,
có nhà đã giết tới 12 con
trâu. Người chết được quàn
trong nhà hằng tuần. Quan
tài của người Thổ là một cây
gỗ nguyên, đục bụng, giống
như cách làm thuyền, làm
máng đập lúa. Khi đặt quan
tài, phía chân xuôi theo
dòng nước chảy. Sau khi
chôn cất, cúng người chết
vào dịp 30 ngày, 50 ngày và
100 ngày.
Những vong hồn không được cúng trong nhà thì được lập miếu cúng ở ngoài
trời. Nơi thờ các cô gái chết trước tuổi thành niên được biểu trưng bằng
những cột gỗ.
Ảnh : La Công Ý

Nhiều dân tộc có tục làm nhà táng


cho người chết ở thế giới bên kia,
hiến nhà táng bằng cách đốt hay
để nguyên. Người Thổ không đốt
nhà mà đặt nhà táng ngay bên
cạnh mộ.
Ảnh : La Công Ý

Lịch : Người Thổ theo âm lịch.


Thờ cúng : Người Thổ thờ rất nhiều loại thần, ma, đặc biệt là các vị thần có liên quan đến
việc đánh giặc và khai khẩn đất đai. Trong phạm vi gia đình, ngoài việc thờ cúng tổ tiên, họ
còn làm lễ cúng bà mụ mỗi khi trẻ em đau ốm và cúng vía cho người lớn vào các dịp lễ, tết,
khi đau ốm.
Học : Người Thổ không có văn tự riêng, chỉ một số người biết chữ Hán. Ngày nay, tiếng Việt
được phổ cập và sử dụng rộng rãi.
Văn nghệ : Vốn văn nghệ dân gian Thổ khá đa dạng ; các bài hát đồng dao vẫn được lưu
truyền ; ca dao, tục ngữ rất phong phú.
Chơi : Trò chơi gồm kéo co, múa sư tử, chơi cờ tướng. Trẻ em thích chơi đá cầu và đánh cù.

177
Người Việt

Tên gọi khác : Kinh.


Dân số : 65.795.718 người, chiếm 86,83% dân số toàn quốc.
Ngôn ngữ : Người Việt có tiếng nói và chữ viết riêng. Tiếng Việt nằm trong nhóm ngôn ngữ
Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Tổ tiên người Việt từ rất xa xưa đã định cư ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trong suốt tiến
trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Việt định cư trên toàn dải lãnh thổ Việt Nam, là trung
tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hoạt động sản xuất : Nông nghiệp lúa nước đã được hình thành và phát triển ở người Việt từ
rất sớm. Trải qua bao đời cày cấy, người Việt đã tổng kết kinh nghiệm làm ruộng thật sâu sắc :
“Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Hệ thống đê điều kì vĩ ngày nay là sự chứng minh hùng
hồn tinh thần ngoan cường chế ngự tự nhiên để sống và sản xuất nông nghiệp của người Việt.
Chăn nuôi lợn, gia súc, gia cầm, thả cá,... cũng rất phát triển. Đặc biệt con trâu trở thành “đầu
cơ nghiệp” của nhà nông. Người Việt nổi tiếng “có hoa tay” về nghề thủ công, phát triển bách
nghệ (trăm nghề) mà nghề nào dường như cũng đạt đến đỉnh cao của sự khéo léo tài hoa. Không
ít làng thủ công đã tách khỏi nông nghiệp. Chợ làng, chợ phiên, chợ huyện,... rất sầm uất. Hiện
nay, các đô thị và các khu công nghiệp đang ngày càng phát triển trong tiến trình công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước.
Ăn : “Cơm tẻ, nước chè” là đồ ăn, thức uống cơ bản hằng ngày của người Việt. Đồ nếp chỉ gặp
trong những ngày lễ tết. Trong bữa ăn thường có món canh rau hay canh cua, cá,... Đặc biệt, người
Việt rất ưa dùng các loại mắm (mắm tôm, cá, tép, cáy...) và các loại dưa (cải, hành, cà, kiệu...).
Tương và các loại gia vị như ớt, tỏi, gừng,... cũng thường thấy trong các bữa ăn. Rượu được dùng
trong các dịp lễ tết, liên hoan... Ăn trầu, hút thuốc lào trước kia chẳng những là nhu cầu, thói
quen mà còn đi vào cả lễ nghi phong tục.
Mặc : Xưa kia, đàn ông thường mặc quần chân què, áo cánh nâu (Bắc Bộ), màu đen (Nam Bộ), đi
chân đất ; ngày lễ tết mặc quần trắng, áo chùng lương đen, đội khăn xếp, đi guốc mộc. Đàn bà
mặc váy đen, yếm, áo cánh nâu, chít khăn mỏ quạ đen (Bắc Bộ). Phụ nữ ngày lễ, hội hè mặc áo
dài. Mùa đông, cả nam và nữ thường mặc thêm áo kép bông. Y phục phân biệt giữa các lứa tuổi
chỉ ở màu sắc và cỡ áo quần ; giữa kẻ giàu, người nghèo, y phục có sự phân biệt ở chất liệu vải
lụa và chỉ có người giàu sang mới dùng đồ trang sức.
Từ đầu thế kỉ XX trở về trước, người ta còn thấy đàn ông thôn quê đóng khố, cởi trần.
ở : Người Việt thường ở nhà trệt. Trong khuôn viên thường được bố trí liên hoàn nhà - sân - vườn - ao.
Ngôi nhà chính thường có kết cấu ba gian hoặc năm gian và gian giữa là gian trang trọng nhất, đặt
bàn thờ gia tiên. Những gian bên là nơi nghỉ ngơi, sinh hoạt của các thành viên trong gia đình ;
gian buồng được bố trí ở chái nhà làm chỗ ở của phụ nữ và cũng là nơi cất trữ lương thực, của cải

178
của gia đình. Nhà bếp thường được làm liền với chuồng nuôi gia súc. Ở nhiều tỉnh Nam Bộ, nhà
bếp thường được làm sát kề hay nối kề với ngôi nhà chính. Sân để phơi và để sinh hoạt gia đình và
cũng để tạo không gian thoáng mát rất phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm.

Giếng làng, một biểu tượng văn hóa truyền thống của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Ảnh : Nguyễn Văn Huy

Làng truyền thống có trật tự, kỉ


cương. Đằng sau lũy tre xanh và
cổng làng là một cộng đồng tương
đối khép kín.
Ảnh : Nguyễn Văn Huy

179
Phương tiện vận chuyển : Phương tiện vận chuyển của người Việt rất phong phú và có thể
phân biệt hai loại như sau :
+ Bằng đường bộ có : gánh (gánh quang, gánh cặp, đòn gánh, đòn sóc, đòn càn,...) vác, khiêng
(đòn khiêng), cáng, đội, đeo (bị, tay nải...), cõng (ba lô, bao tải...). Thồ, chở bằng các loại xe :
xe đạp, xe kéo, xe đẩy, xe ngựa, xe trâu, xe bò,...
+ Bằng đường thủy có : thuyền, bè, mảng, xuồng, tàu,... Mỗi loại này lại có nhiều kiểu dáng, to
nhỏ, vật liệu chế tác và trang thiết bị khác nhau.
Quan hệ xã hội : Đại bộ phận người Việt sinh sống thành từng làng, dăm ba làng họp lại thành
một xã.
Nhiều xã cũng chỉ bao gồm một làng lớn và một số xóm độc lập mới tách ra từ làng lớn. Trong làng
thường có nhiều xóm, có xóm lớn tương đương với một thôn và thôn Bắc Bộ gần tương tự như
một ấp của Nam Bộ. Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi làng có một tổ chức hành chính - tự quản
riêng khá chặt chẽ. Tổ chức Phe Giáp làm nơi quy tụ của dân làng để lo toan nhiều công việc của
làng xã từ quản lí nhân đinh đến việc hiếu, việc tế lễ Thành hoàng. Những làng thủ công còn có tổ
chức phường hội của những người cùng nghề nghiệp. Đặc biệt, trong làng, sự phân chia dân nội
tịch và dân ngoại tịch (ngụ cư) được quy định rõ trong hương, khoán ước của làng. Lệ làng được
quy định một cách tương đối toàn diện và chặt chẽ về các mặt hoạt động của làng buộc mọi người
thừa nhận và tự giác thực hiện.
Gia đình : Gia đình của người Việt hầu hết là những gia đình nhỏ gồm hai thế hệ theo chế độ phụ
quyền nhưng phụ nữ vẫn giữ vai trò quan trọng, thường là người quản lí kinh tế trong gia đình.
Người Việt có rất nhiều dòng họ, có những họ rất phổ biến như Nguyễn, Trần, Lê, Phạm, Vũ, v.v...
dường như ở địa phương nào cũng có. Mỗi tộc họ, thường có nhà thờ tổ riêng, được chia ra làm
nhiều chi phái và mỗi chi phái lại bao gồm nhiều nhánh. Mỗi nhánh lại bao gồm các anh em cùng
bố mẹ, ông bà. Quan hệ họ nội được truyền giữ bền chắc qua nhiều đời. Anh em họ hàng (kể cả
họ nội và họ ngoại, đều yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
Cưới xin : Người Việt rất coi trọng tình yêu trong trắng chung thủy. Dưới thời phong kiến thường
là “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy". Ngày nay, nam nữ tự tìm hiểu. Để đi đến hôn nhân - thành vợ
thành chồng, nghi lễ cưới xin truyền thống ở người Việt phải qua mấy bước cơ bản sau :
- Dạm : nhờ một người làm mối đến nhà gái ướm hỏi trước.
- Hỏi : sắp lễ vật sang thưa chuyện chính thức với gia đình và họ hàng nhà gái.
- Cưới : tổ chức lễ trình tổ tiên, ra mắt họ hàng làng xóm, tổ chức rước dâu về nhà trai.
- Lại mặt : Cô dâu, chú rể về thăm lại nhà bố mẹ đẻ (nhà gái).
Qua các bước này và dĩ nhiên trước đó phải qua đăng kí kết hôn thì đôi trai gái chính thức trở
thành cặp vợ chồng mới.
Ma chay : Việc tổ chức tang ma của người Việt rất trang nghiêm, chu tất và thường được thực
hiện qua các bước cơ bản sau : liệm, nhập quan, đưa đám, hạ huyệt, cúng cơm, cúng tuần "tứ
cửu", cúng "bách nhật", để tang, giỗ đầu, cải táng,... Và cứ mỗi độ Thanh minh, mỗi kì giỗ tết,

180
mỗi gia đình lại đi đắp lại mộ và tổ chức cúng lễ. Cải táng là một phong tục rất thiêng liêng
của người Việt.
Nhà mới : Người Việt có câu : "Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng nam". Nhà hướng nam thì ấm về
mùa đông và mát về mùa hè. Khi làm nhà, ngoài việc chọn hướng còn phải xem tuổi và định ngày
tháng tốt để khởi công xây cất. Khi làm nhà xong thì chọn ngày tốt cúng rước tổ tiên về nhà mới
và ăn mừng nhà mới.
Thờ cúng : Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng quan trọng nhất của người Việt. Bàn thờ được đặt ở nơi
trang trọng nhất trong nhà : được cúng lễ vào các ngày giỗ, tết và các dịp tuần tiết, v.v... trong
năm. Tục thờ Thổ công, Táo quân, Ông địa phổ biến ở các nơi. Rất nhiều gia đình thờ Phật tại gia,
thờ Thần tài, v.v... và hầu hết các làng người Việt đều có đình thờ Thành hoàng, chùa thờ Phật,
nơi thờ Đức Khổng Tử hay đền thờ Phúc Thần, v.v... Một bộ phận cư dân ở nông thôn hay thành
thị còn theo đạo Thiên Chúa. Tin Lành và các tôn giáo khác như Cao Đài, Hòa Hảo, v.v...
Lễ tết : Tết Nguyên đán là cái
tết lớn nhất trong một năm.
Sau tết âm lịch là các hội mùa
xuân. Ngoài ra còn có nhiều
lễ tết truyền thống khác trong
một năm : Rằm tháng giêng,
Tết Thanh minh, lễ Hạ điền, lễ
Thượng điền, Tết Đoan ngọ, Lễ
Vu lan, Tết Trung thu, lễ Cơm
mới,  v.v... Mỗi tết lễ đều có
ý nghĩa riêng và lễ thức tiến
hành cũng khác nhau.

Thờ cúng tổ tiên là một hoạt động


tinh thần quan trọng bậc nhất của
người Việt. Có nhiều cách bố trí của
bàn thờ. Bàn thờ có thể kê trên
giường cao, giường cầu hay bàn.
Trên bàn thờ có khám (ngai, ỷ hay
ảnh), mâm triện (mâm bồng), mâm
đài (đài rượu, đài trầu, kê trên tam
sơn) cùng ngũ sự (đỉnh, hai cây nến,
hai cây đèn), hay tam sự (đỉnh, hai
cây nến), bát hương. Y môn có thể
bằng gỗ hay vải.
Ảnh : Phạm Lan Hương

181
Lịch : Âm lịch từ lâu đã đi vào cuộc sống, vào phong tục tập quán và tín ngưỡng của người Việt.
Người Việt dùng âm lịch để tính tuổi, tính ngày giỗ, tính thời vụ sản xuất, tính ngày tốt xấu để
dùng cho các công việc lớn của cuộc đời như làm nhà, cưới hỏi, cải táng,... Dương lịch là lịch pháp
chính thức hiện nay, ngày càng được dùng rộng rãi trong đời sống.
Học : Người Việt từ lâu đã sử dụng chữ Hán, chữ Nôm và ngày nay là chữ Quốc ngữ. ở kinh thành
Thăng Long xưa, ngay từ thời Lý, đã lập Văn Miếu - Quốc Tử Giám để đào tạo các trí thức bậc cao,
được coi là Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.
Văn nghệ : Văn học dân gian với nhiều thể loại phong phú : truyện cổ tích, ca dao, dân ca, tục
ngữ, v.v... phản ánh mọi mặt cuộc sống của dân tộc. Văn học dân gian góp phần to lớn vào việc
giữ gìn bản lĩnh, bản sắc dân tộc. Văn học viết cũng đã đạt được những thành tựu to lớn ở giai
đoạn Lý - Trần và đặc biệt là từ thế kỉ XV về sau, với các cây bút thiên tài như Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,... Các bộ môn nghệ thuật như mĩ thuật, âm nhạc, sân
khấu,... phát triển cao, được chuyên nghiệp hóa.
Chơi : Người Việt có rất nhiều trò chơi
cho mỗi lứa tuổi, mỗi giới, mỗi mùa,
cho cá nhân và cho tập thể. Có những
trò chơi thể hiện thú thưởng thức rất
thanh cao như thả chim, thả diều, cờ
tướng,... Lại có những trò chơi mang
tính thể thao và cộng đồng mạnh mẽ
như kéo co, đánh đu, đánh vật, đua
thuyền. Rất nhiều trò chơi mang dấu
ấn lịch sử và đậm đà bản sắc như vật,
cù, nấu cơm thi, đánh pháo đất. Trò
chơi trẻ em thì rất nhiều và mỗi địa
phương mỗi sắc thái khác nhau. Lễ hội
mùa xuân là nơi tập trung rất nhiều
trò chơi dân tộc.

Hội làng.
Ảnh : Trọng Thanh

182
Người Xinh-Mun

Tên tự gọi : Xinh-mun.


Tên gọi khác : Puộc, Xá, Pnạ.
Nhóm địa phương : Xinh-mun Dạ, Xinh-mun Nghẹt.
Dân số : 18.018 người.
Ngôn ngữ : Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer (ngữ hệ Nam Á). Người Xinh-mun nói giỏi tiếng Thái.
Lịch sử : Người Xinh-mun đã từng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam.
Hoạt động sản xuất : Họ chuyên trồng lúa trên nương, một số ít làm ruộng lúa nước.
Ăn : Người Xinh-mun ăn cơm nếp, cơm tẻ, thích gia vị cay, uống rượu cần, có tập quán ăn trầu,
nhuộm răng đen.
Mặc : Y phục của họ giống người Thái.
ở : Người Xinh-mun sống ở vùng biên giới Việt Lào thuộc tỉnh Lai Châu và Sơn La. Họ ở nhà sàn.
Nhà có mái vòm hình mai rùa.
Phương tiện vận chuyển : Phổ biến dùng gùi đeo trên trán.
Quan hệ xã hội : Gia đình nhỏ, phụ quyền là chủ yếu, nhưng những đại gia đình gồm ba thế hệ
hay các anh em trai đã có vợ vẫn sống chung trong một nhà còn tồn tại khá đậm nét. Số lượng
thành viên trong nhà khoảng 10 - 15 người, cũng có nhà lên tới 20 - 30 người.
Người Xinh-mun có nhiều họ nhưng phổ biến nhất là hai họ : họ Vì và họ Lò.
Cưới xin : Phổ biến tục ở rể. Trước đây, con trai phải ở rể
khoảng 8 đến 12 năm hoặc ở rể suốt đời nếu bên vợ không có
con trai. Trong lễ cưới đi ở rể, cô dâu, chú rể phải đổi tên của
mình để lấy một tên mới chung cho cả hai người. Tên chung
này do bố mẹ vợ, ông cậu đặt cho, đôi khi lại phải bói xin âm
dương để tìm tên chung. Cô dâu búi tóc ngược lên đỉnh đầu
biểu hiện là người con gái đã có chồng. Ngay trong hôm cưới
đi ở rể, đôi vợ chồng mới cưới trở về nhà trai 2, 3 ngày rồi
mới sang ở hẳn nhà gái cho đến hết thời gian ở rể. Lễ cưới
đưa dâu về nhà trai tổ chức sau khi hết thời gian ở rể, lúc đó
đôi vợ chồng đã có một hoặc vài con. Lễ lại mặt tổ chức sau
đó vài ngày, hay một năm.

Bộ nữ phục Xinh-mun tuy đã chịu ảnh hưởng của y phục Thái, nhưng vẫn giũ
cách vấn khăn riêng của mình.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

183
Cũng giống như nhiều dân tộc khác
nói ngôn ngữ Môn - Khmer và cũng
như người Thái Đen, người Xinh-mun
thường kiến tạo mái hồi nhà theo
kiểu hình khum tròn hình mai rùa.
Ảnh : Mai Thanh Sơn

Sinh đẻ : Phụ nữ có mang vẫn đi nương, đi rừng cho đến tận ngày sinh. Sản phụ đẻ ngồi, cạnh bếp
nấu cơm, ngay trong nhà. Mẹ chồng, chồng hay một bà già láng giềng đỡ đẻ. Cắt rốn bằng cách :
kéo rốn dài đến mắt cá chân đứa trẻ rồi buộc nút lại, từ đó lại kéo dài tiếp một đoạn như thế nữa
rồi mới cắt. Nhau đẻ đựng trong ống tre, treo lên cây cao nơi có ít người qua lại. Trẻ gần một tuổi
mới mời thầy cúng về làm lễ đặt tên.
Nhà mới : Người Xinh-mun có tập quán ai dựng nhà thì cả bản đến giúp nên nhà chỉ làm vài ngày
là xong. Họ thường làm nhà vào dịp sau vụ gặt và chọn đất dựng nhà bằng cách bói xem đất có
hợp với các thành viên trong nhà không. Ngày nước (các ngày 2, 6, 8, 9 trong tháng) thích hợp
với việc làm nhà. Kiêng ngày hỏa tức các ngày 1 và 7. Ông cậu là người dựng cột chính, trên treo
nhiều vật tượng trưng cho sự phồn thực, đầy đủ của gia đình như bông lúa, con dao, cái thớt, các
vật biểu tượng âm, dương vật. Ông cậu cũng là người đốt ngọn lửa đầu tiên trên bếp nấu cơm của
căn nhà mới. Ngọn lửa ấy được giữ không tắt trong suốt đêm đầu tiên.
Ma chay : Tiếng súng trong nhà báo hiệu có người chết, cùng lúc đó người con trai ném ông đầu
rau vào nơi thờ cúng tổ tiên bày tỏ một sự giận dữ truyền thống. Mọi điều kiêng kị hằng ngày của
gia đình cũng như của người con rể nay được hủy bỏ, người ta nấu cơm trên bếp sưởi, đặt tai ninh
theo chiều ngang nhà, con rể lo mọi việc cơm nước. Không dùng quan tài gỗ mà chỉ bó cót. Chọn
đất đào huyệt bằng cách ném trứng trên khu đất định sẵn, trứng vỡ ở đâu thì huyệt được đặt ở
đó. Nhà mồ được làm cẩn thận, có đủ thứ cần thiết tượng trưng cho người chết. Người Xinh-mun
không có tục cải táng và tảo mộ.
Thờ cúng : Thờ cúng tổ tiên hai đời, bố mẹ và ông bà. Biểu trưng cho nơi thờ tổ tiên là một chiếc
xương hàm lợn, ít trầu đựng trên nắp giỏ cơm, ống tre đựng nước. Cúng vào các dịp cơm mới, đám
cưới, nhà mới. Việc thờ cúng tổ tiên, tùy nơi, có thể chỉ do anh cả, cũng có thể do các anh em
trai cùng đảm nhiệm. Bố mẹ vợ được thờ riêng ở một chiếc lán nhỏ, bên cạnh nhà, cơm nước cúng
được nấu ở ngoài nhà. Lễ cúng bản hằng năm rất được coi trọng.
Học : Trước đây, một số người biết sử dụng chữ Thái, nay dùng chữ phổ thông.
Văn nghệ : Người Xinh-mun thích hát và múa vào các dịp tết lễ, ngay trên nhà. Trai gái, nam nữ
hát đối với nhau rất tự nhiên.

184
Người Xơ-đăng

Tên tự gọi : Tùy từng nhóm Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Đrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong,
Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trẽ), Châu.
Tên gọi khác : Xê Đăng (Sê Đăng), Kmrâng, Con Lan, Brila.
Nhóm địa phương : Xơ Teng, Tơ Đrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.
Dân số : 127.148 người.
Ngôn ngữ : Tiếng Xơ-đăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á), ít nhiều gần gũi với
tiếng Hrê, Ba-na, Gié-Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ
cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm.
Lịch sử : Người Xơ-đăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở vùng bắc Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum)
và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Hoạt động kinh tế : Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối
sơ khai : làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm ruộng và dùng cuốc đẽo từ gỗ để cuốc (nay đã
có cuốc lưỡi sắt)... Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác
tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt phá cây bằng rìu và dao quắm hay xà
gạc, đốt bằng lửa ; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt ; làm cỏ
bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên ; thu hoạch
thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ-đăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa,
dứa, chuối, mía,... Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn,
chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ. Nghề dệt vải có ở nhiều
vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Đrá ; họ
biết chế sắt từ quặng để rèn và lò rèn xưa có bễ
kéo bằng da hoẵng. Một số nơi, người Xơ-đăng
đã biết đãi vàng sa khoáng. Đan lát phát triển
tinh xảo, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích
trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền.

Người Xơ-đăng không chỉ đan đồ mây tre rất đẹp, mà còn
tạo ra một số đồ dùng bằng lá, như nón đội đầu chẳng hạn.
Để làm nón, họ lợp lá thành một lớp ken khít nhau và áp
sát vào khung, cốt đan bằng nan tre. Đây là một chiếc nón
kiểu cổ truyền ở dân tộc này.
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Ảnh : Phạm Ngọc Long

185
Ăn  : Người Xơ-đăng ăn cơm
tẻ, cơm nếp với muối ớt và
các thức kiếm được từ rừng ;
khi cúng bái mới có thịt gia
súc, gia cầm. Phổ biến là món
canh nấu rau hoặc măng lẫn
thịt hay cá, ốc và các món
nướng. Họ uống nước lã (nay
nhiều người đã uống nước
đun sôi), rượu cần. Đặc biệt,
họ có loại rượu được chế từ
loại kê chân vịt, ngon hơn
rượu làm từ gạo, sắn.
ở một số nơi, người Xơ-đăng
có tập quán ăn trầu cau.
Nam nữ đều hút thuốc lá ; có
nơi, đồng bào đưa thuốc lá
nghiền thành bột vào miệng
thay vì hút trong tẩu.
Mặc : Nam đóng khố, ở trần.
Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh, họ
dùng tấm vải choàng người.
Trước kia, nhiều nơi người
Xơ-đăng phải dùng y phục
bằng vỏ cây. Ngày nay, đàn
ông thường mặc quần áo như
người Việt, áo nữ cũng là áo
cánh, sơmi, váy bằng vải dệt
công nghiệp. Vải cổ truyền
Xơ-đăng có nền màu trắng
mộc của sợi hoặc màu đen,
Ngôi nhà công cộng (nhà rông) nổi bật trong làng ở nhiều vùng người
hoa văn ít và chủ yếu thường Xơ-đăng. Công trình kiến trúc cao, to và đẹp nhất này dùng để tiếp đón
dùng các màu đen, trắng, đỏ. khách, hội họp, liên hoan ăn uống, tổ chức một số lễ cúng và cũng là chỗ vui
chơi, nghỉ ngơi lúc rỗi rãi của nam giới. Những thanh thiếu niên khi chưa có
vợ ra đây ngủ đêm.
Ảnh : Lưu Hùng

ở : Người Xơ-đăng cư trú ở tỉnh Kon Tum, hai huyện Trà Mi, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam và huyện
Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi ; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn (trước kia
là nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung ; nay là hình thức phổ biến tách hộ riêng). Nhà ở trong
làng được bố trí theo tập quán từng vùng : có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng
lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kĩ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc
dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột.

186
Phương tiện vận chuyển : Gùi được dùng hằng ngày, chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng,
mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau : đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp,
có hoa văn, không có hoa văn,... Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") hoặc gùi
gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ-đăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu
dáng, kĩ thuật đan.
Quan hệ xã hội : Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông "già làng". Lãnh thổ của làng
là sở hữu chung, trên đó, mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành
giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt ; xưa kia, nô lệ mua về và người ở đợ không
bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao.
Cưới xin : Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân
chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Đám cưới có lễ thức cô
dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một nắm cơm,... để tượng
trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân.
Ma chay : Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những
người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn
thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba-na, Gia-rai,... Tục “chia của” cho
người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng,...) phổ biến.
Thờ cúng : Người Xơ-đăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các “thần” hay “ma” được gọi là Kiak (Kia)
hoặc “Ông”, “Bà”, chỉ một số nơi gọi là Yàng. Các thần quan trọng như Thần Sấm Sét, Thần Mặt
Trời, Thần Núi, Thần Lúa, Thần Nước,... Thần Nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con “lươn”
khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần Lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành
cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên,
tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân.
Lễ tết : Quan trọng nhất là lễ cúng Thần Nước vào dịp sửa máng nước hằng năm, các lễ cúng vào
dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kì con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng
khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành,... Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo
đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng Thần
Nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tùy làng, nhưng
thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3 - 4 ngày.
Lịch : Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kì làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ
sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các
thời điểm với tên gọi cụ thể. Lịch có phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ : ngày cuối tháng nếu
trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt...
Văn nghệ  : Người Xơ-đăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloong bút,
trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, dàn ống nứa hoạt động nhờ sức nước,...). Có loại dùng
giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có
sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là : hát đối đáp của trai gái,
hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa  : có điệu
múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ
Xơ-đăng phong phú và đặc sắc.

187
Người Xtiêng

Tên gọi khác : Xa Điêng hay Xa Chiêng.


Nhóm địa phương : Bù Lơ, Bù Đek (Bù Đêh), Bù Biêk.
Dân số : 66.788 người.
Ngôn ngữ : thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ,
Mnông, Chơ-ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh.
Lịch sử : Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng nam Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
Hoạt động sản xuất : Nguồn lương thực chính là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp.
Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn toàn làm rẫy. Nhóm Bù Đeh (Bù Đêh) ở vùng thấp làm ruộng nước
từ khoảng 100 năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác nhau,
được trồng theo lối "phát - đốt - chọc - trỉa", kết quả mùa màng phụ thuộc lớn vào thiên nhiên và
vào việc bảo vệ trước sự phá phách của chim muông. Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà
gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng
gậy nhọn (mỗi tay cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại

Ngôi nhà dài của người Xtiêng hầu như không còn nữa. Trong ảnh là ngôi nhà kiểu dáng cổ truyền còn thấy ở
nhóm Bù Lơ vùng Phước Long, nhà 4 mái, lợp tranh, mái tròn ở 2 hồi, thấp và sà sát gần đất, cửa ra vào mở ở
chính giữa hai đầu hồi.
Ảnh : Phạm Lợi

188
cuốc con (về sau thay thế
bằng cái xà - bát mà người
Việt sử dụng), dùng tay
tuốt lúa. Hái lượm, săn bắn
và kiếm cá đưa lại nguồn lợi
quan trọng thiết thực. Gia
súc phổ biến gồm trâu, bò,
lợn, chó, một số hộ nuôi
voi ; gia cầm chủ yếu là gà.
Nghề thủ công có dệt vải
và đan lát. Việc mua bán
thường dùng vật đổi vật
(nay dùng tiền), có quan
hệ hàng hóa với người Việt,
Khmer, Mnông, Mạ và cả với
bên Campuchia.

Phụ nữ Xtiêng biết dệt vải. Ngày nay, nam nữ Xtiêng thường mặc quần áo là
sản phẩm của dệt công nghiệp. Dù vậy, vẫn thấy những phụ nữ cao tuổi ở trần,
cổ đeo nhiều chuỗi vòng hạt cườm nhiều màu, dái tai căng rộng bởi đôi hoa tai
ngà voi... Họ cũng là lớp người cuối cùng có những chiếc răng cửa hàm trên
bị cắt cụt do tục cà răng...
Ảnh : Phạm Lợi

Ăn : Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm
được trong rừng và sông suối (nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống
có nước lã, rượu cần. Đồ đựng cơm, canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ
hút thuốc lá bằng tẩu (nay ít thấy).
ở : Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh Bình Phước, một số ở Bình Dương, Tây Ninh và Đồng
Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi, cửa mở
hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng
phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn
của từng hộ đang phát triển.
Mặc : Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần ; đàn bà mặc áo hoặc ở trần quấn váy. Trước kia,
phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng
kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm hay bạc, có cả
loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà
voi được ưa chuộng. Ngày nay, nam giới mặc như người Việt ; nữ hay dùng áo cánh, sơ mi. ở vùng
gần người Khmer cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khmer.

189
Phương tiện vận chuyển : Các loại gùi rất thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác.
Ở nhóm gần người Việt và Khmer, có loại xe gỗ hai bánh dùng đôi bò kéo và đã trở thành một
phương tiện vận chuyển phổ biến từ rất lâu đời.
Quan hệ xã hội : Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một “bếp” (nak). Nhiều “bếp” hợp thành một nhà
(yau). Mỗi làng xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi
người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là thành viên của một dòng họ
nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống, làng
là đơn vị bao trùm và nổi bật ; trong tự quản ở làng thì ông “già làng” và các bô lão có uy tín cao
khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp
nghèo, xã hội Xtiêng đã có những “nô lệ gia đình” do phải ở đợ, hoặc bị mua về,...
Cưới xin : Thông thường, nếu nhà trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở nhà chồng. Trong thực tế,
phần đông chú rể phải ở rể do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng
cồng, trâu,...) ; riêng ở vùng Bình Long, tỉnh Bình Phước, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục
hôn nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn : nhóm Bù Đek cho phép
con trai cô với con gái cậu cũng như con trai cậu với con gái cô lấy nhau ; ở nhóm Bù Lơ, chỉ con
trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô và cũng chỉ được chấp nhận một lần
trong mỗi gia đình.
Sinh đẻ : Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kì mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay
sở ngoài rừng một mình. Ngày nay, nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn
ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "Thần
Lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "Thần Lúa".
Ma chay : Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng. Nếu chết bình thường thì họ chôn trong bãi mộ
của làng. Trong quan tài, cùng với tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá,... Những ché, nồi, dụng cụ,...
“chia” cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có tục thăm viếng mồ mả. Có
người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và không vui nhộn trong khoảng 10 ngày. Những
trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm
ngoài khu gia cư của làng và không được chôn vào bãi mộ của làng.
Thờ cúng : Người ta tin con người, con vật, cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như
“hồn”. “Thần linh” cũng có rất nhiều : Thần Sấm Sét, Thần Mặt Trời, Thần Núi, Thần Lúa,... Thần
Lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên
nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà,
lợn, trâu, bò, số lượng càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng
quyền thế, quan trọng.
Lễ tết : Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác nhau trong đời sống người Xtiêng. Trong đó, lễ hội
đâm trâu là lớn nhất, thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi
cỡ to trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát đạt, mừng
con cái lớn khôn,... Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn. Nếu hiến sinh một trâu,
cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu.
Tết Xtiêng được gọi là "lễ cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau, lễ thức
ngày Tết có nội dung tạ ơn Thần Lúa sau một mùa.

190
Văn nghệ : Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong
số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng ; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng,
mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Đek (Bù Đêh) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong
đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại
đàn. Người Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình.
Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ còn rất ít
so với xưa kia.

Khi tổ chức lễ hội có đâm trâu, nếu giết một trâu,


họ chỉ dựng đoạn thân cây gạo làm cột. Nếu đâm
nhiều trâu hơn, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn
giản gọi là gâng srung, những lần sau họ dựng
cột gâng rai và nhiều hoa văn trang trí. Đây là
phần ngọn của cây cột lễ trong dịp đâm trâu loại
gâng rai.
Ảnh : Phạm Lợi

191
192
“Nhờ sức mạnh đoàn kết tranh đấu chung của tất
cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc
lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân
tộc Việt Nam, tất cả đều như anh em trong một
nhà, không còn sự phân chia nòi giống, tiếng nói
gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải
đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần
đoàn kết hơn nữa.”
(Lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại Hội nghị Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam
ngày 3-12-1945, đăng trên báo Cứu quốc, số 108, ngày 4-12-1945)
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Số 35-CT/TW Hà Nội, ngày 08 tháng 5 năm 2009

CHỈ THỊ
CỦA BAN BÍ THƯ
Về lãnh đạo Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam

Bác Hồ lúc sinh thời, Đảng và Nhà nước ta đã tổ chức hai Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số
ở hai miền Bắc và Nam. Nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn của năm 2010, Ban Bí thư quyết định
tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị - xã
hội quan trọng trong đời sống cộng đồng các dân tộc Việt Nam; nhằm tiếp tục tổng kết, đánh
giá công tác dân tộc, khẳng định đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân
tộc và đại đoàn kết dân tộc; khẳng định, tôn vinh và biểu dương công lao đóng góp to lớn của
các dân tộc thiểu số đối với thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam. Đại hội là diễn đàn giao
lưu, trao đổi, tạo sự đồng thuận và niềm tin vững chắc của đồng bào các dân tộc vào sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Đây cũng là nguyện
vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc thiểu số trong cả nước. Đại hội là biểu tượng sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thống nhất ý chí và hành động vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Quá trình tiến hành Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn
quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, đặc biệt đối với vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời là dịp để tiếp tục nâng cao
nhận thức, hành động cách mạng của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong việc
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước, đường lối chiến lược của Đảng
về chính sách dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để tổ chức Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc các 
dân tộc thiểu số Việt Nam đạt kết quả tốt, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng từ Trung
ương đến địa phương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây:
1. Quán triệt sâu rộng về mục đích, ý nghĩa của việc tổ chức Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số
các cấp, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân nhằm phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo khí thế thi đua
sôi nổi trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm
nghèo, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thiết thực
lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và
các sự kiện chính trị, lịch sử lớn của đất nước.
2. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền tới các tầng lớp nhân dân Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7
(khóa IX) về công tác dân tộc. Chú trọng tuyên truyền trong nước và tuyên truyền đối ngoại về
kết quả thực hiện chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

194
Ban tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông và
các cơ quan liên quan có kế hoạch chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và địa
phương tổ chức tuyên truyền về Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp.
3. Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam được tổ chức ở cấp huyện, tỉnh và cấp trung
ương. Việc tổ chức Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp phải trang trọng, thiết thực,
hiệu quả, tiết kiệm.
Thời gian Đại hội Đại biểu ở huyện, tỉnh từ quý III đến quý IV năm 2009; Đại hội Đại biểu
toàn quốc sẽ tiến hành vào tháng 5 - 2010 (vào dịp kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Chủ tịch
Hồ Chí Minh).
Các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương căn cứ tinh
thần Chỉ thị này thành lập Ban Chỉ đạo Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp. Ban Chỉ
đạo Đại hội toàn quốc do một đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban, lãnh đạo
Uỷ ban Dân tộc làm Phó Trưởng ban Thường trực, thành viên gồm các đồng chí lãnh đạo các
bộ, ban, ngành Trung ương có liên quan. Ban Chỉ đạo đại hội cấp tỉnh, cấp huyện do đồng chí
Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm Trưởng ban, thành viên gồm các đồng chí lãnh
đạo các cơ quan liên quan trực thuộc tỉnh, huyện.
4. Đây là Đại hội nhằm tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong
phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội qua các thời kì cách mạng,
đặc biệt là trong thời kì đổi mới. Do vậy, các cấp uỷ đảng cần chỉ đạo việc giới thiệu, chọn cử
đại biểu tham dự đại hội các cấp bảo đảm thực sự tiêu biểu, xuất sắc, đại diện cho các dân tộc
thiểu số, các thành phần, các giới, các thế hệ, lĩnh vực, vùng miền. Việc bình xét khen thưởng
cho các tập thể, cá nhân có thành tích phải có tác dụng động viên, lôi cuốn phong trào, theo
đúng Luật Thi đua – Khen thưởng và các quy định hiện hành.
5. Giao Ban Cán sự đảng Uỷ ban Dân tộc chủ trì xây dựng đề án Đại hội, trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện; chủ trì, phối hợp với Ban Dân vận Trung ương, Ban Tuyên
giáo Trung ương, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan liên quan hướng
dẫn, kiểm tra, đôn đốc cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp triển khai tổ chức Đại hội.
6. Từ năm 2010 trở đi, định kì 10 năm tiến hành tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc
thiểu số Việt Nam một lần.
Chỉ thị này phổ biến đến Chi bộ.

T/M BAN BÍ THƯ


(đã kí)

Trương Tấn Sang

195
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Số: 757/QĐ-TTg Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 08 tháng 6 năm 2009

QUYẾT ĐỊNH
Phê duyệt Đề án Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ


Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 08 tháng 5 năm 2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng;
Xét đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc.

QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam với các nội dung
chủ yếu sau:
1. Mục đích, yêu cầu của Đại hội
a) Mục đích Đại hội nhằm tiếp tục tổng kết, đánh giá công tác dân tộc, khẳng định đường lối
nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc; khẳng định, tôn
vinh và biểu dương công lao đóng góp to lớn của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp bảo vệ
và xây dựng đất nước qua các thời kì;
b) Yêu cầu: Đại hội các cấp tổ chức phải trang trọng, thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, đồng thời
tạo khí thế sôi nổi, phấn khởi, tự hào trong các tầng lớp nhân dân.
2. Nội dung Đại hội: tổng kết, đánh giá phong trào thi đua yêu nước trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong các thời kì cách mạng, đặc
biệt thời kì đổi mới, hội nhập và phát triển; đánh giá tình hình, kết quả thực hiện công tác
dân tộc từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đến nay và định
hướng đến năm 2020.
3. Đại hội được tổ chức ở 3 cấp: huyện, tỉnh và trung ương (Đại hội toàn quốc);
4. Thời gian Đại hội các cấp
a) Đại hội cấp huyện, cấp tỉnh: thời gian 01 ngày, từ quý III đến hết quý IV năm 2009;
b) Đại hội toàn quốc: thời gian 02 ngày, vào trung tuần tháng 5 năm 2010 – dịp Kỉ niệm
120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
5. Kinh phí Đại hội
a) Ngân sách Trung ương bảo đảm chi tổ chức Đại hội toàn quốc và các hoạt động của Đại hội;
b) Ngân sách địa phương bảo đảm chi tổ chức Đại hội cấp tỉnh, huyện và các hoạt động của Đại
hội; đối với các địa phương chưa tự cân đối được thu, chi ngân sách trên địa bàn thì ngân sách
Trung ương hỗ trợ cho ngân sách địa phương để thực hiện.

196
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Thành lập Ban Chỉ đạo Đại hội toàn quốc do một đồng chí Phó Thủ tướng làm Trưởng
ban; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc làm Phó Trưởng ban Thường trực; thành viên
Ban Chỉ đạo gồm các đồng chí lãnh đạo các Bộ, Ban, ngành Trung ương liên quan (Thủ
tướng Chính phủ sẽ có quyết định riêng); Ban Chỉ đạo tổ chức Đại hội cấp tỉnh, huyện do
đồng chí Chủ tịch hoặc một đồng chí Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp làm Trưởng
ban; thành viên gồm lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành, đơn vị cùng cấp có liên quan (Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định).
2. Uỷ ban Dân tộc là cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Đại hội toàn quốc, giúp Ban Chỉ đạo Đại
hội toàn quốc chỉ đạo việc tổ chức Đại hội các cấp; chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ban, ngành, cơ
quan Trung ương liên quan xây dựng và thực hiện kế hoạch tổ chức Đại hội toàn quốc; hướng
dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai tổ chức Đại hội các cấp; theo dõi báo cáo Ban Chỉ đạo,
Ban Tổ chức Đại hội toàn quốc về kết quả Đại hội các cấp và thực hiện các nhiệm vụ do Ban Chỉ
đạo, Ban Tổ chức Đại hội toàn quốc phân công.
3. Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Uỷ ban Dân tộc, Đài Truyền hình Việt
Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các cơ quan thông tin đại chúng tổ chức công tác thông tin, tuyên
truyền trước, trong và sau Đại hội các cấp bảo đảm theo đúng chỉ đạo của Ban Bí thư về tổ chức
Đại hội.
4. Các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung
ương liên quan thực hiện các nhiệm vụ quy định trong Đề án.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày kí ban hành.
Điều 4. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
 
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
(đã kí)

Nguyễn Tấn Dũng

197
BAN CHỈ ĐẠO Đại hội Đại bIỂU CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

­­KẾ HOẠCH
Tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam
(Ban hành kèm theo Quyết định số 05/QĐ-BCĐĐHDTTS
ngày 26 tháng 2 năm 2010 của Ban Chỉ đạo Đại hội Đại biểu
các dân tộc thiểu số Việt Nam)

Kế hoạch tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam nhằm thực hiện
Quyết định 757/QĐ-TTg ngày 08 tháng 6 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
Đề án Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam như sau:

I. Nội dung chủ yếu của Đại hội


1. Nội dung hoạt động diễn ra trước khai mạc Đại hội
a) Tổ chức Hội thảo Quốc gia về cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và chính sách
đại đoàn kết dân tộc;
b) Phát phóng sự truyền hình về các dân tộc thiểu số Việt Nam (20 tập) trên kênh truyền hình
Việt Nam và Website của Uỷ ban Dân tộc;
c) Tổ chức Triển lãm giới thiệu bản sắc văn hoá và thành tựu của các dân tộc thiểu số Việt Nam
tại Triển lãm Vân Hồ;
d) Tổ chức Hội chợ giới thiệu về Văn hóa - Thương mại của các dân tộc thiểu số Việt Nam tại
Trung tâm Hội chợ Quốc gia Giảng Võ;
đ) Tổ chức Festival học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số Việt Nam;
e) Tổ chức Cuộc thi Tìm hiểu về các dân tộc thiểu số Việt Nam;
g) Biên soạn và xuất bản 01 ấn phẩm (ảnh và lời) tổng quan về kinh tế, văn hoá, xã hội các dân
tộc thiểu số Việt Nam;
h) Tổ chức Lễ trao tặng Kỉ niệm chương “Vì sự nghiệp phát triển các dân tộc” nhân dịp
tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam cho các đồng chí Lãnh
đạo Đảng, Nhà nước; nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí thành viên Ban Chỉ
đạo, Ban Tổ chức Đại hội toàn quốc;
i) Tổ chức họp báo thông báo việc tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số
Việt Nam;
k) Tổ chức tiếp đón đại biểu: ngày 09 tháng 5 năm 2010;
l) Tổ chức Lễ dâng hương Đền Hùng: ngày 10 tháng 5 năm 2010;
m) Tổ chức cuộc gặp mặt của đại diện Lãnh đạo Đảng và Nhà nước với đại diện 53 dân tộc là các
đại biểu tiêu biểu, xuất sắc dự Đại hội toàn quốc;

198
n) Tổ chức thăm quan Vịnh Hạ Long (theo đăng kí của các đoàn đại biểu);
o) Tổ chức viếng các Anh hùng liệt sĩ tại Đài tưởng niệm liệt sĩ Thành phố Hà Nội : sáng ngày 11
tháng 5 năm 2010;
p) Tổ chức vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh: sáng ngày 11 tháng 5 năm 2010.
2. Nội dung hoạt động diễn ra trong Đại hội chính thức
a) Báo cáo Chính trị Đại hội: Tổng kết phong trào thi đua yêu nước trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số trên các lĩnh vực của đời sống xã hội qua các thời kì cách mạng, đặc biệt là thời kì đổi
mới và hội nhập; đánh giá kết quả thực hiện công tác dân tộc từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đến nay và định hướng đến năm 2020;
b) Báo cáo điển hình của các tập thể, cá nhân trên các lĩnh vực tại Đại hội;
c) Phát biểu chỉ đạo Đại hội của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước;
d) Tôn vinh, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào yêu nước ;
đ) Tổ chức Dạ hội chào mừng thành công của Đại hội vào đêm giữa hai ngày Đại hội
chính thức;
e) Chiếu phim tài liệu về các dân tộc thiểu số Việt Nam tại Đại hội và Website của Uỷ ban Dân
tộc (thời lượng khoảng 30 phút);
g) Tường thuật trực tiếp Chương trình Đại hội trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt
Nam và Website của Uỷ ban Dân tộc.
3. Nội dung hoạt động sau Đại hội
a) Họp báo Thông báo kết quả Đại hội;
b) Biên tập, hoàn thiện, ban hành Kỉ yếu Đại hội;
c) Tổ chức Hội nghị Tổng kết đánh giá kết quả Đại hội Đại biểu toàn quốc của Ban Chỉ đạo (có
kế hoạch riêng);
d) Quyết toán kinh phí Đại hội.

II. Thời gian, địa điểm tổ chức


Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam
1. Thời gian
a) Đại hội trù bị (có kịch bản riêng): 1/2 ngày (từ 14h ngày 11 tháng 5 năm 2010);
b) Đại hội chính thức (có kịch bản riêng): 2 ngày (ngày 12 và 13 tháng 5 năm 2010).
2. Địa điểm: tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mĩ Đình, Hà Nội.

III. Số lượng, cơ cấu đại biểu


1. Số lượng đại biểu
a) Tổng số đại biểu chính thức: 1.702 đại biểu. Trong đó:
- Đại biểu khối địa phương: 1.252 đại biểu.
- Khối cơ quan Trung ương: 450 đại biểu.

199
b) Đại biểu khách mời (dự kiến khoảng 500 đại biểu)
- Đại biểu khách mời ở các cơ quan Trung ương dự Đại hội: các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà
nước; nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; đại diện Lãnh đạo các cơ quan Trung ương không phải
là đại biểu chính thức của Đại hội;
- Đại biểu khách mời ở địa phương: 01 đồng chí Lãnh đạo chủ chốt của tỉnh (nếu Đoàn đại biểu
của địa phương không có lãnh đạo chủ chốt của tỉnh là đại biểu chính thức dự Đại hội toàn
quốc); Trưởng hoặc Phó Ban Chỉ đạo Đại hội cấp tỉnh (nếu Đoàn đại biểu của địa phương không
có Trưởng và Phó Ban Chỉ đạo Đại hội cấp tỉnh là đại biểu chính thức dự Đại hội toàn quốc); đại
diện Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động
trong thời kì Đổi mới là người dân tộc thiểu số; đại diện các trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân,
doanh nhân tiêu biểu là người dân tộc thiểu số;
- Đại biểu khách mời quốc tế: mời đại diện một số đại sứ quán, cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc
tế tại Hà Nội.
2. Cơ cấu đại biểu chính thức Đại hội: Đại biểu đại diện cho các thành phần dân tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam; các ngành, lĩnh vực; lứa tuổi, giới tính; các tầng lớp nhân dân trong
phạm vi toàn quốc.

IV. Ban Tổ chức và phục vụ Đại hội


Dự kiến khoảng 500 người (gồm thành viên Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức, các Tiểu ban, lễ tân, cán
bộ an ninh, trật tự, bảo vệ, nhân viên phục vụ, lái xe, y tế, phóng viên…).

V. Phân công trách nhiệm


Thực hiện theo Phụ lục Kế hoạch chi tiết tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu
số Việt Nam kèm theo Kế hoạch này.

VI. Kinh phí Đại hội


1. Nguồn ngân sách trung ương đảm bảo, theo kế hoạch được duyệt.
2. Nguồn tài trợ của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân.

VII. Tổ chức thực hiện


1. Giao Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, Trưởng ban tổ chức Đại hội toàn quốc chỉ đạo,
kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị và các Tiểu ban giúp Ban Tổ chức Đại hội thực hiện các
nhiệm vụ được phân công đảm bảo chất lượng và tiến độ theo thời gian quy định; phê duyệt kế
hoạch, chương trình, nội dung hoạt động cụ thể của các cơ quan, đơn vị và các Tiểu ban; chỉ
đạo và thông qua kịch bản tổ chức Đại hội (trù bị và chính thức); đồng thời chủ động báo cáo
xin ý kiến chỉ đạo của Trưởng ban Chỉ đạo khi cần thiết.
2. Uỷ ban Dân tộc chủ trì, phối hợp Ban tổ chức Đại hội toàn quốc, các cơ quan, đơn vị liên quan
xây dựng dự toán kinh phí Đại hội gửi Bộ Tài chính để làm căn cứ bố trí kinh phí theo quy định.
3. Bộ Tài chính bảo đảm đủ kinh phí theo kế hoạch được duyệt, bố trí kinh phí cho các cơ quan,
đơn vị để thực hiện nhiệm vụ; kiểm tra, giám sát để đảm bảo việc sử dụng kinh phí được cấp
của các đơn vị đúng mục tiêu, đối tượng, tiết kiệm, hiệu quả và quyết toán kinh phí sau khi kết
thúc Đại hội.

200
Để đảm bảo việc chuẩn bị các nội dung hoạt động của Đại hội được thực hiện khẩn trương, kịp
thời gian theo kế hoạch đã đề ra, trong thời gian kế hoạch kinh phí chung chưa được phê duyệt,
Bộ Tài chính ứng trước một phần kinh phí để các cơ quan, đơn vị thuộc đối tượng được bảo đảm
kinh phí phục vụ Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc Việt Nam triển khai thực hiện ngay các
nội dung được giao.
4. Các Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và các địa phương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan, đơn vị theo quy định và nhiệm vụ được phân công phối hợp với Uỷ ban Dân tộc và Ban
tổ chức Đại hội toàn quốc thực hiện Kế hoạch này.

TRƯỞNG BAN
(đã kí)

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng

201
Danh sách Ban chỉ đạo Đại hội Đại biỂu
các dân tộc thiểu số Việt Nam
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1004/QĐ-TTg
ngày 14/07/2009 của Thủ tướng Chính phủ)

1. Ông Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ - Trưởng ban;
2. Ông Giàng Seo Phử, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc – Phó Trưởng ban Thường trực;
3. Ông Phạm Văn Phượng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ - Phó Trưởng ban;
4. Bà Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương –
Phó Trưởng ban;
5. Ông Phạm Sỹ Danh, Thứ trưởng Bộ Tài chính – Phó Trưởng ban;
6. Ông Huỳnh Vĩnh Ái, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch – Phó Trưởng ban;
7. Ông Nguyễn Thành Hưng, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông – Phó Trưởng ban;
8. Ông Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an – Phó Trưởng ban;
9. Ông Đào Văn Bình, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội – Phó Trưởng ban;
10. Ông Huỳnh Phước Long, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quốc hội – Phó Trưởng ban;
11. Ông Cao Viết Sinh, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Thành viên;
12. Ông Hứa Đức Nhị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Thành viên;
13. Ông Nguyễn Trọng Đàm, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – Thành viên;
14. Bà Nguyễn Thị Nghĩa, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo – Thành viên;
15. Ông Nguyễn Bá Thuỷ, Thứ trưởng Bộ Y tế -­ Thành viên;
16. Ông Bế Trường Thành, Phó Chủ nhiệm Thường trực Uỷ ban Dân tộc – Thành viên;
17. Ông Bùi Văn Huấn, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam,
Bộ Quốc phòng – Thành viên.
18. Ông Nguyễn Văn Quynh, Phó Trưởng ban Ban tổ chức Trung ương – Thành viên;
19. Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Trưởng ban Ban Dân vận Trung ương – Thành viên;
20. Ông Phạm Văn Linh, Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương – Thành viên;
21. Ông Hoàng Công Hoàn, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng – Thành viên;
22. Ông Đào Ngọc Dung, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Bắc - Thành viên;
23. Ông Trần Việt Hùng, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Tây Nguyên – Thành viên;
24. Ông Sơn Song Sơn, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ - Thành viên;
25. Ông Hà Văn Núi, Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam –
Thành viên;

202
26. Ông Nguyễn Văn Ngàng, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam – Thành viên;
27. Ông Hà Phúc Mịch, Phó Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam –
Thành viên;
28. Bà H’Ngăm Niê Kdăm, Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam – Thành viên;
29. Ông Nguyễn Đắc Vinh, Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh –
Thành viên;
30. Ông Đỗ Công Mùi, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam – Thành viên;
31. Ông Vũ Văn Hiến, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam – Thành viên;
32. Ông Đinh Văn Luyện, Phó Tổng biên tập Báo Nhân dân – Thành viên;
33. Bà Hoàng Minh Nguyệt, Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam – Thành viên;
34. Ông Hà Minh Huệ, Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam – Thành viên.

203
Danh sách Ban Tổ chức Đại hội Đại biỂu
các dân tộc thiểu số Việt Nam
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1173/QĐ-TTg
ngày 10/08/2009 của Thủ tướng Chính phủ)

1. Ông Giàng Seo Phử, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc – Trưởng ban;
2. Ông Bế Trường Thành, Phó Chủ nhiệm Thường trực Uỷ ban Dân tộc – Phó Trưởng ban Thường trực;
3. Ông Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an – Phó Trưởng ban;
4. Bà Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ - Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương –
Phó Trưởng ban;
5. Ông Nguyễn Thành Hưng, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông – Phó Trưởng ban;
6. Ông Phạm Sỹ Danh, Thứ trưởng Bộ Tài chính – Phó Trưởng ban;
7. Ông Huỳnh Vĩnh Ái, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch – Phó Trưởng ban;
8. Ông Phạm Văn Phượng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ - Phó Trưởng ban;
9. Ông Đào Văn Bình, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội – Phó Trưởng ban;
10. Ông Vũ Văn Hiến, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam – Thành viên;
11. Ông Bùi Văn Huấn, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam,
Bộ Quốc phòng – Thành viên;
12. Ông Nguyễn Bá Thuỷ, Thứ trưởng Bộ Y tế - Thành viên;
13. Bà Hoàng Minh Nguyệt, Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam - Thành viên;
14. Ông Hà Minh Huệ, Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam - Thành viên;
15. Ông Hà Hùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
16. Ông Sơn Phước Hoan, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
17. Ông Hoàng Xuân Lương, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
18. Ông Hà Văn Núi, Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Thành viên;
19. Ông Đinh Văn Luyện, Phó Tổng Biên tập Báo Nhân dân - Thành viên.

204
Danh sách thành viên các Tiểu ban
của Đại hội Đại biểu toàn quốc
các dân tộc thiểu số Việt Nam
(Ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-BCĐ ngày 11/8/2009 của Ban Chỉ đạo
Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam)

I. Tiểu ban Tổ chức và Nhân sự


1. Ông Giàng Seo Phử, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Trưởng Tiểu ban;
2. Ông Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an- Phó Trưởng Tiểu ban;
3. Ông Nguyễn Văn Quynh, Phó Trưởng ban Ban tổ chức Trung ương- Phó Trưởng Tiểu ban;
4. Ông Huỳnh Phước Long, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội - Phó Trưởng Tiểu ban;
5. Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Trưởng ban Ban Dân vận Trung ương - Phó Trưởng Tiểu ban;
6. Ông Hà Văn Núi, Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Phó Trưởng
Tiểu ban;
7. Ông Phạm Văn Dương, Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
8. Ông Nguyễn Lâm Thành, Chánh Văn phòng Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
9. Ông Nguyễn Đức Sơn, Q. Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
10. Bà Vy Xuân Hoa, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
11. Ông Phạm Đình Thắng, Vụ trưởng Vụ Dân tộc, Ban Dân vận Trung ương - Thành viên;
12. Ông Trương Quang Cẩn, Q. Vụ trưởng Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội - Thành viên;
13. Ông Lê Thành Can, Phó Vụ trưởng Vụ 4, Ban Tổ chức Trung ương - Thành viên;
14. Ông Nguyễn Công Nguyên, Phó Trưởng ban Ban Dân tộc và Tôn giáo, Uỷ ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Thành viên.

II. Tiểu ban Nội dung và Văn kiện


1. Ông Bế Trường Thành, Phó Chủ nhiệm Thường trực, Uỷ ban Dân tộc - Trưởng Tiểu ban;
2. Ông Phạm Văn Phượng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ - Phó Trưởng Tiểu ban;
3. Ông Đào Văn Bình, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội - Phó Trưởng Tiểu ban;
4. Ông Hoàng Công Hoàn, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng - Phó Trưởng Tiểu ban;
5. Ông Phạm Văn Linh, Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương - Phó Trưởng Tiểu ban;
6. Ông Vũ Văn Huệ, Vụ trưởng Vụ Địa phương, Văn phòng Chính phủ - Thành viên;
7. Ông Hoàng Đức Hậu, Vụ trưởng Vụ Văn hoá Dân tộc, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch –
Thành viên;
8. Ông Hoàng Văn Phấn, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;

205
9. Ông Phan Văn Hùng, Viện trưởng Viện Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
10. Ông Nguyễn Thành Công, Phó Vụ trưởng Vụ Địa phương, Văn phòng Chính phủ - Thành viên;
11. Ông Nguyễn Ngọc Sơn, Phó Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội - Thành viên;
12. Ông Bùi Văn Lịch, Phó Chánh Văn phòng, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
13. Ông Bùi Thế Đức, Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương - Thành viên;
14. Ông Dương Bá Thành, Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Văn phòng Trung ương Đảng - Thành viên.

III. Tiểu ban Tuyên truyền và Khánh tiết


1. Ông Nguyễn Thành Hưng, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông - Trưởng Tiểu ban;
2. Ông Hà Hùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Phó Trưởng Tiểu ban Thường trực;
3. Ông Vũ Văn Hiến, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam - Phó Trưởng Tiểu ban;
4. Ông Huỳnh Vĩnh Ái, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Phó Trưởng Tiểu ban;
5. Ông Đào Văn Bình, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội - Phó Trưởng Tiểu ban;
6. Bà Hoàng Minh Nguyệt, Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam - Phó Trưởng Tiểu ban;
7. Ông Hà Minh Huệ, Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam - Phó Trưởng Tiểu ban;
8. Ông Phạm Văn Linh, Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương - Phó Trưởng Tiểu ban;
9. Ông Đinh Văn Luyện, Phó Tổng Biên tập Báo Nhân dân - Phó Trưởng Tiểu ban;
10. Ông Hoàng Hữu Lượng, Cục trưởng Cục Báo chí Bộ Thông tin và Truyền thông -
Thành viên;
11. Ông Nguyễn Hoài Thu, Trưởng Ban Phát thanh dân tộc, Đài Tiếng nói Việt Nam - Thành viên;
12. Ông Đỗ Quốc Khánh, Phó Trưởng ban Ban truyền hình tiếng dân tộc, Đài Truyền hình
Việt Nam - Thành viên;
13. Ông Trần Quốc Khánh, Phó Tổng Biên tập Tạp chí, Dân tộc và Miền núi, Thông Tấn xã Việt Nam -
Thành viên;
14. Ông Hoàng Xuân Định, Quyền Tổng Biên tập Báo Dân tộc và Phát triển, Uỷ ban Dân tộc -
Thành viên;
15. Ông Nguyễn Văn Thảo, Tổng Biên tập Tạp chí Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
16. Ông Cao Cự Tú, Giám đốc Trung tâm Thông tin, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
17. Ông Nguyễn Ngọc Sơn, Phó Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội -
Thành viên;
18. Ông Nguyễn Trí Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
19. Ông Vũ Bá Cường, Phó Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
20. Ông Bùi Thế Đức, Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương - Thành viên;
21. Ông Lê Quốc Khánh, Vụ trưởng, Trưởng Ban Thư kí - Biên tập, Báo Nhân dân - Thành viên;
22. Ông Vũ Thế Lân, Vụ trưởng, Trưởng ban Chính trị - Xã hội, Báo Nhân dân - Thành viên.

206
IV. Tiểu ban Thi đua - Khen thưởng
1. Bà Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương -
Trưởng Tiểu ban;
2. Ông Sơn Phước Hoan, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Phó trưởng Tiểu ban Thường trực;
3. Ông Phạm Văn Phượng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ - Phó Trưởng Tiểu ban;
4. Ông Nguyễn Văn Quynh, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương - Phó Trưởng Tiểu ban;
5. Ông Vũ Văn Huệ, Vụ trưởng Vụ Địa phương Văn phòng Chính phủ - Thành viên;
6. Ông Trần Huy Luật, Vụ trưởng Vụ II, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương - Thành viên;
7. Ông Triệu Hồng Sơn, Chánh Văn phòng Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
8. Ông Trần Văn Thuật, Vụ trưởng Vụ Chính sách Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
9. Bà Nguyễn Thị Tư, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
10. Bà Bùi Thị Hồng Thi, Phó Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
11. Ông Nguyễn Công Diễn, Chuyên viên chính Vụ Chính sách cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương -
Thành viên.

V. Tiểu ban Hậu cần và Lễ tân


1. Ông Hoàng Xuân Lương, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Trưởng Tiểu ban;
2. Ông Phạm Sỹ Danh, Thứ trưởng Bộ Tài chính - Phó Trưởng Tiểu ban;
3. Ông Nguyễn Bá Thuỷ, Thứ trưởng Bộ Y tế - Phó Trưởng Tiểu ban;
4. Ông Cao Viết Sinh, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Phó Trưởng Tiểu ban;
5. Ông Lý Ngọc Kính, Cục trưởng Cục khám chữa bệnh, Bộ Y tế - Thành viên;
6. Ông Huỳnh Quang Hải, Vụ trưởng Vụ Ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính - Thành viên;
7. Ông Nguyễn Việt Hồng, Vụ trưởng Vụ Hành chính sự nghiệp, Bộ Tài chính - Thành viên
8. Ông Lê Kim Khôi, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
9. Ông Triệu Hồng Sơn, Chánh Văn phòng Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
10. Ông Trịnh Công Khanh, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
11. Ông Nguyễn Lâm Thành, Vụ trưởng Vụ Địa phương I, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
12. Ông Nguyễn Xuân Thành, Quyền Cục trưởng Cục Quản trị Văn phòng Chính phủ -
Thành viên;
13. Ông Vũ Viết Hảo, Giám đốc Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Văn phòng Chính phủ -
Thành viên;
14. Ông Trịnh Xuân Thành, Giám đốc Nhà khách Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
15. Bà Lương Thu Châu, Phó Chánh Văn phòng Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
16. Ông Đặng Hà Lự, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên.

207
VI. Tiểu ban Văn nghệ và Dạ hội
1. Ông Huỳnh Vĩnh Ái, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Trưởng Tiểu ban;
2. Ông Hà Hùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Phó Trưởng Tiểu ban Thường trực;
3. Ông Vũ Văn Hiến, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam - Phó trưởng Tiểu ban;
4. Bà Nguyễn Thị Nghĩa, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo - Phó Trưởng Tiểu ban;
5. Ông Đào Văn Bình, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội - Phó Trưởng
Tiểu ban;
6. Bà Hoàng Minh Nguyệt, Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam - Phó Trưởng Tiểu ban;
7. Bà H’Ngăm Niê Kdăm, Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam - Phó Trưởng Tiểu ban;
8. Ông Nguyễn Đắc Vinh, Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh -
Phó Trưởng Tiểu ban;
9. Ông Huỳnh Quang Hải, Vụ trưởng Vụ Ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính - Thành viên;
10. Ông Lưu Vũ Hải, Cục trưởng Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử Bộ Thông tin
Truyền thông - Thành viên;
11. Ông Hoàng Đức Hậu, Vụ trưởng Vụ Văn hoá Dân tộc, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch -
Thành viên;
12. Ông Nguyễn Xuân Thành, Quyền Cục trưởng Cục Quản trị, Văn phòng Chính phủ -
Thành viên;
13. Bà Hoàng Thị Phương Hoa, Vụ trưởng Vụ Pháp chế Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
14. Ông Nguyễn Đình Mạnh, Phó Vụ trưởng Vụ công tác học sinh, sinh viên, Bộ Giáo dục và
Đào tạo - Thành viên;
15. Ông Nguyễn Đăng Chương, Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật - Biểu diễn, Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch - Thành viên;
16. Ông Quàng Văn Tịch, Hiệu trưởng Trường Cán bộ Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
17. Ông Hoàng Sơn, Giám đốc Nhà hát Đài tiếng nói Việt Nam - Thành viên;
18. Bà Lê Huyền Thanh, Phó Trưởng ban Văn nghệ, Đài Truyền hình Việt Nam - Thành viên;
19. Ông Nguyễn Ngọc Sơn, Phó Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội -
Thành viên;
20. Ông Chu Tuấn Thanh, Phó Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
21. Ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Uỷ ban Dân tộc -
Thành viên;
22. Ông Nguyễn Phước Lộc, Trưởng ban Đoàn kết tập hợp thanh niên, Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh - Thành viên;
23. Bà Mai Hoa, Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam -
Thành viên.

208
VII. Tiểu ban An ninh – Bảo vệ
1. Ông Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an - Trưởng Tiểu ban;
2. Ông Nông Văn Lưu, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an - Phó Trưởng Tiểu
ban Thường trực;
3. Ông Bùi Văn Huấn, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam,
Bộ Quốc phòng - Phó Trưởng Tiểu ban;
4. Ông Phạm Bình Minh, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao - Phó Trưởng Tiểu ban;
5. Ông Lê Duy Tiến, Cục trưởng Cục Bảo vệ an ninh, Bộ Quốc phòng - Thành viên;
6. Ông Lê Đình Luyện, Cục trưởng A41, Tổng cục An ninh, Bộ Công an - Thành viên;
7. Ông Hoàng Thọ Diên, Phó Cục trưởng Cục Dân vận đặc biệt, Bộ Quốc phòng - Thành viên;
8. Ông Lý Ngọc Kính, Cục trưởng Cục Khám chữa bệnh, Bộ Y tế - Thành viên;
9. Ông Nguyễn Hữu Giảng, Chánh Thanh tra Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
10. Ông Trần Huy Thiệp, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên;
11. Ông Nguyễn Quang Đức, Phó Vụ trưởng Vụ Địa phương I, Uỷ ban Dân tộc - Thành viên.

209
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU CÁC Dân tộc thiểu số
TẠI CÁC ĐỊA PH­ƯƠNG

Tỉnh/ thành phố, Số đại biểu Số đại biểu


Ngày tổ chức
TT huyện, thị dự Đại hội dự Đại hội
Đại hội
tổ chức Đại hội cấp huyện cấp tỉnh
Tổng số 51.117 14.696

TỈNH, THÀNH PHỐ TỔ CHỨC ĐẠI HỘI HAI CẤP


I
(45 tỉnh, thành phố) 
1 An Giang 16/12/2009 300 150
  1. Tịnh Biên 20/11/2009 100  
  2. Tri Tôn 18/11/2009 100  
  3. An Phú 16/11/2009 100  
2 Bà Rịa - Vũng Tàu 18/12/2009 613 258
  1. Tân Thành 14/10/2009 145  
  2. Xuyên Mộc 9/10/2009 166  
  3. Châu Đức 14/10/2009 145  
  4. TP. Vũng Tàu 15/10/2009 157  
3 Bắc Kạn 4/12/2009 939 291
  1. Na Rì 30/10/2009 150  
  2. Chợ Mới 26/10/2009 110  
  3. Ba Bể 30/10/2009 135  
  4. Pác Nặm 29/10/2009 150  
  5. Ngân Sơn 28/10/2009 120  
  6. Chợ Đồn 28/10/2009 142  
  7. Bạch Thông 20/10/2009 132  
4 Bắc Giang 19/10/2009 469 199
  1. Sơn Động 25/9/2009 120  
  2. Lục Ngạn 15/9/2009 151  
  3. Lục Nam 28/9/2009 93  
  4. Yên Thế 24/9/2009 105  
5 Bạc Liêu 25/11/2009 450 250
  1. Hồng Dân 30/10/2009 150  
  2. Vĩnh Lợi 5/11/2009 150  
  3. Hòa Bình 10/11/2009 150  

210
6 Bình Định 25/12/2009 450 250
  1. An Lão 12/11/2009 150  
  2. Vĩnh Thạnh 18/11/2009 150  
  3. Vân Canh 27/11/2009 150  
7 Bình Phư­ớc 24/12/2009 1110 251
  1. Phước Long 30/9/2009 200  
  2. Bình Long 30/9/2009 160  
  3. Lộc Ninh 16/10/2009 150  
  4. Bù Đăng 15/10/2009 200  
  5. Đồng Phú 2/10/2009 200  
  6. Chơn Thành 24/10/2009 100  
  7. Bù Đốp 15/10/2009 100  
8 Bình Thuận 18/12/2009 800 297
  1. Tuy Phong 13/11/2009 200  
  2. Bắc Bình 5/11/2009 200  
  3. Hàm Thuận Bắc 17/11/2009 200  
  4. Tánh Linh 3/11/2009 200  
9 Cà Mau 16/12/2009 750 256
  1. Thới Bình 28/11/2009 150  
  2. Trần Văn Thời 24/11/2009 150  
  3. U Minh 30/11/2009 150  
  4. Đầm Dơi 30/11/2009 150  
  5. TP. Cà Mau 10/11/2009 150  
10 Cao Bằng 3/12/2009 1828 255
  1. Hà Quảng 13/11/2009 150
  2. Nguyên Bình 10/11/2009 150  
  3. Bảo Lâm 27/10/2009 172  
  4. Trùng Khánh 26/10/2009 150  
  5. Trà Lĩnh 30/10/2009 146  
  6. Quảng Uyên 29/10/2009 150  
  7. Hạ Lang 30/10/2009 150  
  8. Bảo Lạc 26/10/2009 180  
  9. Thông Nông 28/10/2009 150  
  10. Phục Hòa 30/10/2009 150  
  11. Thạch An 28/10/2009 130  
  12. Hòa An 25/10/2009 150  

211
11 Cần Thơ 22/01/2010 750 351
  1. Cờ Đỏ 30/12/2009 250  
  2. Q. Ninh Kiều 29/12/2009 250  
  3. Q. Ô Môn 26/12/2009 250  
12 Điện Biên 18/11/2009 1444 322
  1. Điện Biên 16/10/2009 200  
  2. Điện Biên Đông 20/10/2009 100  
  3. Mường Chà 28/10/2009 167  
  4. Mường Nhé 5/11/2009 150  
  5. Tuần Giáo 6/11/2009 200  
  6. Tủa Chùa 20/10/2009 186  
  7. Mường Ảng 5/11/2009 200  
  8. TX. Mường Lay 20/10/2009 91  
  9. TP. Điện Biên Phủ 20/10/2009 150  
13 Đắk Lắk 6/1/2010 3222 353
  1. Krông Ana 30/10/2009 201  
  2. Cư Kuin 30/10/2009 200  
  3. Krông Pắk 28/10/2009 212  
  4. Krông Bông 4/11/2009 178  
  5. Krông Năng 18/11/2009 180  
  6. Krông Buk 10/11/2009 116  
  7. Cư M’gar 6/11/2009 250  
  8. M’Drăk 10/11/2009 250  
  9. Lắk 17/11/2009 250  
  10. Ea Súp 11/11/2009 250  
  11. Ea H’Leo 10/11/2009 248  
  12. Ea Kar 13/11/2009 237  
  13. Buôn Đôn 12/11/2009 200  
  14. TP. Buôn Ma Thuột 27/10/2009 250  
  15. TX. Buôn Hồ 17/11/2009 200  
14 Đắk Nông 30/12/2009 1050 300
  1. Đăk Mil 30/10/2009 150  
  2. Krông Nô 24/11/2009 150  
  3. Cư Jút 24/11/2009 150  
  4. Đăk Song 24/11/2009 150  
  5. Đăk R’Lấp 24/11/2009 150  

212
  6. Đăk G’Long 24/11/2009 150  
  7. Tuy Đức 24/11/2009 150  
15 Đồng Nai 18/12/2009 1070 299
  1. Tân Phú 23/10/2009 84  
  2. Định Quán 15/10/2009 175  
  3. Thống Nhất 16/10/2009 86  
  4. Trảng Bom 7/10/2009 81  
  5. Cẩm Mỹ 12/10/2009 89  
  6. Xuân Lộc 28/9/2009 180  
  7. Long Thành 16/10/2009 80  
  8. Vĩnh Cửu 20/10/2009 95  
  9. TX. Long Khánh 20/10/2009 120  
  10. TP. Biên Hoà 13/10/2009 80  
16 Gia Lai 30/11/2009 1755 301
  1. K’Bang 21/10/2009 100  
  2. Chư Păh 16/10/2009 110  
  3. Mang Yang 14/10/2009 100  
  4. Đăk Đoa 25/9/2009 150  
  5. Ia Grai 20/10/2009 150  
  6. Đăk Pơ 16/10/2009 85  
  7. Đức Cơ 20/10/2009 100  
  8. Kông Chro 20/10/2009 100  
  9. Chư Prông 15/10/2009 150  
  10. Chư Sê 19/10/2009 150  
  11. Ia Pa 20/10/2009 110  
  12. Ayun Pa 16/10/2009 100  
  13. Krông Pa 20/10/2009 150  
  14. Phú Thiện 20/10/2009 100  
  15. TP. Pleiku 19/10/2009 100  
17 Hà Giang 17/12/2009 1783 361
  1. Mèo Vạc 13/11/2009 175  
  2. Đồng Văn 18/11/2009 177  
  3. Yên Minh 18/11/2009 115  
  4. Quản Bạ 16/11/2009 122  
  5. Bắc Mê 16/11/2009 167  
  6. Vị Xuyên 18/11/2009 123  

213
  7. Bắc Quang 9/11/2009 225  
  8. Quang Bình 18/11/2009 165  
  9. Hoàng Su Phì 18/11/2009 105  
  10. Xín Mần 16/11/2009 249  
  11. TX. Hà Giang 18/11/2009 160  
18 TP. Hà Nội 26/11/2009 447 300
  1. Ba Vì 29/10/2009 174  
  2. Thạch Thất 20/10/2009 150  
  3. Quốc Oai 24/10/2009 123  
19 Hậu Giang 22/10/2009 450 300
  1. Long Mỹ 19/10/09 150  
  2. Phụng Hiệp 15/10/2009 150  
  3. TX. Vị Thanh 13/10/2009 150  
20 Hoà Bình 16/12/2009 2207 447
  1. Đà Bắc 7/11/2009 220  
  2. Mai Châu 10/11/2009 220  
  3. Tân Lạc 8/11/2009 220  
  4. Lạc Sơn 10/11/2009 186  
  5. Kim Bôi 8/11/2009 192  
  6. Cao Phong 12/11/2009 200  
  7. Yên Thủy 10/11/2009 220  
  8. Lạc Thủy 15/11/2009 200  
  9. Lương Sơn 15/11/2009 180  
  10. Kỳ Sơn 8/11/2009 173  
  11. TP. Hoà Bình 12/11/2009 196  
21 Khánh Hoà 18/12/2009 308 250
  1. Khánh Vĩnh 9/10/2009 173  
  2. Khánh Sơn 12/10/2009 135  
22 Kiên Giang 24/11/2009 1172 230
  1. Kiên Lương 26/10/2009 90  
  2. Châu Thành 23/10/2009 120  
  3. Gò Quao 23/10/2009 122  
  4. An Biên 26/10/2009 95  
  5. Hòn Đất 22/10/2009 140  
  6. Giồng Riềng 28/10/2009 120  
  7. Vĩnh Thuận 27/10/2009 100  

214
  8. U Minh Thượng 27/10/2009 86  
  9. Giang Thành 22/10/2009 80  
  10. TX. Hà Tiên 28/10/2009 99  
  11. TP. Rạch Giá 9/10/2009 120  
23 Kon Tum 15/10/2009 1259 225
  1. Đắk Hà 22/9/2009 135  
  2. Sa Thầy 30/9/2009 150  
  3. Kon Plong 30/9/2009 130  
  4. Kon Rẫy 24/9/2009 120  
  5. Đắk Tô 29/2009 150  
  6. Tu Mơ Rông 30/9/2009 124  
  7. Ngọc Hồi 29/9/2009 150  
  8. Đắk Glei 25/9/2009 150  
  9. TP. Kon Tum 28/9/2009 150  
24 Lai Châu 28/11/2009 1172 422
  1. Phong Thổ 10/11/2009 230  
  2. Sìn Hồ 13/11/2009 172  
  3. Tam Đường 23/10/2009 200  
  4. Mường Tè 6/11/2009 250  
  5. Than Uyên 10/112009 170  
  6. Tân Uyên 10/11/2009 150  
25 Lạng Sơn 17-18/11/2009 2285 300
  1. Văn Quan 30/10/2009 190  
  2. Cao Lộc 26/10/2009 300  
  3. Tràng Định 26/10/2009 154  
  4. Văn Lãng 19/10/2009 200  
  5. Hữu Lũng 24/10/2009 180  
  6. Bình Gia 29/10/2009 187  
  7. Lộc Bình 27/10/2009 187  
  8. Chi Lăng 22/10/2009 220  
  9. Bắc Sơn 16/10/2009 264  
  10. Đình Lập 3/11/2009 201  
  11. TP. Lạng Sơn 28/10/2009 202  
26 Lào Cai 19/12/2009 1640 399
  1. Bắc Hà 27/11/2009 170  
  2. Sa Pa 27/11/2009 180  

215
  3. Bát Xát 10/11/2009 204  
  4. Mường Khương 25/11/2009 170  
  5. Si Ma Cai 17/11/2009 172  
  6. Văn Bàn 26/11/2009 186  
  7. Bảo Yên 25/11/2009 198  
  8. Bảo Thắng 27/11/2009 200  
  9. TP. Lào Cai 27/11/2009 160  
27 Lâm Đồng 18/12/2009 1996 300
  1. Bảo Lâm 18/11/2009 300  
  2. Đức Trọng 6/11/2009 240  
  3. Di Linh 21/11/2009 280  
  4. Lạc Dương 17/11/2009 100  
  5. Đơn Dương 26/11/2009 180  
  6. Lâm Hà 24/11/2009 100  
  7. Đam Rông 24/11/2009 180  
  8. Đạ Huoai 25/11/2009 120  
  9. Đạ Tẻh 12/11/2009 100  
  10. Cát Tiên 25/11/2009 196  
  11. Bảo Lộc 25/11/2009 100  
  12. TP. Đà Lạt 30/11/2009 100  
28 Nghệ An 17/12/2009 1670 450
  1. Kỳ Sơn 18/11/2009 230  
  2. Tương Dương 12/11/2009 200  
  3. Con Cuông 25/11/2009 150  
  4. Quế Phong 26/11/2009 250  
  5. Quỳ Châu 27/11/2009 150  
  6. Quỳ Hợp 23/11/2009 160  
  7. Nghĩa Đàn 24/11/2009 130  
  8. Tân Kỳ 16/11/2009 150  
  9. Anh Sơn 14/11/2009 150  
  10. Thanh Chương 13/11/2009 100  
29 Ninh Thuận 29/12/2009 800 350
  1. Bác Ái 27/11/2009 200  
  2. Ninh Sơn 10/11/2009 200  
  3. Thuận Bắc 8/11/2009 200  
  4. Ninh Phước 30/11/2009 200  

216
30 Phú Thọ 16/12/2009 597 300
  1. Thanh Sơn 19/10/2009 180  
  2. Tân Sơn 6/11/2009 117  
  3. Yên Lập 12/11/2009 178  
  4. Thanh Thủy 16/11/2009 122  
31 Phú Yên 19/12/2009 353 190
  1. Sông Hinh 11/10/2009 120  
  2. Sơn Hòa 14/10/2009 113  
  3. Đồng Xuân 22/10/2009 120  
32 Quảng Nam 19/1/2010 1208 300
  1. Bắc Trà My 05/10/2009 220  
  2. Nam Trà My 07/10/2009 150  
  3. Phước Sơn 02/11/2009 200  
  4. Nam Giang 29/09/2009 250  
  5. Đông Giang 08/10/2009 230  
  6. Tây Giang 01/12/2009 158  
33 Quảng Ngãi 15/12/2009 1156 450
  1. Sơn Hà 23/10/2009 160  
  2. Sơn Tây 10/11/2009 229  
  3. Trà Bồng 12/11/2009 240  
  4. Tây Trà 17/11/2009 180  
  5. Ba Tơ 13/11/2009 177  
  6. Minh Long 12/11/2009 170  
34 Quảng Ninh 18/12/2009 1087 289
  1. Tiên Yên 29/11/2009 146  
  2. Ba Chẽ 24/11/2009 122  
  3. Hoành Bồ 24/11/2009 105  
  4. Vân Đồn 27/11/2009 70  
  5. Hải Hà 29/10/2009 158  
  6. Đầm Hà 24/11/2009 136  
  7. TX. Cẩm Phả 27/11/2009 200  
  8. Bình Liêu 27/11/2009 150  
35 Quảng Trị 16/12/2009 240 121
  1. Hướng Hóa 13/11/2009 120  
  2. Đak Rông 11/11/2009 120  

217
36 Sóc Trăng 25/11/2009 1464 400
  1. Thạnh Trị 22/10/2009 150  
  2. Mỹ Xuyên 20/10/2009 200  
  3. Kế Sách 16/10/2009 200  
  4. Mỹ Tú 26/10/2009 150  
  5. Long Phú 22/10/2009 200  
  6. Vĩnh Châu 23/10/2009 200  
  7. TP. Sóc Trăng 1/10/2009 214  
  8. Châu Thành 17/10/2009 150  
37 Sơn La 29/11/2009 2024 393
  1. Phù Yên 29/10/2009 190  
  2. Sốp Cộp 27/10/2009 150  
  3. Bắc Yên 8/10/2009 150  
  4. Mai Sơn 8/10/2009 270  
  5. Thuận Châu 30/10/2009 180  
  6. Yên Châu 30/10/2009 150  
  7. Quỳnh Nhai 25/10/2009 180  
  8. Mường La 28/10/2009 150  
  9. Mộc Châu 27/10/2009 200  
  10. Sông Mã 27/10/2009 190  
  11. TP. Sơn La 21/10/2009 214  
38 Tây Ninh 18/12/2009 467 250
  1. Tân Biên 20/10/2009 100  
  2. Tân Châu 6/11/2009 150  
  3. Châu Thành 30/10/2009 112  
  4. TX. Tây Ninh 16/11/2009 105  
39 Thái Nguyên 18/12/2009 1443 386
  1. Đồng Hỷ 30/10/2009 201  
  2. Đại Từ 21/10/2009 202  
  3. Phổ Yên 26/10/2009 250  
  4. Định Hóa 24/10/2009 155  
  5. Phú Lương 22/10/2009 150  
  6. Phú Bình 28/10/2009 250  
  7. Võ Nhai 29/10/2009 235  

218
40 Thanh Hoá 18/12/2009 2361 403
  1. Mường Lát 26/11/2009 200  
  2. Quan Hóa 25/11/2009 200  
  3. Quan Sơn 30/11/2009 200  
  4. Bá Thước 16/11/2009 200  
  5. Lang Chánh 25/11/2009 200  
  6. Ngọc Lặc 24/11/2009 200  
  7. Thường Xuân 26/11/2009 185  
  8. Như Xuân 26/11/2009 200  
  9. Như Thanh 25/11/2009 200  
  10. Cẩm Thủy 26/10/2009 150  
  11. Thạch Thành 17/11/2009 160  
  12. Thọ Xuân 27/11/2009 120  
  13. Triệu Sơn 27/11/2009 146  
41 Thừa Thiên - Huế 26/12/2009 500 254
  1. A Lưới 25/10/2009 250  
  2. Nam Đông 27/10/2009 250  
42 Trà Vinh 17/12/2009 1288 340
  1. Trà Cú 17/ 11/2009 184  
  2. Châu Thành 1/12/2009 200  
  3. Càng Long 4/12/2009 134  
  4. Tiểu Cần 1/12/2009 120  
  5. Cầu Ngang 3/12/2009 230  
  6. Cầu Kè 4/12/2009 110  
  7. Duyên Hải 4/12/2009 150  
  7. TX. Trà Vinh 27/11/2009 160  
43 Tuyên Quang 24/11/2009 1100 211
  1. Chiêm Hóa 23/10/2009 200  
  2. Na Hang 25/10/2009 200  
  3. Hàm Yên 25/10/2009 200  
  4. Yên Sơn 24/10/2009 200  
  5. Sơn Dương 24/10/2009 200  
  6. TX. Tuyên Quang 26/10/2009 100  

219
44 Vĩnh Long 16/12/2009 500 172
  1. Trà Ôn 18/11/2009 200  
  2. Tam Bình 31/10/2009 150  
  3. Bình Minh 25/11/2009 150  
45 Yên Bái 25/12/2009 1140 280
  1. Mù Cang Chải 10/11/2009 150  
  2. Trạm Tấu 16/11/2009 120  
  3. Văn Chấn 27/10/2009 220  
  4. Văn Yên 12/11/2009 160  
  5. Lục Yên 12/11/2009 220  
  6. Trấn Yên 13/11/2009 120  
  7. Yên Bình 13/11/2009 150  
II TỈNH, THÀNH PHỐ TỔ CHỨC ĐẠI HỘI MỘT CẤP (6 tỉnh, thành phố)
1 Bình Dương 25/12/2009   174
2 TP. Đà Nẵng 16/12/2009   100
3 TP. Hồ Chí Minh 27/12/2009   486
4 Ninh Bình 29/12/2009   80
5 Quảng Bình 29/12/2009   200
6 Vĩnh Phúc 7/1/2010   200
III TỈNH TỔ CHỨC HIỆP THƯƠNG (1 tỉnh)
1 Hà Tĩnh      

220
DANH SÁCH ĐOÀN ĐẠI BIỂU CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG
DỰ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ VIỆT NAM

STT HỌ VÀ TÊN DÂN TỘC CHỨC VỤ/ ĐƠN VỊ

I - CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG ĐẢNG


1 Nông Đức Mạnh Tày Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận


2 Hà Thị Khiết Tày
Trung ương

3 Hoàng Công Hoàn Tày Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng

Phó Giám đốc Ban Quản lí Trụ sở Trung ương, Cục


4 Lê Văn Dũng Tày
Quản trị A, Văn phòng Trung ương Đảng

5 Chu Thị Tuyết Lan Tày Cục Quản trị - Tài vụ Văn phòng Trung ương Đảng

Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban,


6 Mai Thế Dương Tày
Cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

7 Sa Như Hoà Thái Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

Kiểm tra viên, Vụ Nghiên cứu, Uỷ ban Kiểm tra


8 Hà Công Nghĩa Thái
Trung ương

Phó Vụ trưởng Vụ địa phương II, Uỷ ban Kiểm tra


9 Hoàng Ngọc Bưởi Tày
Trung ương

Phó Vụ trưởng Vụ Trung ương IA, Uỷ ban Kiểm tra


10 Đinh Ngọc Dũng Tày
Trung ương
Phó Vụ trưởng Vụ Kiểm tra Tài chính, Uỷ ban Kiểm
11 Lê Minh Tuấn Tày
tra Trung ương

12 Triệu Văn Chiến Cao Lan Kiểm tra viên, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

Kiểm tra viên chính Vụ Địa phương II, Uỷ ban


13 Hà Chí Tuyên Mường
Kiểm tra Trung ương
Tổng Biên tập Tạp chí Dân vận, Ban Dân vận
14 Nông Hải Việt Tày
Trung ương
Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc (T78), Ban Dân vận
15 Huỳnh Tấn Đãi Chăm
Trung ương
16 Lò Thị Hạnh Thái Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc, Ban Dân vận Trung ương

221
Chuyên viên chính Trung tâm nghiên cứu Khoa học
17 Lê Thị Tiến Tày
Dân vận, Ban Dân vận Trung ương

18 Phùng Thị Mai Hiên Mường Chuyên viên Vụ Dân tộc, Ban Dân vận Trung ương

Chuyên viên chính Vụ Tôn giáo, Ban Dân vận


19 Vi Thị Duyên Thái
Trung ương

20 Hà Văn Thu Mường Phó Vụ trưởng, Ban Tuyên giáo Trung ương

21 Bùi Thanh Thu Mường Phó Trưởng ban, Ban Chỉ đạo Tây Bắc

22 Mùa A Tủa Mông Hàm Vụ trưởng, Ban Chỉ đạo Tây Bắc

23 Hoàng Xuân Long Tày Phó Vụ trưởng, Ban Chỉ đạo Tây Bắc

Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó


24 Sơn Song Sơn Khmer
Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ

Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc - Tôn giáo, Ban Chỉ đạo


25 Thạch Muni Khmer
Tây Nam Bộ

Chuyên viên Ban Tuyên giáo, Đảng uỷ Khối các


26 Bùi Thị Tuyết Mai Mường
cơ quan Trung ương

Chuyên viên Phòng đào tạo, Trung tâm BDCT


27 Nông Bích Thủy Tày
Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương

Chuyên viên Phòng đào tạo, Trung tâm BDCT


28 Hoàng Kim Phượng Tày
Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương

II - CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI


1 Tòng Thị Phóng Thái Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội

Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, UVUBTVQH, Chủ


2 Ksor Phước Gia-rai
tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

ĐUV Đảng uỷ Văn phòng Quốc hội, Phó Chủ tịch


3 Bùi Thị Bình Mường
Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

4 Giàng A Chu Mông Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

5 Mã Điền Cư Chăm Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

6 Huỳnh Phước Long Khmer Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

7 Triệu Thị Nái Dao Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

222
Uỷ viên chuyên trách UB về các vấn đề xã hội
8 Nguyễn Thị Khá Khmer
của Quốc hội
9 Lương Thanh Huấn Tày Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội

10 Nguyễn Thị Ngọc Phương Nùng Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội

11 Sa Văn Khiêm Thái Chuyên viên chính Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội

12 Lỳ Ly Na Hà Nhì Chuyên viên Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội

Nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Chủ tịch


13 Tráng A Pao Mông
Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

14 Phạm Thúy Chinh Mông Giám đốc Nhà khách Văn phòng Quốc hội

Hàm Đoàn phó Đoàn xe, Cục Quản trị Văn phòng
15 Nông Đức Chu Tày
Quốc hội
Giám đốc Nhà khách Văn phòng Quốc hội 165 Nam
16 Cư Văn Học Mông
Kỳ Khởi Nghĩa, TP. Hồ Chí Minh
Phó Trưởng phòng Kiểm toán Nhà nước
17 Triệu Quang Sáng Tày
chuyên ngành VI, Kiểm toán Nhà nước

III - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO


Phó Vụ trưởng Vụ Thực hành quyền công tố và
1 Hà Như Khuê Tày
kiểm sát xét xử hình sự

Phó Vụ trưởng Vụ Kiểm sát việc giải quyết các vụ


2 Chu Thị Bình Tày án hành chính, kinh tế, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật
Trưởng phòng - Kiểm tra viên chính, Văn phòng
3 Nhan Thanh Hà Tày
Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao
Kiểm sát viên, Vụ Thực hành quyền công tố và
4 Nguyễn Kim Dung Tày
kiểm sát xét xử phúc thẩm tại TP. Hồ Chí Minh
Phó Trưởng phòng - Kiểm tra viên chính, Văn phòng
5 Hà Trường Thanh Tày
Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao
6 Hoàng Văn Máo Tày Kiểm tra viên chính, Vụ Kiểm sát thi hành án
7 Đàm Thị Thanh Nùng Kiểm tra viên chính, Vụ Khiếu tố
Kiểm tra viên chính, Vụ Thực hành quyền công tố
8 Vi Mạnh Hà Tày
và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng
Kiểm tra viên chính, Vụ Thực hành quyền công tố
9 Hà Minh Khương Thái
và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội

223
IV - TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao, Phó Chánh tòa,
1 Hoàng Thị Kim Oanh Tày
Tòa Hình sự
Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao, Phó Chánh tòa,
2 Quảng Đức Tuyên Chăm Tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao tại
TP. Hồ Chí Minh

V - CÁC CƠ QUAN CHÍNH PHỦ


Văn phòng Chính phủ
Phó Tổng Biên tập Cổng Thông tin điện tử
1 Vi Quang Đạo Tày
Chính phủ
Phó Vụ trưởng, Vụ Theo dõi khiếu nại tố cáo và
2 Hoàng Ngọc Dũng Tày
Phòng chống tham nhũng
3 Ma Xuân Đua Tày Trưởng phòng Quản trị, Cục Hành chính - Quản trị II
4 Lò Việt Phương Thái Chuyên viên Vụ Địa phương
Phó Trưởng phòng kĩ thuật, Trung tâm Hội nghị
5 Nguyễn Văn Hải Mường
Quốc gia

Bộ Công an
1 Nông Văn Lưu Nùng Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh II

2 Ma Kiên Hiệp Tày Cán bộ Tổng cục An ninh II

3 Thào A Pha Mông Cán bộ Tổng cục An ninh II

4 Thùng Văn Nghiểm Thái Trưởng phòng, Tổng cục An ninh II

5 Xa Đức Thiệp Mường Cán bộ Tổng cục An ninh II

6 Triệu Quý Bảo Dao Cán bộ Tổng cục An ninh II

7 Hoàng Văn Ích Tày Cán bộ Tổng cục An ninh II

8 Hạng A Lồng Mông Chiến sĩ Tổng cục An ninh II

9 Kpă Phương Gia-rai Cán bộ Tổng cục An ninh II

10 Trần Song Khmer Phó Cục trưởng, Tổng cục An ninh II

11 Bùi Thị Dáng Hương Mường Cán bộ Tổng cục III

12 Hoàng Hữu Duyên Tày Cán bộ Tổng cục III

13 Hoàng Văn Oanh Tày Phó Trưởng phòng, Tổng cục III

224
14 Đàm Thị Thu Tày Phó Tổ trưởng, Tổng cục III
15 Đinh Văn Thép Mường Trưởng bộ môn, Tổng cục III
16 Ma Khánh Bào Tày Hiệu trưởng, Tổng cục III
17 Đặng Thị Thanh Hoa Tày Tổ trưởng bộ môn, Tổng cục III
18 Ma Thế Mây Tày Giáo viên, Tổng cục III
19 Phạm Thị Minh Hiển Tày Trưởng phòng, Tổng cục III
20 Tạ Văn Trung Sán Dìu Phó Trưởng khoa, Tổng cục III
21 Ksor Nham Gia-rai Phó Tổng cục trưởng, Tổng cục IV
22 Nông Thị Thu Hải Tày Phó Trưởng khoa, Tổng cục IV
23 Mai Đức Duy Tày Cán bộ Tổng cục V
24 Lò Việt Dũng Thái Cán bộ Tổng cục V
25 Bùi Khánh Hợi Mường Phó Trưởng phòng, Tổng cục VI
26 Lê Thị Dung Mường Đội trưởng, Tổng cục VI
27 Hà Thị Thư Tày Đội trưởng, Tổng cục VI
28 Bế Hồng Hải Tày Đội trưởng, Tổng cục VI
29 Lý Ngọc Tiến Tày Đội trưởng, Tổng cục VII
30 Phạm Thị Ngân Mường Cán bộ Tổng cục VII
31 Nguyễn Văn Hiếu Mường Cán bộ Tổng cục VII
32 Đinh Ngọc Thịnh Mường Cán bộ Tổng cục VII
33 Trương Văn Nguyên Dao Cán bộ Tổng cục VIII
34 Danh Bình Dương Khmer Cán bộ Tổng cục VIII
35 Nông Quốc Đại Tày Cán bộ Tổng cục VIII
36 Nông Nghiệp Tiến Tày Phó giám thị, Tổng cục VIII
37 Hoàng Văn Phúc Tày Cán bộ Tổng cục VIII
38 Bùi Văn Ân Mường Cán bộ Tổng cục VIII
39 Đàm Xuân Định Cao Lan Cán bộ Tổng cục VIII
40 Siu Nguih Gia-rai Cán bộ Tổng cục VIII
41 Lâm Thị Kim Dung Sán Dìu Cán bộ Tổng cục VIII

225
42 Phạm Quang Hải Mường Đại đội phó, Tổng cục VIII

43 Quách Thanh Tịnh Mường Trung đội trưởng, Tổng cục VIII

44 Đinh Công Bằng Mường Phó giám thị, Tổng cục VIII

45 Lường Văn Quốc Thái Phó trưởng Phân trại, Tổng cục VIII

46 Lò Văn Nguyên Thái Cán bộ Tổng cục VIII

47 Nông Thế Cường Tày Cán bộ Tổng cục VIII

48 Bùi Văn Thức Mường Đội trưởng, Tổng cục VIII

49 Đặng Văn Long Sán Dìu Cán bộ Tổng cục VIII

50 Nguyễn Mạnh Khoát Nùng Cán bộ Tổng cục VIII

51 Hà Mạnh Thư Mường Cán bộ Tổng cục VIII

52 Lê Thanh Phong Pa-cô Trung đội trưởng, Tổng cục VIII

53 Nguyễn Văn Phê Mường Cán bộ Tổng cục VIII

54 Ma Thị Nga Tày Cán bộ Tổng cục VIII

55 Bùi Văn Châu Mường Cán bộ Tổng cục VIII

56 Hoàng Văn Lâm Nùng Cán bộ Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động

57 Hoàng Công Hùng Tày Cán bộ Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động

58 Hồ Sỹ Đời Cơ-tu Phó Trung đội trưởng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động

59 Chau Son Si So Váth Khmer Tiểu đội trưởng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động

60 Hà Văn Yêu Nùng Phó Tiểu đội trưởng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động

61 Bùi Văn Hiền Mường Phó Trung đội trưởng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động

62 Dương Hữu Chiến Tày Cán bộ Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động

63 Bùi Công Tộ Mường Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ

64 Bùi Thanh Lản Mường Cán bộ Bộ Tư lệnh Cảnh vệ

65 Quách Anh Thơ Mường Cán bộ Bộ Tư lệnh Cảnh vệ

66 Đinh Văn Điền Tày Trưởng phòng, Cục Phong trào

67 Đinh Quang Thái Dao Cán bộ Uỷ ban kiểm tra

226
Bộ Công thương
Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đồng Tả Phời -
1 Hoàng Khải Quốc Minh Tày
Tập đoàn TKV

Công nhân vận hành máy khoan Công trường máy


2 Đặng Ngọc Hùng Sán Dìu
khoan, Công ty Cổ phần Than Đèo Nai - Tập đoàn TKV

Phó Giám đốc Chi nhánh Xăng dầu Lạng Sơn, Công ty
3 Hoàng Văn Vinh Nùng
Xăng dầu Bắc Sơn, Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam

Phó Giám đốc Điện lực Lai Châu, Công ty


4 Tao Văn Pắn Thái
Điện lực 1, Tập đoàn Điện lực Việt Nam

Giám đốc Điện lực Gia Lai, Công ty điện lực 3,


5 Măng Đoàn Ba-na
Tập đoàn Điện lực Việt Nam
Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Công ty TNHH nhà nước
6 Bế Ngọc Long Tày một thành viên Xây lắp Hoá chất, Tổng Công ty
Xây dựng Việt Nam
7 Hà Văn Đa Mường Giám đốc Công ty Lâm nghiệp Mộc Sơn
Giáo viên Khoa Công nghệ môi trường, Trường
8 Triệu Thế Châu Tày
Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hoà
9 Nguyễn Minh Hùng Khmer Chuyên viên Phòng NC Sét Gia Sàng, Viện Năng lượng
Phó Giám đốc Xí nghiệp Xây dựng, Công ty Apatít
10 Hồ Hải Minh Giáy
Việt Nam

Bộ Giáo Dục và Đào tạo


1 Mông Ký Slay Nùng Vụ trưởng, Vụ Giáo dục Dân tộc
Bí thư Đảng uỷ, Hiệu trưởng Trường ĐHKH,
2 Nông Quốc Chinh Tày
Đại học Thái Nguyên
3 Y Tru Alio Ê-đê Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tây Nguyên

4 La Đức Thiện Tày Trưởng phòng, Đại học Huế


Trưởng phòng, Trường Dự bị Đại học Dân tộc
5 Đinh Mạnh Hùng Mường
Trung ương
6 Hoàng Thị Bình Tày Trưởng khoa, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Phó Trưởng khoa, Trường Đại học Sư phạm


7 Hoàng Thị Mai Nùng
Nghệ thuật Trung ương

8 Lò Văn Nét Thái Trưởng phòng, Trường Đại học Tây Bắc

227
Phó Giám đốc, Trường Đại học Kinh tế
9 Nông Ngọc Yến Tày
TP. Hồ Chí Minh

10 Bế Hồng Hạnh Tày Trưởng phòng, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam

Chuyên viên chính, Cục Khảo thí và Kiểm định


11 Đỗ Anh Dũng Nùng
chất lượng giáo dục

12 Vi Thái Lang Tày Trưởng khoa, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội II

Giám đốc Công ty cổ phần Sách dân tộc, Nhà xuất


13 Hà Thị Hải Yến Tày
bản Giáo dục Việt Nam
14 Nông Văn Vìn Nùng Giảng viên chính, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
15 Lục Thị Thu Hường Giáy Phó Trưởng bộ môn, Trường Đại học Thương mại
16 Sầm Thị Thu Hương Tày Chuyên viên chính, Vụ Giáo dục Đại học
Trưởng bộ môn, Trường Đại học Sư phạm
17 Ân Thị Hảo Sán Dìu
TP. Hồ Chí Minh
18 Lý Tiến Hùng Nùng Chuyên viên, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường
Nhân viên, Anh hùng Lực lượng vũ trang, Đại học
19 Cầm Bá Trùng Thái
Đà Nẵng
20 Nông Minh Tân Tày Giảng viên, Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp
21 Hoàng Thị Kiên Tày Giáo viên, Trường Phổ thông vùng cao Việt Bắc
22 Hoàng Kim Nghĩa Tày Chuyên viên, Cục Đào tạo với nước ngoài
23 Hoàng Thị Kim Oanh Thái Chuyên viên, Cục Đào tạo với nước ngoài
24 Nông Thị Oanh Tày Giảng viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất
25 Hoàng Anh Phước Mường Giảng viên, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
26 Đàm Quốc Hiệp Tày Giảng viên, Học viện Quản lý Giáo dục
27 Trần Thị Thúy Mường Giảng viên, Trường Đại học Đà Lạt
28 Sơn Chanh Đa Khmer Giảng viên, Trường Đại học Cần Thơ
29 Đỗ Lư Công Minh Hoa Giảng viên, Trường Đại học Đồng Tháp
Chuyên viên, Dự án Phát triển giáo dục Trung học
30 Nguyễn Thị Như Thủy Tày
cơ sở II
Nhà giáo Nhân dân, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục
31 Nguyễn Văn Bền Tày
và Đào tạo tỉnh Bắc Kạn
Nhà giáo Ưu tú, Trưởng Bộ môn Vi sinh và
32 Cao Văn Thu Mường
Sinh học, Trường Đại học Dược Hà Nội

228
Nhà giáo Ưu tú, nguyên Chủ nhiệm bộ môn
33 Hoàng Lương Thái Nhân học, khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhà giáo Ưu tú, Phó Chủ tịch Hội Giáo chức
34 Bế Thanh Toàn Nùng
tỉnh Lạng Sơn

Bộ Giao thông vận tải


1 Mai Văn Đức Chăm Cục trưởng Cục Đường bộ Việt Nam
2 Nông Thanh Sơn Nùng Phó Vụ trưởng, Vụ An toàn giao thông

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1 Cầm Văn Đoản Thái Vụ trưởng Vụ Kinh tế Địa phương và Lãnh thổ
2 Chu Thị Vinh Tày Chuyên viên Vụ Hợp tác xã
Nghiên cứu viên, Trung tâm Thông tin và Dự báo
3 Hoàng Thị Minh Hà Nùng
KT - XH Quốc gia

Bộ Khoa học và Công nghệ


1 Nông Thị Thắng Tày Chuyên viên chính Vụ Tổ chức cán bộ, Tổng cục TĐC
2 Hoàng Minh Thu Tày Chuyên viên Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội


1 Trần Lê Thịnh Nùng Phó Trưởng phòng Thanh tra

2 Nguyễn Thùy Dương Tày Chuyên viên Vụ Pháp chế

3 Hoàng Thị Thu Huyền Tày Chuyên viên Vụ Bình đẳng giới

4 Vương Sỹ Khoa Nùng Lái xe Cục việc làm

5 Hà Thị Thu Hường Tày Nghiên cứu viên Viện Khoa học Lao động và Xã hội

6 Hoàng Văn Sơn Tày Trưởng khoa, Viện Chỉnh hình - Phục hồi chức năng

7 Lý Thị Hàm Tày Giảng viên, Trường Đại học Lao động - Xã hội

8 Phạm Thị Thủy Tày Giảng viên, Trường Đại học Lao động - Xã hội

9 Ma Thị Thảo Vân Tày Bí thư Chi đoàn Tạp chí Gia đình và Trẻ em

10 Lương Minh Hiền Hoa Phó Trưởng phòng Tạp chí Gia đình và Trẻ em

Bộ Ngoại giao
1 Nguyễn Tiến Hồng Tày Phó Vụ trưởng, Uỷ ban Biên giới Quốc gia

229
Bộ Nội vụ
1 Hoàng Quốc Long Tày Phó Vụ Trưởng, Vụ Công chức - Viên chức
Phó Chủ tịch Thường trực Công đoàn Bộ,
2 Nguyễn Thị Hà Tày
Vụ Công chức - Viên chức
3 Chu Minh Yên Nùng Phó Trưởng khoa, Ban Cơ yếu Chính phủ
4 Lê Thái Bảy Sán Dìu Quản đốc, Ban Cơ yếu Chính phủ
5 Nông Thị Tuyết Tày Lưu trữ viên Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn


Phó CN Khoa Quản lí Tài nguyên rừng và Môi trường,
1 Bế Minh Châu Tày
Trường Đại học Lâm nghiệp
Hiệu trưởng, Trường Trung học Công nghệ
2 Doanh Thiên Hiến Tày
Lương thực Thực phẩm
3 Nguyễn Thúy Hạnh Tày Chi Cục trưởng, Chi cục Lạng Sơn, Cục Thú y
Trại Phó, Trại chăn nuôi Dê Thỏ Sơn Tây,
4 Lý Thị Luyến Sán Dìu
Viện Chăn nuôi
5 Triệu Văn Hùng Tày Vụ trưởng, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường
Phó Trưởng phòng Đào tạo, Trường Cao đẳng
6 Lưu Văn Hưng Sán Dìu
nghề Công nghệ và Nông lâm Đông Bắc
Phó Trưởng bộ môn, Viện Khoa học kỹ thuật
7 Hà Tiết Cung Mường
nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc
Phó Trưởng Khoa Kinh tế, Trường Cao đẳng
8 Ngô Thị Lan Nùng
Công Nghệ và Kinh tế Bảo Lộc
Trưởng phòng Công tác học sinh, sinh viên,
9 Lương Hoa Mai Thái
Trường Trung học Lâm nghiệp Tây nguyên
Phó Giám đốc Trung tâm Tin học,
10 Đào Hùng Khmer
Tổng Công ty Chè Việt Nam
11 Nông Thị Nguyệt Tày Trưởng phòng Lưu trữ, Văn phòng Bộ
Giám đốc Công ty Cà phê EATUL,
12 YHôNiê Ê-đê
Tổng Công ty Cà phê Việt Nam

Bộ Quốc phòng
Trung tướng, Phó Tư lệnh quân khu,
1 Dương Công Sửu Tày
Bộ Tư lệnh Quân khu 1
Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng
2 Hoàng Văn Toái Tày
Quân khu, Bộ Tư lệnh Quân khu 2

230
Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu, Bộ Tư lệnh
3 Lý A Sáng Mông
Quân khu 2
Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu, Bộ Tư lệnh
4 Rơ Ô Cheo Gia-rai
Quân khu 5
Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Bảo vệ an ninh, Tổng
5 Lê Song Tiến Mường
cục Chính trị
Thiếu tướng, Chỉ huy trưởng, Bộ Chỉ huy quân sự
6 Bùi Đình Phái Mường
tỉnh Hòa Bình, Quân khu 3
Đại tá, Phó Chỉ huy trưởng, Bộ Chỉ huy quân sự
7 Chu Thanh Đại Tày
tỉnh Bắc Giang, Quân khu 1
Đại tá, Phó Tham mưu trưởng, Bộ Chỉ huy quân sự
8 La Văn Tiến Nùng
tỉnh Lạng Sơn, Quân khu 1
Đại tá, Trưởng phòng Dân vận, Cục Chính trị,
9 Đinh Ngọc Chuân Tày
Bộ Tư lệnh Quân khu 1
Đại tá, Phó Chỉ huy trưởng Quân sự, Bộ Chỉ huy
10 Tống Văn Thoóng Thái
Quân sự tỉnh Lai Châu, Quân khu 2
Đại tá, Chính uỷ Đoàn KT-QP 314, Bộ Chỉ huy
11 Giàng Seo Xào Mông
Quân sự tỉnh Hà Giang, Quân khu 2
Đại tá, Phó Chính uỷ, Bộ Chỉ huy Quân sự
12 Cầm Văn Câu Thái
tỉnh Sơn La, Quân khu 2
Đại tá, Phó Hiệu trưởng, Trường Thiếu sinh quân
13 Mẫu Quốc Đượng Ra-glai
Quân khu 5
Đại tá, Phó Chỉ huy trưởng, Bộ Chỉ huy quân sự
14 K.Sor K’Lưu Gia-rai
tỉnh Gia Lai, Quân khu 5

15 Bùi Tiến Dũng Mường Đại tá, Đoàn trưởng Đoàn 198, Binh chủng Đặc công

Đại tá, Chủ nhiệm kho K602, Tổng cục


16 Nông Minh Thành Tày
Công nghiệp Quốc phòng
Đại tá, Phó Giám đốc Công ty 732, Binh đoàn 15,
17 Lê Cẩm Nam Thổ
Bộ Quốc phòng
Đại tá, Phó Cục trưởng Cục 16, Tổng cục 2,
18 Vũ Duy Tỵ Tày
Bộ Quốc phòng
19 Lò Mai Cam Thái Đại tá, Giảng viên Học viện Quân y
Thượng tá, Chính trị viên phó, Ban Chỉ huy
20 Sừng Sè Po Hà Nhì
Quân sự huyện Mường Tè, Lai Châu, Quân khu 2
Thượng tá, Phó Tham mưu trưởng, Bộ Chỉ huy
21 Lý Súa Thao Mông
Quân sự tỉnh Điện Biên, Quân khu 2

231
Thượng tá, Chính uỷ, Bộ Chỉ huy Quân sự
22 Dương Đình Thông Tày
tỉnh Bắc Kạn, Quân khu 1
Thượng tá, Phó Hiệu trưởng, Trường Quân sự
23 Hà Quảng Tiệp Tày
tỉnh Thái Nguyên, Quân khu 1
Thượng tá, Phó Chủ nhiệm chính trị, Bộ Chỉ huy
24 Lâm Minh Liên Khmer
Quân sự tỉnh Trà Vinh, Quân khu 9
Thượng tá, Phó Chủ nhiệm chính trị, Bộ Chỉ huy
25 Thạch Sương Khmer
Quân sự TP. Cần Thơ, Quân khu 9
26 Thạch Roóc Khmer Thượng tá, Trợ lí, Cục Chính trị, Quân khu 9
Thượng tá, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự
27 Vi Văn Hiểu Thái huyện Kỳ Sơn, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An,
Quân khu 4
Thượng tá, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự
28 Y Phơi Du Mnông huyện Lăk, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đắk Lắk,
Quân khu 5
Thượng tá, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy huyện
29 K.Choi Mnông Đak RLấp, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đắk Nông,
Quân khu 5
Thượng tá, Chỉ huy trưởng huyện Tu Mơ Rông,
30 A.Bông Mnông
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kon Tum, Quân khu 5
Thượng tá, Chủ nhiệm kỹ thuật, Sư đoàn 10,
31 Bùi Khánh Vân Mường
Quân khu 3
Thượng tá, Chính trị viên Tiểu đoàn 1, Trường
32 Dương Thiếu Cường Sán Dìu
Sĩ quan chính trị
Thượng tá, Phó Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy
33 Hoàng Minh Tuấn Tày Quân sự huyện Bình Liêu, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh
Quảng Ninh, Quân khu 3
Thượng tá, Trưởng ban cơ yếu Sư đoàn 377,
34 Hoàng Đắc Khuynh Tày
Quân chủng Phòng không - Không quân
Thượng tá, Chủ nhiệm bay Trung đoàn 931, Sư
35 Đinh Công Bằng Mường
đoàn 371, Quân chủng Phòng không - Không quân
Thượng tá, Viện trưởng Viện Nghiên cứu ứng dụng
36 Trần Văn Bảo Tày
quân nhu, Cục Quân nhu, Tổng cục Hậu cần
Trung tá, Phó Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Quân sự
37 Trương Văn Luân Mường huyện Bá Thước, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thanh
Hóa, Quân khu 4
Trung tá, Chính trị viên, Ban chỉ huy Quân sự
38 Chau Chắc Khmer huyện Tri Tôn, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang,
Quân khu 9

232
39 Bùi Đức Bảo Mường Trung tá, Phòng Chính trị Sư đoàn 308, Quân đoàn 1
40 Mông Huy Hoàng Tày Trung tá, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2
Thiếu tá, Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự
41 Bo Bo Vĩnh Thành Ra-glai huyện Khánh Sơn, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Khánh
Hòa, Quân khu 5
Thiếu tá, Kho K887, Cục Kỹ thuật binh chủng
42 Quách Thị Liễu Mường
Tổng cục Kỹ thuật
Cán bộ Ban Chỉ huy Quân sự huyện Hà Quảng,
43 Triệu Quang Tuấn Nùng
Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Cao Bằng, Quân khu I
44 Đinh Công Hạnh Mường Thiếu tá, Trợ lí Cục 16, Tổng cục 2
45 Bành Thị Thu Quyên Nùng Thiếu tá, Bác sĩ Bệnh viện Y học cổ truyền Quân đội
46 Thạch Hoàng Minh Quân Khmer Thượng úy, Bộ tham mưu, Quân khu 7
Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng Ban Chỉ huy Quân sự
47 Điểu Sa Rét Xtiêng huyện Bù Đăng, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình
Phước, Quân khu 9
Đại úy, Ban Chỉ huy Quân sự huyện Tánh Linh,
48 Đinh Hùng Dũng Mường
Bộ Chỉ huy Quân sự huyện Bình Thuận, Quân khu 7
Thượng uý, Trợ lí thanh niên, Bộ Chỉ huy Quân sự
49 Hồ Văn Thìn Pa-cô
tỉnh Thừa Thiên Huế, Quân khu 4
50 Đinh Ngọc Duy Tày Nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
51 Bành Văn Khìu Tày Nguyên Giám đốc Bệnh viện Y học cổ truyền Quân đội

Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng


Thượng tá, Phòng Vận động quần chúng, Cục
1 Đinh Ngọc Chung Tày
chính trị Bộ đội biên phòng
Thượng uý, Chính trị viên Đồn Biên phòng
2 Hoàng Quy Xơ-đăng
Đăk Blô, Bộ đội biên phòng Kon Tum
Thiếu tá, Chính trị viên phó, Đồn Biên phòng
3 Bàn Văn Vinh Dao
Quang Chiểu, Bộ đội biên phòng Thanh Hóa
Trung uý, Đội trưởng trinh sát, Đồn Biên phòng
4 Huỳnh Nét Khmer
Vĩnh Châu, Bộ đội biên phòng Sóc Trăng
Thượng uý, Đội trưởng kiểm soát hành chính, Đồn
5 Hoàng Ngọc Huấn Nùng
Biên phòng Tân Thanh, Bộ đội biên phòng Lạng Sơn
Trung uý, Đội trưởng trinh sát Đồn Biên phòng
6 Pờ Bạch Quân Hà Nhì
Leng Su Xìn, Bộ đội biên phòng Điện Biên

233
Trung uý, Chính trị viên D19, Bộ đội biên phòng
7 Hồ Phú Vinh Vân Kiều
Quảng Trị
Thiếu uý, Tiểu đội trưởng Đồn Biên phòng Long
8 Chau Rít Khmer
Bình, Bộ đội biên phòng An Giang
Thượng uý, Chính trị viên phó, Đồn Biên phòng Y
9 Hạng Xuân Chung Mông
Tý, Bộ đội biên phòng Lào Cai
Trung tá, Bí thư Đảng uỷ xã - Cán bộ tăng cường
10 Mê Văn Đạt Tày xã Đàm Thủy, Đồn Biên phòng Đàm Thủy, Bộ đội
biên phòng Cao Bằng
11 Nông Quang Đạo Tày Thiếu tá, Học viên, Học viện Biên phòng
Trung tá, Cán bộ tăng cường xã Vĩnh Thực, Đồn
12 Tạ Đức Mộc Sán Dìu
Biên phòng Vạn Gia, Bộ đội biên phòng Quảng Ninh
Trung uý, Đội trưởng vũ trang, Đồn Biên phòng
13 Hồ Thảo Vân Kiều
Làng Ho, Bộ đội biên phòng Quảng Bình
Thiếu tá, Đồn trưởng, Đồn Biên phòng Đồng Văn,
14 Vàng Đình Chiến Mông
Bộ đội biên phòng Hà Giang
Chuẩn uý, Nhân viên vận động quần chúng, Đồn
15 Lý Mò Hừ La Hủ
Biên phòng Pa Vệ Sử, Bộ đội biên phòng Lai Châu
Trung uý, Đội phó vận động quần chúng, Đồn Biên
16 Lê Ô Y Win Gia-rai
phòng Ya Mơ, Bộ đội biên phòng Gia Lai
Thượng uý, Đội trưởng vũ trang, Đồn Biên phòng
17 Y Wang Niê Ê-đê
Sê Rê Pok, Bộ đội biên phòng Đắk Lắk
Thiếu tá, Phó đồn trưởng trinh sát, Đồn Biên
18 Bàn Văn Chanh Dao
phòng Chiềng Khương, Bộ đội biên phòng Sơn La
Đại uý, Phó đội trưởng phòng chống tội phạm ma
19 Hờ Bá Mai Mông
túy, Bộ đội biên phòng Nghệ An
Thượng uý, Chính trị viên phó, Đồn Biên phòng
20 Y Tuyên Du Mnông
Thuận An, Bộ đội biên phòng Đắk Nông

Bộ Tài chính
1 Mai Thị Oanh Tày Phó Vụ Trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính
2 Lý Văn Thảy Nùng Chuyên viên chính, Phòng Nghiệp vụ III
Giảng viên chính, Khoa Ngân hàng - Bảo hiểm,
3 Hà Minh Sơn Tày
Học viện Tài chính
4 Đinh Thanh Hà Hrê Kĩ sư, Trường Cao đẳng Tài chính Kế toán

5 Đỗ Văn Bình Tày Phó Cục trưởng Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Bắc Thái

234
6 Nguyễn Thị Vinh Mường Cán sự Văn thư Văn phòng Tổng cục Dự trữ Nhà nước
Trưởng phòng Phòng Tin học, Kho bạc Nhà nước
7 Hầu Văn Hùng Mông
Hà Giang
Giám đốc Kho bạc Nhà nước huyện Châu Thành A,
8 Liêu Minh Thúy Khmer
Hậu Giang
9 Vi Văn Doanh Tày Phó Vụ trưởng Vụ Thuế thu nhập cá nhân, Tổng cục Thuế
10 Văn Sơn Khmer Chi Cục trưởng Chi cục Thuế Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu
11 La Minh Báo Nùng Cục trưởng Cục thuế Cao Bằng
12 Ksor Kút Gia-rai Phó Cục trưởng Cục Thuế Gia Lai
Chuyên viên Vụ Giám sát, Uỷ ban Chứng khoán
13 Bùi Đức Tuấn Mường
Nhà nước
Phó Tổ trưởng Tổ kiểm soát phòng chống ma túy,
14 Điểu Drênh Đức Xtiêng
Đội Kiểm soát Hải quan, Cục Hải quan Bình Phước
Đội trưởng Chi cục Hải quan ga DSQT Lào Cai,
15 Đặng Hồng Mai Dao
Hải quan Lào Cai

Bộ Tài nguyên và Môi trường


1 Lý Thị Hồng Điệp Sán Dìu Chuyên viên Vụ Thi đua - Khen thưởng
Thanh tra viên, Trưởng phòng Cơ sở dữ liệu
2 Hoàng Văn Vy Nùng
Thanh tra, Tổng cục Môi trường
Trưởng phòng Vật lý động lực biển, Trung tâm
3 Hoàng Trung Thành Mường
Hải văn, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam
Chuyên viên Vụ Kế hoạch - Tài chính, Tổng cục
4 Lâm Thị Hải Đường Nùng
Biển và Hải đảo Việt Nam
Chuyên viên chính, Phó Trưởng phòng phụ trách
phòng Khoáng sản, cục Địa chất và Khoáng sản
5 Hoàng Văn Khoa Tày
Việt Nam, Phòng Khoảng sản, Cục Địa chất và
Khoáng sản Việt Nam
Kĩ sư Địa chất, Liên đoàn Địa chất xạ hiếm, Cục
6 Lương Thị Dung Tày
Địa chất và Khoáng sản Việt Nam

Bộ Thông tin và Truyền thông


Phó Giám đốc Quỹ Dịch vụ Viễn thông công ích
1 Chu Hồng Tuấn Nùng
Việt Nam

Bộ Tư pháp
Trưởng Phòng Quản lý Hòa giải ở cơ sở,
1 Quách Văn Dương Mường
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật

235
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
1 Hoàng Thị Điệp Tày Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch

Quyền Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Tổng cục


2 Sầm Văn Trường Tày
Thể dục Thể thao

3 Trần Chí Quân Hoa Giám đốc Trung tâm huấn luyện thể thao Quốc gia

4 Nông Quốc Thành Tày Trưởng phòng Quản lý Di tích, Cục Di sản Văn hoá

5 Vương Duy Bảo Mông Phó Cục trưởng Cục Văn hóa Cơ sở

6 Hoàng Đức Hậu Nùng Vụ trưởng Vụ Văn hóa Dân tộc

7 Trịnh Thị Thủy Mường Phó Vụ trưởng Vụ Văn hóa Dân tộc

8 Nguyễn Gia Lâm Tày Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Lào

9 Hoàng Thị Hội Tày Bảo tàng viên chính Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

10 Lê Thị Thanh Hà Tày Bảo tàng viên chính Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

11 Vi Kiến Thành Nùng Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

12 Ma Ngọc Dung Tày Trưởng phòng, Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam

13 Trần Văn Ái Sán Chay Trưởng phòng, Bảo tàng Văn hoá các dân tộc

14 Trương Hữu Văn Nùng Đoàn trưởng, Nhà hát nhạc vũ kịch Việt Nam

Giám đốc Ban Quản lí khu các Làng dân tộc -


15 Nông Hoàng Thụ Tày
Ban quản lí Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam

16 Hoàng Bích Hà Nùng Giảng viên chính Trường Đại học Văn hóa Hà Nội

Phó trưởng khoa, Trường Đại học Văn hóa TP.


17 Trương Thùy Hương Tày
Hồ Chí Minh
Trưởng phòng Đào tạo và Nghiên cứu khoa học,
18 Nông Thị Hà Tày
Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc
Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ
19 Hà Văn Đức Mường
thuật Tây Bắc

Trưởng khoa, Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật


20 Điêu Thúy Hoàn Thái
Tây Bắc

21 Lê Tiến Dũng Tày Phó Giám đốc Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin

22 Nông Xuân Ái Tày Giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc Dân gian Việt Bắc

236
Bộ Y tế
1 Nông Quốc Chí Tày Thầy thuốc Nhân dân, Giám đốc Sở Y tế Bắc Kạn
2 Quách Đình Thông Mường Thầy thuốc Nhân dân, Giám đốc Sở Y tế Hoà Bình
Thầy thuốc Nhân dân, Viện trưởng Viện Sốt rét -
3 Triệu Nguyên Trung Tày
Ký sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Bác sĩ điều trị Khoa Thăm dò chức năng, Bệnh
4 Bạch Thị Thương Mường
viện Châm cứu Trung ương
5 Nông Minh Hoàng Tày Bác sĩ Phòng NCKH, Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Phó Giám đốc Trung tâm Chống độc, Bệnh viện
6 Bế Hồng Thu Tày
Bạch Mai

Thanh tra Chính phủ


Vụ trưởng, Giám đốc Ban Quản lý Dự án Phát triển,
1 Hoàng Thái Dương Mường
nâng cao năng lực ngành Thanh tra
2 Hà Thị Lan Thái Thanh tra viên chính Vụ Tổ chức cán bộ

Uỷ ban Dân tộc


Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng,
1 Giàng Seo Phử Mông
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc
Bí thư Đảng uỷ, Phó Chủ nhiệm Thường trực
2 Bế Trường Thành Nùng
Uỷ ban Dân tộc
3 Hà Hùng Thái Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc
4 Sơn Phước Hoan Khmer Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc
5 Bùi Thế Tung Mường Hàm Vụ trưởng, Ban Nghiên cứu Lịch sử
6 Đặng Hà Lự Tày Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính
7 Ma Trung Tỷ Tày Chuyên viên chính Vụ Kế hoạch - Tài chính
8 Triệu Kim Dung Nùng Chuyên viên chính Vụ Kế hoạch - Tài chính
9 Nguyễn Thị Tư Mường Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ
10 Hoàng Thị Phượng Tày Chuyên viên Vụ Tổ chức cán bộ
11 Hoàng Thị Phương Hoa Tày Phó Bí thư Đảng uỷ cơ quan, Vụ trưởng Vụ Pháp chế
12 Ma Vân Uyên Tày Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế
13 Lò Thị Nu La Ha Đảng uỷ viên, Đảng uỷ cơ quan, Phó Chánh Thanh tra
14 Lý Bình Huy Tày Trưởng phòng Tổng hợp tiếp dân, Thanh tra Uỷ ban

237
15 Triệu Hồng Sơn Tày Chánh Văn phòng Uỷ ban
16 Lương Thu Châu Tày Phó Chánh Văn phòng, Uỷ ban
17 Phạm Thúc Thuỷ Mường Đảng uỷ viên, Đảng uỷ cơ quan,
18 Mã Kim Thanh Huyền Tày Trưởng phòng Thi đua, Văn phòng Uỷ ban
19 Nông Hồng Thái Tày Chuyên viên Văn phòng Uỷ ban
20 Hoàng Đức Thành Tày Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp
21 Chu Quốc Tú Ngái Chuyên viên chính Vụ Tổng hợp
22 Nguyễn Thanh Hải Tày Trưởng phòng Tổng hợp Vụ Tổng hợp
23 Vy Xuân Hoa Tày Bí thư chi bộ, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách dân tộc
24 Hà Việt Quân Tày Phó Chánh văn phòng chương trình 135
Chuyên viên chính, Phó bí thư Chi bộ,
25 Bế Thị Hồng Vân Nùng
Vụ Chính sách dân tộc
26 Chu Tuấn Thanh Tày Phó Vụ Trưởng Vụ Tuyên truyền
27 Bùi Thị Hồng Thi Tày Phó Vụ Trưởng Vụ Tuyên truyền
28 Nguyễn Lâm Thành Nùng Vụ Trưởng Vụ địa phương I
29 Lưu Văn Đức Chăm Trưởng phòng Địa bàn 2, Vụ Địa phương II
30 Y Nguyên Ê Nuôn Ê-đê Chuyên viên Vụ địa phương II
31 Huỳnh Thị Sô Ma Ly Khmer Phó Vụ trưởng Vụ địa phương III
32 Lý Khol Khmer Phó Vụ trưởng Vụ địa phương III
33 Lò Giàng Páo Lô Lô Phó Viện trưởng Viện Dân tộc
34 Quàng Văn Tịch Thái Hiệu trưởng Trường Cán bộ Dân tộc
Phó trưởng phòng Tổ chức Hành chính Quản trị,
35 Lù Thị Lai Thái
Trường Cán bộ Dân tộc
36 Lang Thi Minh Thái Kế toán, Trung tâm Thông tin
37 Hoàng Xuân Định Cao Lan Quyền Tổng Biên tập Báo Dân tộc và Phát triển
38 Hoàng Thị Bích Vân Tày Phó Giám đốc Nhà khách Dân tộc
39 Tráng A Dương Mông Phó Giám đốc Dự án Điện mặt trời

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam


Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước
1 Nông Văn Thới Tày
tỉnh Lạng Sơn

238
Đài Tiếng nói Việt Nam
Giám đốc Cơ quan thường trú Đài tiếng nói
1 Hoàng Quách Cầu Thái
Việt Nam khu vực Tây Bắc

Phó Giám đốc Cơ quan thường trú Đài tiếng nói


2 Thào Seo Sình Mông
Việt Nam khu vực Tây Bắc

Phóng viên Cơ quan Thường trú Đài tiếng nói


3 Nguyễn Ái Nghiêm Chăm
Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh

Phóng viên Cơ quan Thường trú Đài tiếng nói


4 Lâm Chanh Tuy Khmer
Việt Nam khu vực Đồng bằng sông Cửu long

Trưởng phòng, Cơ quan Thường trú Đài tiếng nói


5 Yler Niê Ê-đê
Việt Nam khu vực Tây Nguyên

Biên tập viên tiếng Xơ-đăng, Cơ quan thường trú


6 Nhát Lisa Xơ-đăng
Đài Tiếng nói Việt Nam khu vực Tây Nguyên

Biên tập viên tiếng Cơ-tu, Cơ quan Thường trú


7 A Lăng Lợi Cơ-tu
Đài Tiếng nói Việt Nam khu vực miền Trung

Đài Truyền hình Việt Nam


Nghệ sĩ Ưu tú, Đạo diễn Trung tâm phim Tài liệu
1 Vi Kiến Hoà Tày
và Phóng sự

2 Kà Kỳ Vọng Thái Biên tập viên, dẫn chương trình, Ban Thời sự

Phó Trưởng phòng, Biên tập viên Trung tâm


3 Sơn Thê Khmer
Truyền hình Việt Nam tại TP. Cần Thơ

Thông tấn xã Việt Nam


Trưởng phân xã Thông tấn xã Việt Nam tại
1 Điêu Chính Tới Thái
tỉnh Sơn La, Ban Biên tập Tin trong nước
Phó Trưởng phòng Thời sự, Bản tin ảnh Dân tộc -
2 Cư Minh Liên Mông
Miền núi

Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
1 Hoàng Thị Bích Loan Tày Giảng viên chính, Trung tâm Học viện
2 Nguyễn Thị Hạnh Tày Phó Trưởng ban, Học viện Hành chính
Nghiên cứu viên chính, Học viện Chính trị Hành
3 Hà Thị Thu Hằng Mường
chính khu vực I
4 Trung Thị Thu Thủy Ba-na Giảng viên Học viện Chính trị Hành chính khu vực III

239
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Trưởng phòng Nghiên cứu Hóa Sinh, Viện Công
1 Phạm Văn Chi Tày
nghệ Sinh học

Viện Khoa học Xã hội Việt Nam


Trưởng phòng, Nghiên cứu viên chính, Bảo tàng
1 Vi Văn An Thái
Dân tộc học Việt Nam

VI - CÁC ĐOÀN THỂ


Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
1 Hà Văn Núi Nùng
Việt Nam, Phụ trách công tác Dân tộc và Tôn giáo
Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
2 Hà Thị Liên Mường Việt Nam, Phụ trách công tác phong trào và các
cuộc vận động
Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
3 Bùi Thị Thanh Mường
Việt Nam, Phụ trách công tác tổ chức cán bộ
Phó Chủ tịch không chuyên trách Uỷ ban
4 Cư Hòa Vần Mông Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ nhiệm
Hội đồng Tư vấn về Dân tộc
Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
5 Lê Sơn Hải Nùng Việt Nam khóa VII, Trưởng ban Kinh tế - Đối ngoại
và Kiều bào
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận
6 Lù Văn Que Thái Tổ quốc Việt Nam khóa VII, Phó Chủ nhiệm Hội
đồng Tư vấn về Dân tộc
Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
7 Má Thị Hà Phù Lá
Nam khóa VII, Chuyên viên Ban Dân tộc và Tôn giáo
8 Hà Thị Xuyên Nùng Chuyên viên Ban Dân tộc và Tôn giáo
9 Cao Thị Ngọc Thủy Mường Chuyên viên Ban Dân tộc và Tôn giáo
10 Nông Thị Huyền Tày Chuyên viên Ban Tổ chức Cán bộ

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam


1 Tạ Thị Thu Huyền Tày Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Lào Cai
2 Đinh Thị Thanh Hải Mường Chủ tịch Công đoàn Trường Đại học Dược Hà Nội
3 Trang Phước Hoa Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Sóc Trăng
4 Y Khut Niê Ê-đê Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Đắk Lắk

240
Chủ tịch Công đoàn Công ty Cao su Chưpăh,
5 Siu Hoal Gia-rai
tỉnh Gia Lai
6 Hoàng Văn Hùng Nùng Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Thái Nguyên

Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh


Uỷ viên Ban Chấp hành, Phó Trưởng ban Tuyên giáo
1 Vy Tư Liệu Thái
Trung ương Đoàn
Chuyên viên chính Ban Công tác Thiếu nhi
2 Vy Thị Lạng Tày
Trung ương Đoàn
3 Dương Văn Thuấn Tày Phóng viên Báo Thiếu niên Tiền phong

Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam


1 H’Ngăm Niê Kdăm Ê-đê Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Trưởng Ban Dân tộc - Tôn giáo Hội Liên hiệp
2 Đào Thị Minh Châu Mông
Phụ nữ Việt Nam
3 Dương Thị Ngọc Lan Tày Trưởng phòng, Trường cán bộ phụ nữ Trung ương

Trung ương Hội Nông dân Việt Nam


1 Hà Phúc Mịch Tày Phó Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội

Uỷ viên Thường vụ, Trưởng Ban Kiểm tra


2 Bế Thị Yến Nùng
Trung ương Hội

3 Nguyễn Bá Dũng Nùng Phó Bí thư Thường trực Đảng uỷ cơ quan Trung ương Hội

4 YĐoan BKrông Mnông Phó Chánh Văn phòng, Phụ trách MT&TN

5 Đặng Thị Thủy Thái Phó Trưởng ban Điều hành Quỹ hỗ trợ Nông dân

Phó Trưởng Ban Dân tộc - Tôn giáo, Quốc phòng,


6 Lý Sa Ring Khmer
An ninh
7 Chẩu Thị Yến Tày Chuyên viên Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam
8 Lò Trung Kiên Thái Chuyên viên Ban Tổ chức Trung ương Hội
9 Nông Thị Tám Tày Chuyên viên Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam
10 Cao Phương Thảo Mường Chuyên viên Ban Tổ chức Trung ương Hội
11 Trương Thị Độ Mường Trưởng Phòng Thông tin Lưu trữ
12 Hà Thị Duyên Mường Chuyên viên Ban Kiểm tra Trung ương Hội
13 Hoàng Nguyễn Hậu Tày Chuyên viên Ban Điều tra Quỹ hỗ trợ nông dân

241
Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam
1 Cao Xuân Mật Mường Trưởng phòng Hành chính Quản trị, làng Hữu nghị

Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam


1 Đàm Thị Nhi Cao Lan Chuyên viên Ban Xây dựng Quỹ nhân đạo

Trung ương Hội người cao tuổi Việt Nam


Uỷ viên Thường vụ Trung ương Hội Người cao tuổi
1 Hà Đăng Hạnh Tày Việt Nam, Trưởng Ban đại diện Hội Người cao tuổi
tỉnh Quảng Ninh
Trung ương Hội Nhà báo Việt Nam
Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam,
1 Y Tuĩn Kmăn Ê-đê nguyên Phó Giám đốc Đài phát thanh - Truyền
hình tỉnh Đắk Lắk
Liên hiệp các hội Khoa học và Kĩ thuật Việt Nam
1 Hoàng Nam Tày GS. TS. Trưởng Ban Kiểm tra Hội Dân tộc học Việt Nam
2 Lương Thị Trường Thái Giám đốc Trung tâm Phát triển bền vững miền núi

Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam


Trưởng phòng, Ban Tổ chức cán bộ Liên hiệp
1 Lò Thị Việt Hà Thái
các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam
Trưởng phòng, Ban Điều phối viện trợ nhân dân
2 Hoàng Bằng Giang Nùng
Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam

Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam
Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc
1 Nông Quốc Bình Tày
thiểu số Việt Nam

2 Vy Hoa Thái Nghệ sĩ Ưu tú, Đoàn biểu diễn Biên phòng

Nghệ sĩ Ưu tú, Giảng viên Trường Đại học Văn hoá


3 Rơ Chăm Pheng Gia-rai
Nghệ thuật Quân đội
Nhà thơ, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ
4 Y Phương Tày
thuật năm 2008
5 Lê Khình Nùng Nghệ sĩ Nhân dân, Biên đạo múa
6 Lò Minh Thái Nghệ sĩ Nhân dân, Đạo diễn điện ảnh
Nghệ sĩ Nhân dân, Biên đạo múa, nguyên PGĐ Sở
7 Y Brơm Gia-rai
Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai

242
Nghệ sĩ Nhân dân, nguyên PGĐ Sở Văn hoá
8 Xuân La Hrê
Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai
9 Lưu Xuân Lý Mường Giám đốc Nhà xuất bản Văn hóa - Dân tộc
Nghệ sĩ ưu tú, Giảng viên Trường Đại học Văn hoá
10 Ma Bích Việt Tày
Nghệ thuật Quân đội

Trung ương Hội Luật gia Việt Nam


1 Nông Văn Lãm Tày Cán bộ văn phòng Trung ương Hội

VII - NGÂN HÀNG, BẢO HIỂM


Ngân hàng Chính sách Xã hội
1 Hà Thị Hạnh Thái Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách Xã hội
Trưởng phòng Tín dụng Học sinh, sinh viên và các
2 Lò Văn Đức Thái
đối tượng chính sách khác
3 Hoàng Xuân Trường Thái Phó Trưởng phòng Tín dụng Người nghèo

Ngân hàng Phát triển Việt Nam


1 Cầm Thị La Thái Phó Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng
2 Hoàng Phương Linh Tày Phó Trưởng Ban Tài chính kế toán
3 Hoàng Hưng Nùng Phó Trưởng Ban Tổ chức Cán bộ

Bảo hiểm Xã hội Việt Nam


Trưởng phòng, Ban Kiểm tra, Bảo hiểm Xã hội
1 Hoàng Thị Kim Dung Thái
Việt Nam

243
DaNH SÁCH các đoàn ĐẠI BIỂU địa phương
THAM DỰ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
STT HỌ VÀ TÊN DÂN TỘC Chức vụ, nghề nghiệp

TỈNH AN GIANG
1 Chau Ty Khmer Hòa Thượng chùa Soài So, Tri Tôn
2 Men Pholly Khmer Hội đồng nhân dân huyện Tri Tôn
3 Chau Cắt Khmer Hòa Thượng chùa Mỹ Á, Tịnh Biên
4 Neáng Chuôl Khmer Hội Phụ nữ xã Văn Giáo, Tịnh Biên
5 Neáng Sana Khmer Hội Phụ nữ ấp, huyện Tri Tôn
6 Musa Haji Chăm Xã Khánh Hòa, Châu Phú
7 SolayMal Chăm Ban đại diện Hồi giáo tỉnh An Giang
8 Chàm Dusố Chăm Xã Vĩnh Hanh, Châu Thành
9 Nguyễn Thị Kim Chi Chăm Mỹ Bình, TP. Long Xuyên
10 ZeilRoh Chăm Hội Phụ nữ xã 
11 Lư Hỷ Hoa Hội Tương tế người Hoa Long Xuyên
12 Trần Văn Họn Hoa Hội Tương tế người Hoa Tân Châu 
13 Thang Sang Khmer Hòa Thượng chùa Soài So, Tri Tôn

TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU


1 Diệp Hò Hoa Kinh doanh, TP. Vũng Tàu
2 Sú Cún Sáng Hoa Nông dân ấp Liên Đức, xã Xà Bang, Châu Đức
3 Lê Thiết Đồng Chơ-ro Già làng xã Xuyên Mộc, Xuyên Mộc
4 Dương Văn Thành Chơ-ro Nông dân xã Hắc Dịch, Tân Thành
5 Lý Văn Dương Chơ-ro Nông dân ấp Tân Thuận, xã Long Tân, Đất Đỏ
6 Đào Văn Phước Chơ-ro Phó Hiệu trưởng, Sở Giáo dục và Đào Tạo
7 Dương Văn Hạnh Chơ-ro Chuyên viên, Phòng Dân tộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

244
TỈNH BẮC GIANG
1 Nông Quốc Tuấn Tày Phó Bí thư Tỉnh uỷ

2 Vương Văn Nam Nùng Bí thư Huyện uỷ huyện Lục Nam

3 Lâm Thị Hương Thành Nùng Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh

Trưởng Ban Dân tộc - Phó Ban chỉ đạo


4 Đỗ Xuân Bình Sán Dìu
Đại hội tỉnh

5 Lâm Văn Mật Sán Chỉ Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Lục Ngạn

6 Bế Thị Bán Tày Bí thư Đảng uỷ xã Cầm Đàn, Sơn Động

7 Lưu Văn Báo Sán Dìu Bí thư Đảng uỷ xã Vô Tranh, Lục Nam

8 Lục Văn Năm Nùng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Hộ Đáp, Lục Ngạn

9 Nguyễn Văn An Sán Dìu Già làng thôn Trại Bèo, xã Giáp Sơn, Lục Ngạn

10 Trương Văn Cai Cao Lan Già làng thôn Nghè Mản, xã Bình Sơn, Lục Ngạn

11 Ninh Văn Keo Cao Lan Già làng bản Cây Vối, xã Đồng Tiến, Yên Thế

12 Đàm Xuân Tình Sán Chỉ Già làng thôn Đồng Bây, xã An Lạc, Sơn Động

13 Nông Văn Lay Tày Già làng thôn Chấn Sơn, xã Liên Sơn, Tân Yên

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, xã


14 Hoàng Quang Tích Tày
Quý Sơn, Lục Ngạn

15 Lý Xuân Phú Hoa Doanh nhân, thị trấn Chũ, Lục Ngạn

Chi hội trưởng Hội Phụ nữ thôn, xã Đồng Hưu,


16 Tô Thị Thu Nùng
Yên Thế

Nông dân thôn Đồng Thủy, xã Hương Sơn,


17 Lý Thị Mít Nùng
Lạng Giang

18 Hoàng Thị Liên Hoa Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã An Bá, Sơn Động

Phó Hiệu trưởng Trường tiểu học Tân Sơn I


19 Giáp Thị Lành Sán Dìu
Lục Ngạn, xã Tân Sơn, Lục Ngạn

20 Triệu Tiến Khải Dao Phó phòng Nội vụ huyện Yên Thế

21 Hà Khương Duy Nùng Sinh viên, thị trấn Bố Hạ, Yên Thế

245
TỈNH BẮC KẠN
1 Hoàng Ngọc Đường Tày Phó Chủ tịch Thường trực, Uỷ ban nhân dân tỉnh
2 Nông Văn Kỉnh Tày Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh
3 Ma Từ Đông Điền Tày Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
4 Nguyễn Văn Du Tày Bí thư Huyện uỷ huyện Pác Nặm
5 Lường Thị Thuyết Tày Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc huyện Chợ Đồn
6 Mã Thị Lành Tày Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Chợ Mới
7 Đinh Quang Hiếu Tày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Ngân Sơn
8 Đinh Thị Chuyên San Tày Phó Chủ tịch Thường trực, Liên đoàn Lao động tỉnh
Đại tá - Phó Chỉ huy trưởng quân sự, Bộ Chỉ huy
9 Thăng Văn Luận Tày
Quân sự tỉnh
10 Ma Thế Hậu Tày  Phố Nà Hái, thị trấn Phủ Thông, Bạch Thông
11 Hoàng Thế Lùng Tày Trưởng Trạm Y tế xã Bản Thi, Chợ Đồn
12 Đàm Văn Vụ Tày Thôn Nà Ha, xã Hà Hiệu, Ba Bể
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Nghiên Loan,
13 Lộc Thị Yến Tày
Pác Nặm
Hiệu trưởng Trường phổ thông Dân tộc nội trú
14 Dương Thị Thanh Tày
huyện Ba Bể
15 Hà Văn Quý Tày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Hòa Mục, Chợ Mới

16 Nguyễn Đình Tín Tày Nông dân thôn Khuổi Tắng, xã Bình Văn, Chợ Mới

17 Nông Thị Châm Tày Thôn Bản Piặt, xã Xuất Hóa, thị xã Bắc Kạn

18 Quan Thị Giang Tày Xã Xuân La, Pác Nặm

19 Lý Thị Ba Tày Trưởng ban, Ban Dân tộc tỉnh

20 Lý Thị Duyên Dao Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Chợ Mới

21 Triệu Thị Bình Dao Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Nghĩa Tá, Chợ Đồn

22 Triệu Thị Lan Dao Trưởng thôn Nặm Dắm, xã Cường Lợi, Na Rì
Hội Liên hiệp Phụ nữ thôn Khuổi Vùa, xã Quảng
23 Triệu Thị Nhung Dao
Bạch, Chợ Đồn
24 Bàn Văn Tài Dao Trưởng thôn Bản Nhàm, xã Cao Tân, Pác Nặm

246
25 Triệu Tiến Chung Dao Phó Trưởng Phòng Bảo vệ Chính trị, Sở Công an
26 Đặng Quang Hùng Dao Phó Giám đốc Sở Giao thông vận tải
27 Bàn Hữu Phong Dao Thôn Đèo Gió, xã Vân Tùng, Ngân Sơn
28 Bàn Văn Bảo Dao Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Vũ Muộn, Bạch Thông
29 Hoàng Việt Dũng Nùng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Bạch Thông
30 Mã Văn Thịnh Nùng Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Na Rì
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã Hương Nê,
31 Hoàng Văn Trọng Nùng
Ngân Sơn
32 Trần Thị Hạnh Nùng Thôn Phiêng Cuôn, xã Lương Thành, Na Rì
33 Triệu Thị Biên Nùng Thôn Phiêng Bủng, xã Sĩ Bình, Bạch Thông
34 Hoàng Kim Hồng Mông Phó Trưởng ban thường trực, Ban Tổ chức Tỉnh uỷ
35 Dương Văn Sơn Mông Trưởng thôn Khuổi Nộc, xã Lương Thượng, Na Rì

TỈNH BẠC LIÊU


1 Châu Phát Khmer Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
2 Danh Thánh Hiền Khmer Phó ban Ban Dân tộc tỉnh
3 Trần Thị Hoa Ry Khmer Phó ban Ban Dân tộc tỉnh
Hòa thượng, Hội trưởng Hội Đoàn kết sư sãi tỉnh
4 Lý Sa Mouth Khmer
Bạc Liêu
5 Ngô Vũ Đại Hoa Hội phó Hội Tương tế tỉnh
6 Sơn Kiên Khmer Bí thư Đảng uỷ xã Hiệp Thành, TX. Bạc Liêu
7 Khưu Lễ Hoa Phó Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường
8 Ong Bích Linh Hoa Cán bộ Văn phòng Uỷ ban tỉnh

TỈNH BÌNH ĐỊNH


1 Đinh Văn Beo Hrê Bí thư Huyện uỷ huyện An Lão
2 Đinh Thị Minh Kết Hrê Nguyên Bí thư Huyện uỷ huyện An Lão
3 Đinh Minh Tấn Hrê Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện An Lão

247
4 La Mai Ngọc Bích Ba-na Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Vân Canh

5 Đinh Y Nam Ba-na Quyền Trưởng ban Ban Dân tộc tỉnh

Nguyên Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Vĩnh Thạnh,


6 Đinh Sinh Ba-na
người có uy tín xã Bók Tới

Uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ - Chỉ huy trưởng Ban


7 Đinh Minh Nhơn Ba-na
Chỉ huy Quân sự huyện Vĩnh Thạnh

8 Đinh Thoang Ba-na Nguyên Uỷ viên Ban thường vụ Tỉnh uỷ


9 Bá Kiêu Ba-na Bí thư Đảng uỷ xã Vĩnh An, Tây Sơn
10 Lê Thanh Những Chăm Bí thư Huyện uỷ huyện Vân Canh
11 Măng Thị Yến Chăm Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Vân Canh

TỈNH BÌNH DƯƠNG


Tổng Giám đốc sản xuất Công ty Gốm sứ Minh
1 Lý Ngọc Minh Hoa
Long I, ấp Hưng Hòa, xã Hưng Định, Thuận An
Hội trưởng Hội Tương tế Triều Châu, thị xã
2 Vương Vĩnh Thắng Hoa
Thủ Dầu Một
Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ phường Phú Cường,
3 Đặng Minh Lý Hoa
thị xã Thủ Dầu Một
4 Kim Minh Thành Khmer Nông dân ấp Nước Vàng, xã An Bình, Phú Giáo
Sản xuất nông công nghiệp và kinh doanh vật liệu
5 Thạch Thị Ngọc Khmer
xây dựng xã Minh Hòa, Dầu Tiếng

TỈNH BÌNH PHƯỚC


1 Ma Ly Phước Mnông Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
Tỉnh uỷ viên, Trưởng Ban Dân tộc Hội đồng
2 Điểu Hơn Xtiêng
nhân dân tỉnh
3 Điểu Giá Mnông Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Bù Đăng
Huyện uỷ viên, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
4 Điểu Huyền Lýt Xtiêng
Việt Nam thị xã Phước Long
Uỷ viên thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
5 Điểu Hải Xtiêng
Việt Nam thị xã Bình Long

248
6 Đrênh Thị Kim Loan Xtiêng Huyện uỷ viên, Bí thư Huyện đoàn Hớn Quản
7 Điểu Văn Sỹ Xtiêng Đội phó Đội an ninh, Công an huyện Bù Gia Mập
Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã
8 Điểu Ganh Xtiêng
Quang Minh, Chơn Thành
Chủ tịch Hội đồng già làng phường Tân Xuân,
9 Thạch Đỏ Khmer
TX. Đồng Xoài
10 Điểu Ghê Xtiêng Ấp trưởng ấp Tiến, Thuận Phú, huyện Đồng Phú
11 Điểu Thị Hiệp Xtiêng Chủ tịch Hội đồng già làng xã Nghĩa Trung, Bù Đăng
12 Điểu Keng Xtiêng Chủ tịch Hội đồng già làng, xã Hưng Phước, Bù Đốp
13 Lâm Hớ Khmer Chủ tịch Hội đồng già làng xã Lộc Hưng, Lộc Ninh
14 Điểu Khé Xtiêng Chủ tịch Hội đồng già làng xã Lộc An, Lộc Ninh

TỈNH BÌNH THUẬN


1 Bích Thị Triệu Chăm Hiệu trưởng xã Phú Lạc, Tuy Phong
2 Mang Nhu Ra-glai Bí thư Đảng uỷ xã Phan Dũng, Tuy Phong
Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa khu vực Bắc
3 Miêu Tiểu Chông Chăm
Bình Thuận
4 Tiền Thị Hận Chăm Nông dân xã Phan Thanh, Bắc Bình
5 TSằn Boi Lộc Hoa Nông dân xã Hải Ninh, Bắc Bình
6 Mơ Nga Cơ-ho Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Phan Sơn, Bắc Bình
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Đông Tiến,
7 K’Văn Dung Cơ-ho
Hàm Thuận Bắc
8 Long Minh Tồn Chăm Sư cả Chùa Lâm Thành, Hàm Thuận Bắc
9 Hoàng Văn Lức Ra-glai Già làng xã Mỹ Thạnh, Hàm Thuận Nam
Anh hùng lực lượng vũ trang xã Sông Phan,
10 Phạm Minh Tư Ra-glai
Hàm Tân
11 Lâm Thị Hồng Nhạn Hoa Cán bộ hưu trí phường Phước Hội
12 Nguyễn Thị Thu Hà Ra-glai Chuyên viên, thị trấn Lạc Tánh, Tánh Linh
13 Huỳnh Văn Sanh Chơ-ro Nông dân xã Gia Huynh, Tánh Linh
14 Thông Thị Mỹ Dung Chăm Phó khu phố thị trấn Lạc Tánh, Tánh Linh
15 Mang Thị Tưởng Chơ-ro Giáo viên, xã Đức Tín, Đức Linh

249
16 K’Điền Cơ-ho Bí thư Chi bộ thôn, xã Mépu, Đức Linh

17 Tôn Thúy Liên Hoa Phó trưởng phòng, Phòng Nội vụ TP. Phan Thiết

18 Mai Sên Chăm Tỉnh uỷ viên - Phó Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

19 Bố Thị Xuân Linh Chăm Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh

TỈNH CÀ MAU
1 Triệu Quang Lợi Khmer Phó Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

2 Trần Anh Chót Khmer Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Thanh Tùng, Đầm Dơi

3 Danh Thị Hồng Duyên Khmer Giáo viên, xã Khánh Hòa, U Minh

4 Lâm Anh Lữ Hoa Đại biểu dân tộc


Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã
5 Nguyễn Hoàng Sa Chăm
Khánh Hải, Trần Văn Thời
6 Trần Hớn Cơ Hoa Hộ kinh doanh giỏi, phường 2

7 Hữu Dal Khmer Nông dân sản xuất giỏi xã Tân Lộc, Thới Bình

THÀNH PHỐ CẦN THƠ


Cán bộ hưu trí, 14 Hai Bà Trưng, phường Tân An,
1 Ong Đức Phát Hoa
quận Ninh Kiều
2 Lư Hớn Kia Hoa Doanh nghiệp phường Lê Bình, quận Cái Răng

3 Lưu Thị Lan Hoa Doanh nghiệp phường Thốt Nốt, quận Thốt Nốt
Doanh nghiệp 144, đường 3/2, phường Xuân
4 Từ Quới Minh Hoa
Khánh, quận Ninh Kiều
Phó Hiệu trưởng Trường phổ thông Dân tộc nội trú
5 Lý Thị Sa Rum Khmer
TP. Cần Thơ
Trưởng Ban trị sự Phật giáo TP. Cần Thơ, Trụ trì chùa
6 Hòa thượng Đào Như Khmer
Pô-thi som-rôn, phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn
Hội trưởng Hội đoàn kết sư sãi yêu nước TP. Cần
7 Hòa thượng Lý Sân Khmer Thơ, Trụ trì chùa San-vor Pô thi-nhen, phường
Châu Văn Liêm, quận Ô Môn
8 Danh Thị Kim Liên Khmer Nông dân ấp Thới Hòa B, thị trấn Cờ Đỏ, huyện Cờ Đỏ

250
TỈNH CAO BẰNG
1 Lý Hải Hầu Tày Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

2 Nguyễn Thị Nương Tày Bí thư Tỉnh uỷ

3 Lê Văn Thế Tày Phó Ban Dân tộc tỉnh

4 Tô Vũ Lập Tày Giám đốc Sở Nội vụ

5 Phan Thông Tày Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh

6 Mạc Văn Nheo Tày Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Minh Thanh,


7 Hà Nhật Tường Tày
Nguyên Bình

8 Ma Thế Minh Tày Bí thư Đảng uỷ xã Nam Cao, Bảo Lâm

9 Bùi Nguyễn Thiện Tày Chánh Văn phòng Hội Cựu chiến binh tỉnh

10 Đàm Viết Hà Tày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã Cao Bằng

Phó Giám đốc Doanh nghiệp XD Quang Tuyến,


11 Vương Thị Tuyến Tày
huyện Trùng Khánh

12 Nông Văn Thàng Tày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Lý Quốc, Hạ Lang

13 Lương Thị Hà Tày Bí thư Đoàn xã Cô Mười, Trà Lĩnh

14 Ma Thế Túc Tày Trưởng Ban Dân vận Huyện uỷ Bảo Lạc

15 Nông Thị Lê Tày Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Phi Hải, Quảng Uyên

16 Bế Thanh Tịnh Nùng Bí thư Tỉnh đoàn

Hiệu trưởng Trường THPT Thông Huề,


17 Hoàng Bao Nùng
huyện Trùng Khánh

18 Triệu Thị Liên Nùng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Uyên

19 Lăng Trung Kiên Nùng Cán bộ Đồn biên phòng Ngọc Chung, Trùng Khánh

Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân & Uỷ ban


20 Lương Đức Tố Nùng
nhân dân huyện Phục Hoà

Nông dân, Đại biểu công giáo, xóm Bó Tờ, thị trấn
21 Hà Lương Bằng Nùng
Hoà Thuận, Phục Hoà

22 Nông Hùng Hải Nùng Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ Thạch An

251
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Hoà Chung, thị xã
23 Lê Thanh Huấn Nùng
Cao Bằng
24 Nông Thị Mào Nùng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Hạ Lang
25 Hoàng Thị Hoa Nùng Trưởng Trạm Y tế xã Yên Sơn, Thông Nông
26 Triệu Văn Chính Nùng Chủ tịch Hội Nông dân xã Bình Dương, Hoà An
27 Lý Thị Hạc Nùng Giám đốc Bệnh viện Đa khoa huyện Hoà An
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện
28 Triệu Thanh Sơn Nùng
Hà Quảng
29 Triệu Đình Lê Nùng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Hà Quảng
30 Hà Thị Mỳ Nùng Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Trà Lĩnh
31 Mã Thị Ình Nùng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Nguyên Bình
32 Chu Đức Phang Nùng Phó chính uỷ Ban chỉ huy Quân sự tỉnh
33 Ngô Thị Mái Mông Trưởng Ban Dân vận Huyện uỷ Hoà An
34 Vương Văn Xuân Mông Nông dân xóm Nà Ngàm, xã Đa Thông, Thông Nông
Chi Hội Phụ nữ xóm Rằng Khoen, xã Hạ Thôn,
35 Hoàng Thị Dinh Mông
Hà Quảng
36 DươngThanh Huyền Mông Phó Trưởng phòng GD-ĐT huyện Bảo Lâm
Cộng tác viên KN-KL xóm Khưa Đí, xã Thuỵ Hùng,
37 Hà Thị Huyên Mông
Thạch An
38 Đặng Phúc Sơn Dao Trưởng phòng thi hành án huyện Bảo Lạc
39 Triệu Đức Tôn Dao Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân huyện
40 Triệu Kim Tỉnh Dao
Thông Nông
41 Bàn Tài Pu Dao Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Công Trừng, Hoà An

42 Triệu Văn Ba Dao Đội trưởng Phòng PA38, Sở Công an

43 Chu Thị Mai Dao Đại biểu xã Quang Thành, Nguyên Bình

44 Chi Viết Hải Lô Lô Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Hồng Trị, Bảo Lạc

45 Lang Văn Dũng Lô Lô Trưởng xóm Ngàm Lồm, xã Cô Ba, Bảo Lạc

46 Dương Văn Hốc Lô Lô Nông dân xã Đức Hạnh, Bảo Lâm


Phó Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng chính trị
47 Lăng Hùng Sơn Lô Lô
huyện Bảo Lâm

252
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1 Lương Tuyết Phương Hoa Giáo viên hưu trí Trung tâm Hoa Văn Thọ Nhơn
Cán bộ xã, Trưởng ban nhân dân thôn, Uỷ ban
2 Đinh Văn Mai Cơ-tu
nhân dân xã Hòa Bắc, Hòa Vang

TỈNH ĐẮK LẮK


1 Niê Thuật Ê-đê Bí thư Tỉnh uỷ

2 Y Dhăm ÊNuôl Ê-đê Tỉnh uỷ viên, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

3 A Ma Phong Ê-đê Trưởng Ban Dân tộc tỉnh


Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
4 Mai Hoa Niê K’dăm Ê-đê
dân tỉnh
Tỉnh uỷ viên, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
5 Y Dec H’ Đơk Ê-đê
Việt Nam tỉnh
6 Ê Ban Y Phu Ê-đê Phó Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh

7 Y Thoal H’Mook Ê-đê Phó Giám đốc Sở Công an

8 Mai Hoan Niê K’dăm Ê-đê Tỉnh uỷ viên, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ

9 H’Kim Hoa Byă Mnông Tỉnh uỷ viên, Bí thư Tỉnh đoàn


10 Y Lia Tơr Mnông Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh uỷ
11 H’Luộc NTơr Mnông Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh
12 Y Quang Siu Gia-rai Chánh Thanh tra tỉnh
13 Siu Niê Hương Gia-rai Phó phòng Uỷ ban kiểm tra
Nguyên Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Nguyên Chủ tịch Hội
14 Y Ly Niê K’dăm Ê-đê
đồng nhân dân tỉnh

15 H’Yâo Knul Ê-đê Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân TP. Buôn Ma Thuột

16 Y Luyện Niê K’dăm Ê-đê Nguyên Bí thư Tỉnh uỷ, Cán bộ hưu trí huyện Cư Kuin

17 H’Bliăk Niê Ê-đê Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Cư Kuin

Phó Chánh văn phòng Hội đồng nhân dân - Uỷ ban


18 Y Tuân Mlô Ê-đê
nhân dân huyện Krông Păk
19 H’Blứt Arul Ê-đê Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Hoà Đông, Krông Păk

253
20 Y Khun Mlô Ê-đê Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện, huyện Ea Kar

21 H’Loet Niê Ê-đê Nông dân thôn EaKnốp, xã Cư Ni, Ea Kar

22 A M H’Nga (Y Thúc Byă) Ê-đê Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Krông Bông

Chi hội phó Chi hội Phụ nữ Buôn Ja, xã Hoà Sơn,
23 H’Win Ding Ê-đê
Krông Bông

24 Lê Văn Quyết Mnông Nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

25 H’Bình Rơ Yam Mnông Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Đăk Liêng, huyện Lắk
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện
26 Y Blốc Niê Ê-đê
M’Đrăk
Chủ tịch Hội Phụ nữ buôn M’Um, xã Krông Jin,
27 H’Buan Niê Ê-đê
huyện Cư M’gar
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Cuôr Đăng, huyện
28 Y Wưt Niê Ê-đê
Cư M’gar

29 Y Ky Êban Ê-đê Mục sư, Chi hội Tin lành, xã Ea Tul, huyện Cư M’gar

30 Nay Gút Gia-rai Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Ea H’leo

Phó Bí thư Chi đoàn buôn Tùng Thăng, xã Ea Răl,


31 H’Nhi Ksơr Gia-rai
huyện Ea H’leo

32 Y Bin Siu Gia-rai Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Ea Súp

33 Vong Nhi Ksơr Mnông Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Buôn Đôn

Buôn trưởng buôn NiêngI, xã Ea Nuôl,


34 Y Bet Aliô Ê-đê
huyện Buôn Đôn

35 Y Biên Niê Ê-đê Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Krông Buk

36 Y Bhiu Mlô Ê-đê Chủ tịch Hội Người cao tuổi huyện Krông Buk

Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện


37 Y Jăn Ênuôl Ê-đê
Krông Ana

38 H’Mơ Niê Ê-đê Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Krông Ana

39 Y Bliu Mlô Ê-đê Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Krông Năng

40 H’Bứ Mlô Ê-đê Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Krông Năng

41 Y Ring ADrong Ê-đê Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã Buôn Hồ

254
TỈNH ĐẮK NÔNG
1 Y Thịnh Mnông Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

2 K’Bốt Mnông Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

3 Y Quang Mnông Phó Bí thư Tỉnh đoàn

4 H’ JRân Knul Mnông Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh

5 H’ Plơ Mnông Trường Mẫu giáo Hoà Bình, huyện Đắk Mil

6 Phạm Thị Vân Mnông Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Đắk Ngo, huyện Tuy Đức

7 Y Bông A Mnông Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Krông Nô

8 Điểu Pang Mnông Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Tuy Đức

9 Y Đơi Mnông Nông dân buôn Bu Dâp, xã Nhân Cơ, Đắk R’Lấp

10 K’KRăh Mạ Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

11 K’ Yung Mạ Nông dân xã Quảng Khê, Đắk Glong

12 K’ Poh Mạ Trưởng Công an phường Nghĩa Tân, thị xã Gia Nghĩa

13 H’Jông Mạ Chủ tịch Hội Phụ nữ huyện Đắk Glong

14 H’ Piôt Mạ Nông dân phường Nghĩa Tân, thị xã Gia Nghĩa

15 Nay Đô Ê-đê Phó Giám đốc Sở Công an

16 Niê Sơn Nghiêm Ê-đê Bí thư Huyện đoàn huyện Đắk Song

17 H’Lan Niê Ê-đê Trưởng Ban Dân vận huyện Cư Jút

TỈNH ĐIỆN BIÊN


Hiệu trưởng Trường Mầm non xã Sín Thầu,
1 Hồ Thị Thắm Si La
Mường Nhé
2 Lý Chè Che Si La Trưởng bản Nậm Sin, xã Chung Chải, Mường Nhé
3 Lò Thị Thiên Xinh-mun Ban Chấp hành Phụ nữ xã Chiềng Sơ, Điện Biên Đông
4 Lò Văn Chựa Xinh-mun Bí thư Đảng uỷ xã Chiềng Sơ, Điện Biên Đông
Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Chiềng Sơ,
5 Lường Văn Thiện Xinh-mun
Điện Biên Đông

255
6 Lò Văn Nhúng Lào Bí thư Đảng uỷ xã Pa Thơm, Điện Biên
7 Lò Thị Liên Lào Trưởng Chi hội Phụ nữ xã Mường Nhà, Điện Biên
8 Vì Văn Mậu Lào Bí thư Chi bộ bản Na Sang, xã Núa Ngam, Điện Biên
9 Lường Văn Pánh Kháng Bí thư Đảng uỷ xã Na Sang, Mường Chà
10 Quàng Văn Lý Kháng Trưởng bản Nà Đắng, xã Ta Ma, Tuần Giáo
11 Khoàng Văn Tư Kháng Bí thư Đảng uỷ xã Nà Khoa, Mường Nhé
Người có uy tín bản Huổi Lơi, xã Thanh Minh, TP.
12 Lò Thị Song Khơ-mú
Điện Biên Phủ
13 Lý Thị Nơi Khơ-mú Người có uy tín xã Mường Báng, Tủa Chùa
14 Quàng Thị Hương Khơ-mú Giáo viên, Phòng Giáo dục huyện Tuần Giáo
15 Mùa A Sơn Mông Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh
16 Giàng Thị Hoa Mông Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
17 Lầu Nỏ Sa Mông Phó Ban Dân tộc tỉnh
18 Giàng A Tính Mông Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
19 Mùa Ngọc Tú Mông Trưởng Ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh
20 Sùng Chứ Thếnh Mông Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh

21 Mùa A Sùng Mông Phó Ban Tổ chức Tỉnh uỷ

Hiệu trưởng Trường Trung học Phổ thông huyện


22 Hoàng Thị Tuyết Ban Mông
Tủa Chùa
23 Lý Nụ Phình Mông Phó Bí thư thường trực Huyện uỷ huyện Mường Chà
24 Vì A Hềnh Mông Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Tủa Chùa
25 Vừ Sái Sùng Mông Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Pú Nhung, Tuần Giáo
Tổ trưởng Phụ nữ bản Háng Chợ, xã Pú Nhi,
26 Hạng Thị Bia Mông
Điện Biên Đông
27 Lò Mai Trinh Thái Bí thư Tỉnh uỷ
28 Vi Văn Long Thái Giám đốc Sở Công an
29 Lù Văn Vin Thái Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng Ban Dân vận tỉnh
30 Lò Văn Thoạn Thái Trưởng Ban Dân tộc tỉnh
31 Quàng Văn Hưởng Thái Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh

256
32 Lâm Thị Hoa Thái Phó phòng Sở Công an
33 Lò Thị Thời Thái Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
34 Quàng Văn Tấng Thái Bí thư Huyện uỷ Tuần Giáo
35 Hà Văn Quân Thái Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Mường Ảng
36 Khoàng Văn Pịu Thái Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã Mường Lay
37 Lường Thị Sươi Thái Bí thư Chi bộ xã Thanh An, Điện Biên
Người có uy tín bản Nà Luông, xã Ảng Nưa,
38 Tòng Thị Hoa Thái
Mường Ảng
Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị trấn
39 Lò Thị Phọng Thái
Tủa Chùa
Phó Văn phòng Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân
40 Lò Thị Hải Yến Thái
dân TP. Điện Biên Phủ
41 Tao Thị Hồng Vân Thái Giám đốc Bệnh viện thị xã Mường Lay

TỈNH ĐỒNG NAI


1 Điểu Bảo Chơ-ro Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

2 Vương Ngọc Cúc Hoa Ban Đại diện người Hoa, TP. Biên Hòa

3 Đường Quảng Long Hoa Bí thư Chi đoàn Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai
Hiệu trưởng Trường dạy tiếng Hoa, xã Sông Thao,
4 Vòng A Minh Hoa
Trảng Bom
5 Lầu Tài Múi Hoa Trưởng ấp Phú Lập, xã Phú Bình, Tân Phú

6 Tăng Phương Dung Hoa Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã Long Giao, Cẩm Mỹ

7 Lầu Quốc Minh Hoa Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Xuân Tây, Cẩm Mỹ

8 Vòng Minh Thành Hoa Nông dân Hợp tác xã Đại Lợi, xã Phú Lợi, Định Quán

9 Lý Phát Sinh Hoa Nông dân ấp Tân Minh, xã Lang Minh, Xuân Lộc

10 Vòng Vĩnh Ôn Hoa Trưởng ấp Tân Thủy, xã Bàu Sen, thị xã Long Khánh
Phó Chỉ huy phường đội phường Xuân Thanh,
11 Sang Thanh Tâm Chơ-ro
thị xã Long Khánh
12 Thị Kim Chơ-ro Cán bộ Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Thống Nhất

257
13 Nguyễn Thị Năm Chơ-ro Nông dân ấp Lý Lịch 1, xã Phú Lý, Vĩnh Cửu

14 Dương Thị Hường Chơ-ro Nông dân ấp 6, xã Phước Bình, Long Thành
Trưởng ấp Hiệp Nghĩa, thị trấn Định Quán,
15 K’Kiển Mạ
huyện Định Quán
16 K’Mãn Mạ Trưởng ấp Bon Gõ, xã Thanh Sơn, Tân Phú
17 K’Cân Xtiêng Bí thư Chi bộ ấp 4, xã Tà Lài, Tân Phú
18 Thị Nhàn Xtiêng Cán bộ hưu trí xã Tân Hiệp, Long Thành

TỈNH GIA LAI


1 Y Mai Anh Ba-na Công an tỉnh
Mục sư nhiệm chức Chi hội Kông Vrêch Adơk,
2 Uyên Ba-na
Đăk Đoa
3 Siu Miên Gia-rai Người cao tuổi thị trấn Chư Sê
4 Siu H’Phiết Gia-rai Thanh niên Huyện đoàn huyện Chư Sê
5 Rah Lan Lâm Gia-rai Phó Giám đốc Sở Công an
6 Rơ Mah Giáp Gia-rai Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh
7 Rơ Mah Keh Gia-rai Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Đăk Đoa
8 Rơ Lan Pel Gia-rai Nông dân làng Pung I, xã Biển Hồ, TP. Pleiku
Phó Bí thư, Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện
9 Rơ Lan Hiăng Gia-rai
Đức Cơ
10 Rơ Châm Thung Gia-rai Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch xã Ia Mơ Nông, Chư Păh
11 Rơ Châm Pốt Gia-rai Nguyên Bí thư Huyện uỷ Chư Prông
12 Rơ Châm Mai Liên Gia-rai Thanh niên xã Ia Nan, Đức Cơ
13 Rơ Châm Hyéo Gia-rai Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh
14 Rmah H’Bơ Gia-rai Phó Trạm trưởng Trạm Y tế xã Ia Sol, Phú Thiện
15 Rah Lan Vy Gia-rai Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Chư Prông
16 Rah Lan Tuấn Gia-rai Uỷ viên Thường vụ, Trưởng Ban Dân vận tỉnh uỷ
17 Rah Lan Ton Gia-rai Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Ia Pa
18 Puih Mân Gia-rai Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Ia Bă, La Grai

258
19 Nay Nam Gia-rai Phó Chủ tịch thị xã Ayun Pa

20 Măng Đung Ba-na Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

21 Ksor Yin Gia-rai Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo

22 Kpă Ngun Gia-rai Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Krông Pa

23 Ksor Oét Gia-rai Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Ia Grai

24 Ksor Kơ Gia-rai Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thị xã Ayun Pa

25 Ksor Hiền Gia-rai Bác sỹ Bệnh viện Đa khoa TP. Pleiku


Đội viên Đội Tuyên truyền văn hóa cơ sở, Bộ Chỉ
26 Ksor Hchiêm Ba-na
huy Quân sự tỉnh
27 Ksor H’Soa Gia-rai Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ huyện Phú Thiện

28 Ksor H’Che Gia-rai Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Ia Pa

29 Nay Lan Gia-rai Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

30 Ksor HNhan Gia-rai Chủ tịch Hội chữ thập đỏ


Uỷ viên Thường trực Hội đồng nhân dân
31 Ksor Byêng Gia-rai
huyện Chư Păh
32 Kpă Thoa Gia-rai Nông dân huyện Krông Pa

33 Kpă Đô Gia-rai Phó Trưởng Ban Dân tộc

34 Hyuih Gia-rai Chức việc Nhà thờ Plei Chuet

35 Hoàng Y Bế Ba-na Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Mang Yang

36 Hngân Ba-na Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện K’Bang

37 Heng Ba-na Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Ayun, Mang Yang
Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
38 Đinh Thị Nghen Ba-na
huyện K’Bang
39 Đinh Thị Lan Ba-na Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Kông Chro

40 Đinh Miết Ba-na Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Đăk Đoa

41 Đinh Thị Anhơr Ba-na Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ xã An Thành, Đăk Pơ

42 Hà Sơn Nhin Ba-na Bí thư Tỉnh uỷ

43 Đinh HDăn Ba-na Nông dân làng Hà Nừng, xã Sơn Lang, K’Bang

259
44 Đinh Gônh Ba-na Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Đăk Djrăng, Mang Yang
Già làng làng Kon Sơng Lôk, xã Hà Đông,
45 Đinh Đăm Ba-na
Đắk Đoa

TỈNH HÀ GIANG
1 Vương Mí Vàng Mông Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ

2 Đàm Văn Bông Tày Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

3 Thào Hồng Sơn Mông Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XII

4 Ly Mí Lử Mông Trưởng Ban Dân vận Tỉnh uỷ

5 Bàn Đức Vinh Dao Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

6 Long Hữu Phúc La Chí Trưởng Ban Dân tộc

7 Sùng Đại Dùng Mông Nguyên Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

8 Lò Sì Páo Lô Lô Trưởng xóm Sảng Pả A, thị trấn Mèo Vạc

9 Vàng Thị Cáy Mông Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Tả Lủng, Mèo Vạc

10 Sùng Thị Dợ Mông Phó Bí thư Đoàn xã Lũng Chinh, Mèo Vạc

11 Vàng Thị Tiệp Giáy Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Nậm Ban, Mèo Vạc

12 Sùng Mí Thề Mông Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Mèo Vạc

13 Sùng Đại Hùng Mông Bí thư Huyện uỷ huyện Đồng Văn

14 Lưu Sần Vạn Cơ Lao Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Đồng Văn

15 Vàng Thị Xuyến Lô Lô Xóm Lô Lô Chải, xã Lũng Cú, Đồng Văn

16 Vừ Sía Cơ Mông Thôn Ma Xín B, xã Ma Lé, Đồng Văn

17 Củng Phủ Xuẩn Pu Péo Trưởng xóm Chúng Trải, xã Pố Là, Đồng Văn

18 Củng Thị Xuân Pu Péo Cán bộ Tư pháp xã, thị trấn Phố Bảng, Đồng Văn

19 Vần Thị Mỷ Cơ Lao Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Sính Lủng, Đồng Văn

20 Mua Thị Mỷ Mông Bí thư Đoàn xã Sủng Trái, Đồng Văn

21 Cư Thị Dính Mông Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Yên Minh

22 Hoàng Thị Mới Giáy Trưởng Ban Dân vận Huyện uỷ Yên Minh

260
23 Lý Thị Đào Dao Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Na Khê, Yên Minh

24 Cáo Mình Vảng Cơ Lao Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Phú Lũng, Yên Minh

25 Lèng Thị Siến Pu Péo Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Sủng Cháng, Yên Minh

26 Sình Mí Cho Cơ Lao Thôn Ngàm Soọc, xã Mậu Duệ, Yên Minh

27 Vàng Minh Lẻng Pu Péo Phó Bí thư Đảng uỷ xã Du Già

28 Lý Đại Duyên Dao Bí thư Chi bộ xã Quản Bạ, Quản Bạ

29 Giàng A Tón Mông Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Quản Bạ
Chi Hội phó Chi Hội Phụ nữ thôn Sáng Phàng,
30 Vùi Thị Lin Giáy
xã Đông Hà, Quản Bạ
31 Lộc Thị Liên Bố Y Chi Hội trưởng Hội Phụ nữ xã Quyết Tiến, Quản Bạ

32 Ly Mý Tỏa Mông Trưởng Ban Dân vận huyện Bắc Mê

33 Tráng Thị Hiền Pu Péo Thôn Tiến Xuân, xã Yên Cường, Bắc Mê

34 Phàn Thị Bình Dao Thôn Nà Khuổng, xã Yên Định, Bắc Mê

35 Hùng Thị Hồng Mông Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Vị Xuyên

36 Đặng Văn Hùng Dao Bí thư Chi bộ thôn Lùng Tao, xã Cao Bồ, Vị Xuyên

37 Mai Thị Hạnh Tày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Việt Lâm, Vị Xuyên

38 Dương Đình Tân Bố Y Cán bộ hưu trí xã Thuận Hòa, Vị Xuyên

39 Lý Thị Phương Giáy Nông dân thôn Nà Cọn, xã Phú Linh, Vị Xuyên

40 Hoàng Quang Phùng Tày Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Bắc Quang

41 Văn Thanh Phương Pà Thẻn Thôn Minh Hạ, xã Tân Lập, Bắc Quang

42 Triệu Thúy Tình Dao Thôn Hùng Tiến, xã Hùng An, Bắc Quang

43 Phù Minh Hòa Pà Thẻn Phó Trưởng công an huyện Quang Bình

44 Phù Thị Hà Pà Thẻn Thôn Tả Ngảo, xã Tân Trịnh, Quang Bình

45 Phù Thị Tả Pà Thẻn Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Tân Bắc, Quang Bình

46 Vương Văn Long La Chí Thôn Lùng Vi, xã Nà Khương, Quang Bình
47 Lù Tờ Lìn Nùng Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Hoàng Su Phì
Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc huyện
48 Hoàng Thị Hạnh Dao
Hoàng Su Phì

261
49 Sùng Thị Vân Mông Phó Chủ tịch Hội phụ nữ xã Nậm Ty, Hoàng Su Phì

50 Vàng Thị Chẻng La Chí Cán bộ hưu trí xã Bản Phùng, Hoàng Su Phì

51 Tráng Sào Hùng Phù Lá Thôn Bản Máy xã Bản Máy, Hoàng Su Phì

52 Lục Thị Ban La Chí Bí thư Chi bộ thôn Tà Chải, xã Bản Máy, Hoàng Su Phì

Hội viên Hội Nghệ nhân Dân gian xã Tùng Sán,


53 Min Phà Thìn Cơ Lao
Hoàng Su Phì

54 Min Phà Kháy Cơ Lao Bí thư Chi bộ xã Tùng Sán, Hoàng Su Phì

55 Giàng Xuân Phình Mông Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Xín Mần

56 Tẩn Văn Đức La Chí Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Nàn Xỉn, Xín Mần

57 Lùng Xín Hoà Phù Lá Bí thư Chi bộ xã Nàn Xỉn, Xín Mần

58 Nông Thị Vá La Chí Thôn Díu Thượng, xã Bản Díu, Xín Mần

59 Sin Thị Vé Nùng Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Cốc Rế, Xín Mần

60 Thèn Thị Chẳm Nùng Thường trực Đảng uỷ xã Trung Thịnh, Xín Mần

THÀNH PHỐ HÀ NỘI


1 Bạch Công Tiến Mường Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Ba Vì

2 Nguyễn Văn Phú Mường Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Hà Nội

3 Đinh Quang Tho Mường Bí thư Đảng uỷ xã Yên Trung, Thạch Thất

4 Bùi Văn Hoàn Mường Bí thư Đảng uỷ xã Đông Xuân, Quốc Oai

5 Quách Đức Đạn Mường Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã An Phú, Mỹ Đức

6 Bạch Đức Diện Mường Trưởng thôn Đồng Ké, xã Trần Phú, Chương Mỹ

7 Đào Duy Nhất Tày Cán bộ quân đội nghỉ hưu xã Phú Cát, Quốc Oai

8 Nông Thị Hằng Tày Trung tá Đội An ninh, Công an quận Thanh Xuân

9 Triệu Thị Hòa Dao Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã thuốc nam Ba Vì

10 Mách Thị Man Sán Dìu Cán bộ nghỉ hưu, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa

262
TỈNH HÀ TĨNH
1 Hồ Kính Chứt Trưởng bản Rào Tre, xã Hương Liên
2 Hồ Thị Nam Chứt Bản Rào Tre, xã Hương Liên
3 Hồ Sơn Chứt Bản Giàng II, xã Hương Vĩnh

TỈNH HẬU GIANG


Đại đức, Hội trưởng Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước.
1 Lý Vệ Khmer
Trụ trì chùa Aranhứt
Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp - Xây dựng Ngân Lợi,
2 Sơn Mến Khmer
ấp 11, xã Lương Nghĩa, Long Mỹ
Chi hội trưởng Hội Nông dân ấp 4, xã Hòa An,
3 Lý Vững Miền Khmer
Phụng Hiệp
4 Lâm Nhân Hoa Hội trưởng Hội người Hoa, thị xã Vị Thanh

5 Thái Văn Tắc Hoa Cán bộ hưu trí thị trấn Nàng Mau, Vị Thuỷ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


1 Dao Nhiễu Linh Hoa Trưởng Ban công tác người Hoa

2 Hà Tăng Hoa Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc
3 Lưu Kim Hoa Hoa
TP. Hồ Chí Minh

4 Dư Huệ Liên Hoa Cán bộ hưu trí, Đảng uỷ viên phường 11, quận 5
5 Lý Kim Mai Hoa Cán bộ hưu trí, Chủ tịch Hội Khuyến học quận 5
6 Lý Trương Thanh Tâm Hoa Sinh viên Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh

7 Tăng Cẩm Vinh Hoa Phó ban Văn hóa - Xã hội, Hội đồng nhân dân TP.

8 Vương Phấn Kim Hoa Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận 5

9 Kha Lệ Thanh Hoa Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Lam Sơn

10 Lý Đức Hoa Huấn luyện viên Thể hình

11 Lý Tùng Niên Hoa Họa sĩ lão làng, Nghệ nhân dân gian

263
12 Lương Tấn Hằng Hoa Trưởng đoàn Lân, Sư, Rồng Hằng Anh Đường
13 Lê Văn Cảnh Hoa Trưởng ban Hội quán Tuệ Thành
Tổng Giám đốc Công ty TNHH sản xuất thương
14 Quách Hưng Tòng Hoa
mại Hải Minh
15 Thái Tuấn Chí Hoa Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Thái Tuấn
Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Dây và Cáp
16 Trương Tử Minh Hoa
điện Tân Trường Thành
Dân quân thường trực Bộ chỉ huy Quân sự
17 Châu Vệ Thành Hoa
phường 14, quận 6
18 Mach Dares Samael Chăm Trưởng Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo TP.
Trưởng phòng Trưng bày, Tuyên truyền Bảo tàng
19 Bá Trung Phụ Chăm
lịch sử TP.
Uỷ viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
20 Danh Lung Khmer
quyền Sư trụ trì chùa Chăntarăngsay, quận 3
21 Tăng Ngọc An Khmer Quyền Sư trụ trì chùa Pothiwong, quận Tân Bình
22 Đào Lạc Khmer Thành viên Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc quận Tân Bình

TỈNH HÒA BÌNH


1 Hoàng Việt Cường Mường Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh
2 Bùi Ngọc Lâm Mường Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh
3 Bùi Ngọc Đảm Mường Phó Chủ tịch Thường trực Uỷ ban nhân dân tỉnh
4 Đinh Quang Phòng Mường Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
5 Nguyễn Đức Chung Mường Trưởng Ban Dân tộc tỉnh
6 Xa Hồng Diên Tày Phó Trưởng Ban Dân tộc tỉnh
7 Hoàng Văn Đức Mường Tỉnh uỷ viên, Chánh Văn phòng Tỉnh uỷ
Trưởng phòng Tiếp công dân, Văn phòng Uỷ ban
8 Hà Văn Vinh Thái
nhân dân tỉnh
9 Bùi Đức Sòn Mường Giám đốc Sở Công an
10 Sùng A Đề Mông Phó ban Tác huấn Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh
11 Triệu Văn Tiến Dao Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh
12 Bùi Hiền Dung Mường Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh

264
13 Hoàng Thị Chiển Mường Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
14 Hoàng Văn Tứ Mường Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
15 Bùi Ngọc Dảo Mường Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
16 Quách Đình Thông Mường Giám đốc Sở Y tế
Phó Bí thư Huyện uỷ - Chủ tịch Hội đồng nhân
17 Đinh Công Báo Mường
dân huyện Đà Bắc
18 Lường Thị Thương Tày Trạm trưởng Trạm Y tế xã Trung Thành, Đà Bắc
19 Khà Phúc Dằng Thái Bí thư Huyện uỷ huyện Mai Châu
20 Hàng A Páo Mông Phó Bí thư Đảng uỷ xã Pà Cò, Mai Châu
21 Bùi Xuân Sách Mường Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tân Lạc
22 Hà Văn Khiến Thái Chính trị viên Ban chỉ huy Quân sự huyện Tân Lạc
23 Đinh Văn Hòa Mường Bí thư Huyện uỷ huyện Lạc Sơn
24 Bùi Văn Mè Mường Bí thư Đảng uỷ xã Tự Do, Lạc Sơn
25 Bùi Viết Chiểu Mường Phó Trưởng Công an huyện Yên Thủy
26 Trịnh Xuân Mậu Mường Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Ngọc Lương, Yên Thủy
Huyện uỷ viên, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát
27 Bùi Văn Trường Mường
triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân huyện Lạc Thủy
28 Bùi Thanh Toàn Mường Trùm họ đạo thôn Rộc Trụ 2, xã Khoan Dụ, Lạc Thủy
29 Bùi Văn Dùm Mường Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ Kim Bôi
30 Triệu Tiến Hoa Mường Già làng, xóm Suối Rèo, xã Vĩnh Tiến, Kim Bôi
Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
31 Bùi Văn Bương Mường
huyện Cao Phong
32 Bàn Thị Kim Thanh Dao Phó Hiệu trưởng Trường DT Nội trú huyện Cao Phong
33 Nguyễn Quốc Thảo Mường Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Lương Sơn
34 Nguyễn Thị Hồng Nhinh Mường Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Lâm Sơn, Lương Sơn
35 Nguyễn Văn Long Mường Trưởng Công an huyện Kỳ Sơn
36 Nguyễn Văn Tiến Mường Chủ nhiệm HTX Tiến Phong, xã Hợp Thịnh, Kỳ Sơn
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ - Bí thư Thành uỷ
37 Nguyễn Văn Quang Mường
Hòa Bình
38 Đinh Thị Phiển Mường Giám đốc Công ty Cổ phần Y - Dược Hòa Bình

265
TỈNH KHÁNH HÒA
1 Cao Hồng Vân Ra-glai Bí thư Huyện uỷ huyện Khánh Sơn

2 Cao Cường Ra-glai Bí thư Huyện uỷ huyện Khánh Vĩnh

3 Mấu Văn Phi Ra-glai Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Khánh Vĩnh

4 Mấu Thái Cư Ra-glai Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Khánh Sơn

5 Mấu Thị Thị Ra-glai Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Sơn Trung, Khánh Sơn
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Cam
6 Cao Minh Tuấn Ra-glai
Thịnh Tây, thị xã Cam Ranh
7 Cao Điệp Phới Ra-glai Phó Trưởng Ban Dân vận thị uỷ Cam Ranh
8 Bo Bo Tân Ra-glai Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Sơn Tân, Cam Lâm
9 Cao Thị Kẹm Ra-glai Thôn phó thôn Lỗ Gia, xã Suối Tiên, Diên Khánh
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Sơn Thái,
10 Cà Tam Cơ-ho
Khánh Vĩnh
11 Mà Giá Cơ-ho Già làng xã Giang Ly, Khánh Vĩnh
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện
12 K Nai Y Ngai Ê-đê
Khánh Vĩnh
Chi hội trưởng Chi hội Cựu chiến binh thôn Buôn
13 Y Tài Ê-đê
Đung, xã Ninh Tây, Ninh Hoà

TỈNH KIÊN GIANG


1 Quách Phùng Canh Hoa Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã Bình An, Châu Thành

2 Danh Dĩnh Khmer Hoà thượng Trụ trì chùa Rạch Sỏi, TP. Rạch Giá
Đồn phó Đồn 969, Giang Thành, Bộ đội
3 Kim Ngọc Diễn Khmer
Biên phòng Kiên Giang
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Mỹ Đức, Thị
4 Tăng Văn Đặng Khmer
xã Hà Tiên
5 Thị Điệp Khmer Hiệu trưởng, Định An, Gò Quao

6 Thị Hạnh Khmer Nông dân sản xuất giỏi, Định An, Gò Quao

7 Danh Ngọc Hùng Khmer Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

8 Danh Thị Hồng Hoa Khmer Trưởng Khoa Nội B, Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang

266
9 Dương Việt Hoa Hoa Cán bộ hưu trí phường Rạch Sỏi, TP. Rạch Giá

10 Ngô Dũ Hiệp Hoa Chủ tịch Hội Tương tế người Hoa huyện Phú Quốc

Hiệu trưởng Trường Tiểu học Trưng Vương,


11 Lưu Tuyết Loan Hoa
TP. Rạch Giá

12 Danh Lụa Khmer Cán bộ hưu trí phường An Hòa, TP. Rạch Giá

13 Danh Sô Ma Ly Khmer Nông dân ấp Hòa An B, Ngọc Hòa, Giồng Riềng

Trưởng ban Hội Tương tế người Hoa,


14 Huỳnh Minh Trang Hoa
huyện Vĩnh Thuận
15 Thị Sưởng Khmer Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh

TỈNH KON TUM


1 Y Vêng Xơ-đăng Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ

2 Y Mửi Gia-rai Phó Bí thư Tỉnh uỷ

3 A Nhoi Gié-Triêng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh

4 Rơ Châm Giáo Gia-rai Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

5 Kring Ba Gié-Triêng Tỉnh uỷ viên, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh

6 KĐăm Y Đơi Gia-rai Phó Giám đốc Sở Công an

7 Nghe Minh Hồng Xơ-đăng Phó Ban Tổ chức Tỉnh uỷ

8 A Đũl Ba-na Đoàn Nghệ thuật tỉnh Kon Tum

9 AnNa Hnhem Ba-na Trưởng khoa Dinh dưỡng Bệnh viện Đa khoa tỉnh

10 A Miên Gié-Triêng Chỉ huy phó Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh

11 Sô Lây Tăng Gié-Triêng Nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ

12 Đinh Thị Quyết Hrê Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân TP. Kon Tum

Nhà giáo ưu tú, Giáo viên Trường Mầm non


13 Y Thắch Ba-na
Thủy Tiên, TP. Kon Tum
Đảng uỷ viên, Bí thư Chi bộ làng Kon TumKNâm,
14 Y HLưr Ba-na Phó Trưởng Trạm Y tế, phường Thống Nhất,
TP. Kon Tum

267
Công dân gương mẫu Plei Drân, xã Hòa Bình,
15 A Gái Gia-rai
TP. Kon Tum

16 Lê Thị Kim Đơn Ba-na Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ huyện Đắk Hà
Huyện uỷ viên, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
17 Y Thọ Xơ-đăng
huyện Đắk Hà
18 A Hun Ba-na Nông dân sản xuất giỏi xã Đăk Mar, huyện Đắk Hà
Huyện uỷ viên, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
19 Xiêng Văn Lanh Gié-Triêng
huyện Ngọc Hồi
20 Y Hiền Gié-Triêng Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Đắk Nông, Ngọc Hồi

21 Y Pan Brâu Trưởng ban Mặt trận làng Đắk Mế, xã Bờ Y, Ngọc Hồi

22 Thao Nhe Brâu Thanh niên làng Đắk Mế, xã Bờ Y, Ngọc Hồi

23 Thao Lợi Brâu Trưởng làng Đắk Mế, xã Bờ Y, Ngọc Hồi

24 Y Nhốt Brâu Nông dân làng Đắk Mế, xã Bờ Y, Ngọc Hồi

25 Nàng Y Thanh Brâu Nông dân làng Đắk Mế, xã Bờ Y, Ngọc Hồi

Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam


26 A Kham Xơ-đăng
huyện Đắk Tô

Học sinh Trường Trung học Phổ thông Dân tộc nội
27 Y Huỳnh Xơ-đăng
trú huyện Đắk Tô

28 A Ngọc Mít Xơ-đăng Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ huyện Tu Mơ Rông

29 Y Thị Bích Thọ Xơ-đăng Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Đắk Glei

30 Đinh Thế Dơ Xơ-đăng Chủ tịch Hội Người cao tuổi huyện Đắk Glei

31 A Thanh Sắc Gié-Triêng Trưởng phòng Nội vụ huyện Đắk Glei

32 Y Miên Gié-Triêng Nông dân làng Đăk Boók, xã Đắk Blô, Đắk Glei

33 A Dăm Xơ-đăng Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ Kon Plong

Phó Hiệu trưởng Trường trung học Dân tộc nội trú
34 Đinh Siu Giang Xơ-đăng
huyện Kon Plong

35 A JRing Đeng Ba-na Già làng thôn 5, xã Tân Lập, Kon Rẫy

36 Y Xuân Hrê Cán bộ hưu trí thôn 4, Thị trấn Đắk Rve, Kon Rẫy

37 Ksor Líu Gia-rai Trưởng ban Ban Dân vận Huyện uỷ Sa Thầy

268
38 A GLá Rơ Măm Nguyên Bí thư Đảng uỷ xã Mo Rai, Sa Thầy

39 A Minh Rơ Măm Nông dân làng Le Rơ Măm, xã Mo Rai, Sa Thầy

40 A Khẩn Rơ Măm Nông dân làng Le Rơ Măm, xã Mo Rai, Sa Thầy

41 Y Ben Rơ Măm Nông dân làng Le Rơ Măm, xã Mo Rai, Sa Thầy

42 Y Giới Rơ Măm Nông dân làng Le Rơ Măm, xã Mo Rai, Sa Thầy

TỈNH LAI CHÂU


1 Vương Văn Thành Thái Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

2 Giàng A Tính Mông Trưởng ban Ban Dân tộc tỉnh

3 Lý Anh Po Hà Nhì Trưởng ban Ban Dân vận tỉnh

4 Tẩn Vản Pao Dao Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

5 Lý Văn Páo Giáy Nông dân phường Quyết Thắng, thị xã Lai Châu

6 Lương Thị Tuyến Thái Trưởng Phòng Giáo dục huyện Tam Đường

7 Sùng Lử Páo Mông Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Tam Đường

8 Tao Văn Kha Lự Bí thư Chi bộ bản PaPe, xã Bình Lư, Tam Đường

9 Lò Văn Sâu Lự Bí thư Đảng bộ xã Bản Hon, huyện Tam Đường

10 Vàng Thị Giọt Lự Nông dân bản Hon I, xã Bản Hon, Tam Đường

11 Tẩn A Đẩu Dao Bí thư Đảng uỷ xã Hồ Thầu, Tam Đường


12 Tẩn Thị Xoè Giáy Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Bản Bo, Tam Đường
13 Lò Văn Hặc Lào Bí thư Đảng uỷ xã Nà Tăm, Tam Đường
14 Lò Thị Bun Phốm Lào Nông dân bản Nà Hiềng, xã Nà Tăm, Tam Đường
15 Trần Thị Yêu Thái Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Phong Thổ
16 Lý Thị Cha Mông Bí thư Đoàn thanh niên xã Dào San, Phong Thổ
17 Lý Vần Sồ Hà Nhì Nông dân xã Ma Ly Chải, Phong Thổ
18 Chang Mỳ Ý Hà Nhì Nông dân xã Huổi Luông, Phong Thổ
19 Tẩn Lở Mẩy Dao Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Sì Lờ Lầu, Phong Thổ

269
20 Sần Văn Chầu Giáy Chủ tịch Hội Nông dân xã Nậm Xe, Phong Thổ
21 Sìn Văn Sủ Thái Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Sìn Hồ
22 Mùa A Páo Mông Anh hùng Lực lượng vũ trang, thị trấn Sìn Hồ
23 Pờ Mỳ So Hà Nhì Bí thư Chi bộ xã Nậm Ban, Sìn Hồ
24 Lò Văn én Lự Bí thư Chi bộ xã Ma Quai, Sìn Hồ
25 Tao Văn ón Lự Nông dân xã Nậm Tăm, Sìn Hồ
26 Tao Văn Kẻo Lự Nông dân xã Nậm Tăm, Sìn Hồ
27 Lý Thị Chướng Mảng Bí thư Đảng uỷ xã Nậm Ban, Sìn Hồ
28 Tào A Toi Mảng Nông dân xã Nậm Ban, Sìn Hồ
29 Sìn Văn Siêng Mảng Trưởng bản xã Chăn Nưa, Sìn Hồ
30 Lý Thị Thuận Dao Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Nậm Cha, Sìn Hồ
Chi hội trưởng Hội Phụ nữ bản Giẳng, xã Mường
31 Lý Thị Đào Thái
Tè, Mường Tè
32 Vàng A Tú Mông Phó Bí thư Đoàn thanh niên xã Nậm Manh, Mường Tè
33 Lò Phù Mé Hà Nhì Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Mường Tè
34 Pờ Pé Tư Hà Nhì Trưởng Công an huyện Mường Tè
35 Chang Cha Pò Hà Nhì Phó Bí thư Đảng uỷ xã Ka Lăng, Mường Tè
36 Khoàng Khừ Xó Hà Nhì Nông dân xã Mường Tè, Mường Tè
37 Ly Xạ Pu La Hủ Bí thư Đảng uỷ xã Pa Ủ, Mường Tè
38 Ky Khừ Xá La Hủ Nông dân xã Pa Vệ Sủ, Mường Tè
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Bum Tở,
39 Phùng Mò Be La Hủ
Mường Tè

40 Lỳ Nhù Chừ La Hủ Giáo viên xã Ka Lăng, Mường Tè

41 Thàng Phí Xè La Hủ Nông dân xã Pa Ủ, Mường Tè

42 Ly Mò Xá La Hủ Nông dân xã Pa Vệ Sủ, Mường Tè

43 Vàng Xuân Hiệp Si La Chánh án Toà án ND huyện Mường Tè

44 Hù Chà Khao Si La Già làng xã Can Hồ, Mường Tè

45 Giàng Cố Phương Si La Nông dân xã Can Hồ, Mường Tè

270
46 Lò Văn Chèo Mảng Trưởng bản xã Nậm Hàng, Mường Tè

47 Lò A Đông Mảng Trưởng bản xã Bum Nưa, Mường Tè

48 Tao Me Hiền Mảng Nông dân xã Pa Vệ Sủ, Mường Tè

49 Chang Văn San Cống Hội Người cao tuổi xã Nậm Khao, Mường Tè

50 Lò Thị Ga Cống Nông dân xã Can Hồ, Mường Tè

51 Chang Thị Nàng Cống Nông dân xã Nậm Khao, Mường Tè

52 Lò Thị Thung Cống Nông dân xã Nậm Khao, Mường Tè

53 Chang Ngọc Loan Cống Cán bộ Phòng Văn hoá Thông tin huyện Mường Tè

54 Lý Văn Làng Cống Cán bộ Văn phòng Huyện uỷ Mường Tè

55 Phan Văn Nguyên Thái Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Tân Uyên

56 Giàng A Sử Mông Phó Bí thư Huyện đoàn Tân Uyên

57 Lò Thị Sòn Lào Cán bộ Uỷ ban nhân dân xã Mường Khoa, Tân Uyên

58 Hoàng Văn Sơn Khơ-mú Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Tà Mít, Tân Uyên

59 Lý Thị Xuân Thái Trưởng Ban Dân vận Huyện uỷ Than Uyên

60 Tòng Thị Vân Thái Giáo viên Trường phổ thông DTNT huyện Than Uyên

61 Giàng A Sinh Mông Công an huyện Than Uyên

62 Hoàng Văn Hom Khơ-mú Trưởng bản Thẩm Phé, xã Mường Kim, Than Uyên

TỈNH LÂM ĐỒNG


1 Lơ Mu Ha Krong Cơ-ho Uỷ viên Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh

2 Đàm Xuân Đêu Mạ Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

3 K’Brêu Cơ-ho Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

4 Păng Ting Uốk Cơ-ho Phó Ban Dân tộc tỉnh

5 Nahria Ya Duck Cơ-ho Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam


6 Thiên Jiong Chu-ru
huyện Đức Trọng

271
7 Dơ Woang Ya Gương Chu-ru Phó Văn phòng Uỷ ban nhân dân huyện Đức Trọng

8 Ma Huệ Chu-ru Giáo viên Trường Trung học cơ sở Đaquyn, Đức Trọng

9 Ka Phương Cơ-ho Y sĩ, Đà Loan, Đức Trọng


Uỷ viên Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện
10 Chung Văn Bình Hoa
Đức Trọng
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - KP9 -
11 Tạ Thị Trúc Mai Hoa
TTLN, huyện Đức Trọng
Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
12 Ya Tuân Chu-ru
huyện Đơn Dương
Chuyên viên Phòng Nông nghiệp và Phát triển
13 Tou Prong Nai Khoan Chu-ru
nông thôn Đơn Dương
14 So Hao Dung Cơ-ho Trưởng Khoa LS, Trung tâm Y tế huyện Đơn Dương
Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Ka Đô,
15 Tou Prong Dzung Chu-ru
Đơn Dương
16 Ya Ga Chu-ru Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Tu Tra, Đơn Dương

17 Kră Jăn Tên Cơ-ho Phó Bí thư Văn phòng Huyện uỷ huyện Lạc Dương

18 Liêng Jrang K’Lóc Cơ-ho Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Đạ Sar, Lạc Dương

19 K’Krong Cơ-ho Bí thư xã Đạ Đờn, Lâm Hà

20 K’Ơi Cơ-ho Bác sĩ Trung tâm Y tế huyện Lâm Hà


Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
21 Ka Brép Cơ-ho
huyện Di Linh
22 K’Broi Cơ-ho Phó Văn phòng Uỷ ban nhân dân huyện Di Linh

23 K’Brôl Cơ-ho Phó Hiệu trưởng Trường Dân tộc nội trú Di Linh

24 K’Nhơr Cơ-ho Bí thư xã Đinh Trang Thượng, Di Linh

25 K’Wi Mạ Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Bảo Lâm

26 Ka Phờm Mạ Chủ tịch xã Lộc Lâm, Bảo Lâm

27 K’Jềm Mạ Xã Lộc Nga, Bảo Lâm

28 Ka Dèm Mạ Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Madaguôi, Đạ Huoai

29 Ka Hiên Mạ Phó Chủ tịch xã Phước Lộc, Đạ Huoai

30 K’Brểh Mạ Phó Văn phòng Uỷ ban nhân dân huyện Đạ Tẻh

272
31 Điểu K’Giắc Mạ Bí thư xã Đồng Nai, Thượng Cát Tiên

32 Đa Cát Ha Tư Mnông Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã Đạ Tông, Đam Rông

33 Kon Yông K’Khét Mnông Phó Hiệu trưởng xã Đạ M’Rông, Đam Rông

34 Ngô Văn Nguyên Hoa Phó Bí thư, KP1, Phường 2, TP. Đà Lạt

TỈNH LẠNG SƠN


1 Vy Văn Thành Tày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
Uỷ viên Ban Thường vụ tỉnh uỷ, Trưởng Ban Dân
2 Linh Văn Tít Nùng
vận tỉnh
3 Mông Văn Sông Nùng Phó Ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh
Tỉnh uỷ viên, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
4 Nông Thị Lâm Tày
Việt Nam tỉnh
5 Đặng Thị Kiều Vân Tày Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
Tỉnh uỷ viên, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản
6 Đoàn Thị Hậu Tày
Hồ Chí Minh tỉnh
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
7 Nông Ngọc Tăng Tày
thôn tỉnh
8 Nông Văn Định Tày Phó Giám đốc Sở Công an
9 Triệu Sành Lẩy Dao Trưởng Ban Dân tộc tỉnh
10 Hoàng Kim Sơn Tày Phó Cục trưởng Cục thuế
11 Vi Đình Diêm Tày Phó Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh

12 Vi Thị Vời Tày Cán bộ, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh

13 Nông Thị Hải Oanh Tày Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ BCH Biên phòng tỉnh

14 Lý Hùng Chiến Nùng Phó Giám đốc Công ty than Na Dương

15 Lương Minh Thuận Tày Bí thư Đảng uỷ Công ty Cổ phần Xi măng

16 Lương Thu Hương Tày Giám đốc Công ty TNHH Hưng Thịnh, Lạng Sơn

17 Đoàn Thị Hoàn Tày Phó Bí thư huyện uỷ, huyện Chi Lăng
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Chi Lăng,
18 Lăng Văn Thạch Nùng
huyện Chi Lăng
19 Vi Thị Thơm Tày Nông dân thị trấn Chi Lăng, huyện Chi Lăng

273
20 Long Văn Sơn Nùng Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ, huyện Hữu Lũng

21 Hà Quốc Am Nùng Chủ tịch Hội chữ thập đỏ xã Thanh Sơn, Hữu Lũng

22 Mã Thị Lý Nùng Chủ tịch Hội Nông dân xã Minh Sơn, Hữu Lũng

23 Lý Minh Tâm Nùng Cựu chiến binh thôn Lùng Pá, Tân Đoàn, Văn Quan

24 Phùng Thị Bình Nùng Chủ tịch Hội Nông dân xã Văn An, Văn Quan

25 Hoàng Thị Thùy Tày Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Bình Gia

26 Viên Văn Nghiệp Nùng Trưởng thôn Tồng Nộc, Thiện Long, Bình Gia

27 Dương Công Diệu Tày Bí thư Huyện uỷ Bắc Sơn

28 Hoàng Thị Bền Nùng Phó Bí thư thôn Bản Cầm, Vạn Thủy, Bắc Sơn

29 Triệu Thị Tân Nùng Nông dân thôn Bình An II, Tân Thành, Bắc Sơn

30 Hoàng Văn Cò Nùng Nông dân thôn Hồng Tiến, Nhất Tiến, Bắc Sơn

31 Lý Thị Thành Nùng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Cao Lộc

32 Triệu Múi Cói Dao Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Mẫu Sơn, Cao Lộc

33 Hứa Văn Đạo Nùng Bí thư Chi bộ thôn Bản Giếng, Lộc Yên, Cao Lộc

34 Hoàng Đức Hậu Tày Chủ tịch Hội Nông dân xã Quan Bản, Lộc Bình

35 Lộc Thị Cú Nùng Giám đốc Công ty Bảo hiểm xã hội huyện Lộc Bình

36 Mã Văn Giai Nùng Bí thư Huyện uỷ huyện Đình Lập

37 Triệu Hiệu Tú Dao Trưởng thôn Khe Buông, Lâm Ca, huyện Đình Lập

38 Đặng Khang Tày Cán bộ hưu trí thị trấn Đình Lập, huyện Đình Lập

39 Hà Phan Huy Nùng Trưởng phòng Dân tộc & Tôn giáo huyện Văn Lãng
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Hoàng Văn Thụ,
40 Hoàng Quốc Khợ Tày
Văn Lãng
Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã
41 Lương Văn Dầu Nùng
Đề Thám, Tràng Định
42 Triệu Thị Lóng Nùng Hội Phụ nữ xã Kim Đồng, Tràng Định
43 Lô Văn Bảo Nùng Chủ tịch Hội cựu chiến binh xã Tân Tiến, Tràng Định
44 Vi Đức Được Nùng Bí thư Thành uỷ, thành phố Lạng Sơn
45 Ngô Tiến Dũng Nùng Phó Trưởng Công an thành phố Lạng Sơn

274
Phó Bí thư đảng uỷ xã Hoàng Đồng, thành phố
46 Vy Văn Khính Tày
Lạng Sơn
Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, thành phố
47 Hoàng Thị Huyền Nùng
Lạng Sơn

TỈNH LÀO CAI


Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng
1 Sùng Chúng Mông
nhân dân tỉnh
2 Lý Quang Cấn Mông Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh

Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Dân


3 Hoàng Thị Cháng Mông
vận và Dân tộc Tỉnh uỷ

4 Giàng Seo Thào Mông Trưởng Ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh

5 Cứ Thị Dung Mông Phóng viên Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh

6 Lý Văn Hải Dao Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

7 Nông Văn Hưng Tày Giám đốc Sở Tài chính

8 Hoàng Minh Ngọc Tày Giám đốc Sở Công an

9 Sí Xuân Kìn Giáy Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

10 Giàng Seo Hòa Mông Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Si Ma Cai

11 Lý Seo Dìn Mông Bí thư Huyện uỷ huyện Bắc Hà

12 Nguyễn Hữu Thể Mường Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Bát Xát

13 Giàng Seo Vần Mông Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Bảo Yên

14 Giàng Mạnh Nhà Mông Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Mường Khương

15 Giàng Thị Lan Mông Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Sa Pa

16 Bàn Quốc Cương Dao Phó Ban Dân vận và Dân tộc Huyện uỷ Bảo Thắng

17 Hoàng Hữu Trạch Tày Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Văn Bàn

18 Hoàng Đức Ngọt Nùng Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự huyện Bảo Yên

Phó trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông


19 Tạ Thị Sìn Giáy
thôn huyện Bát Xát

275
20 Sùng Phà Sủi Phù Lá Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Nậm Đét, huyện Bắc Hà
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã
21 Sùng A Mềnh Mông
Thào Chư Phìn, Si Ma Cai
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã San Sảo Hồ,
22 Vàng Thị Mảo Mông
Sa Pa
23 Châu A Sình Mông Bí thư Đảng uỷ xã Sử Pán, Sa Pa
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Thải Giàng Phố,
24 Ly Thị Cở Mông
Bắc Hà
25 Vàng A Sáng Mông Nông dân xã Nậm Chày, Văn Bàn

26 Lý Xuân Thành Mông Bí thư Đảng uỷ xã Sín Chéng, Si Ma Cai

27 Tẩn Mùi Nẩy Dao Nông dân xã Thanh Phú, Sa Pa

28 Triệu Kim Phúc Dao Nông dân xã Phú Nhuận, Bảo Thắng

29 Triệu Thị Tư Dao Nông dân xã Văn Sơn, Văn Bàn

30 Lương Thị Sín Tày Chi Hội Phụ nữ phường Pom Hán, TP. Lào Cai

31 Hoàng Thị Tím Tày Nông dân xã Dương Quỳ, Văn Bàn

32 Trần Thị Lim Nùng Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Long Khánh, Bảo Yên
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Bản Sen,
33 Nông Thanh Lương Nùng
Mường Khương
34 Vàng Thị Môi Nùng Nông dân xã Cốc Ly, Bắc Hà

35 Lù Thị Phương Nùng Nông dân xã Nậm Chảy, Mường Khương

36 Hoàng Thị Hường Giáy Nông dân xã Cốc San, Bát Xát

37 Triệu Thị Thêu Giáy Nông dân xã Kim Sơn, Bảo Yên

38 Vàng Hữu Lương Giáy Nông dân phường Xuân Tăng, TP. Lào Cai

39 Sần Cháng Giáy Chủ tịch Hội người cao tuổi xã Tả Van, Sa Pa

40 Ly Giờ Có Hà Nhì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Y Tý, Bát Xát

41 Lý Đo Dừa Hà Nhì Nông dân xã Bản Qua, Bát Xát


Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Bản Nhai I, xã Kim Sơn,
42 Hà Thị Tới Phù Lá
Bảo Yên
43 Sài Chúng Phìn Phù Lá Nông dân xã Phong Niên, Bảo Thắng

44 Lù Trá Mìn La Chí Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Si Ma Cai, Si Ma Cai

276
45 Lý Văn Phong La Chí Nông dân xã Nậm Khánh, Bắc Hà

46 Sầm Hùng Lèng Bố Y Dịch vụ, phường Phố Mới, TP. Lào Cai

47 Lồ Lài Sửu Bố Y Nông dân xã Thanh Bình, Mường Khương

48 Lồ Dìn Sửu Bố Y Nông dân xã Tung Chung Phố, Mường Khương

49 Giàng Sử Diu Bố Y Nông dân xã Gia Phú, Bảo Thắng

TỈNH NGHỆ AN
1 Vi Hải Thành Thái Bí thư Huyện uỷ huyện Kỳ Sơn

2 Cụt Thị Nguyệt Khơ-mú Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Kỳ Sơn

3 Xeo Văn Nam Khơ-mú Bí thư Đảng uỷ xã Bắc Lý, Kỳ Sơn

4 Moong Phò Hoan Khơ-mú Bí thư Đảng uỷ xã Bảo Thắng, Kỳ Sơn

5 Và Phái Tểnh Mông Người có uy tín xã Mường Lống, Kỳ Sơn

6 Vừ Mái Lìa Mông Cán bộ xã Tà Cạ, Kỳ Sơn

7 Lo Văn Nghệ Ơ Đu Nông dân xã Nga My, Tương Dương

8 Lo Văn Hồng Ơ Đu Chủ tịch Hội Nông dân xã Nga My, Tương Dương

9 Lương Thị Hồng Ơ Đu Nông dân xã Nga My, Tương Dương

10 Lo Văn Thỏa Ơ Đu Học sinh Tiểu học xã Nga My, Tương Dương

11 Lo Thùy Dương Ơ Đu Học sinh THCS xã Nga My, Tương Dương


12 Và Xay Pó Mông Nông dân xã Nhôn Mai, Tương Dương
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện
13 Kha Thị Hoan Thái
Tương Dương
14 Vi Xuân Giáp Thái Bí thư Huyện uỷ Con Cuông

15 La Thế Kỷ Thổ Bí thư Chi bộ bản Châu Sơn, xã Châu Khê, Con Cuông

16 La Thị Thắng Thổ Cán bộ Trạm KNKL Con Cuông

17 Vi Xuân Lộc Thái Bí thư Đảng uỷ xã Thành Sơn, Anh Sơn

18 Lữ Đình Thi Thái Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Quế Phong

19 Moong Thị Thư Khơ-mú Nông dân xã Tri Lễ, Quế Phong

277
20 Xồng Y Xìa Mông Chi hội Phụ nữ bản, xã Tri Lễ, Quế Phong

21 Cụt Thị Mai Khơ-mú Nông dân xã Quế Sơn, Quế Phong

22 Lang Thị Hồng Thái Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Quỳ Châu

23 Kim Văn Duyên Thái Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Châu Bình, Quỳ Châu

24 Lữ Thị Phương Thái Nông dân xã Châu Hội, Quỳ Châu

25 Ngân Thị Hồng Thái Trưởng Ban Dân vận huyện Quỳ Hợp

26 Cao Thanh Long Thổ Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Quỳ Hợp

27 Trương Quang Lập Thổ Bí thư Đảng uỷ xã Tam Hợp, Quỳ Hợp

28 Sầm Văn Bình Thái Nông dân xã Châu Cường, Quỳ Hợp

29 Trương Thị Sứ Thổ Nông dân xã Nghĩa Xuân, Quỳ Hợp

30 Vi Văn Đinh Thái Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Nghĩa Đàn
Phó văn phòng Hội đồng nhân dân-Uỷ ban nhân
31 Hoàng Văn Thái Thổ
dân huyện Nghĩa Đàn
32 Trương Thị Nhung Thổ Xóm trưởng xã Nghĩa An, Nghĩa Đàn

33 Đinh Quốc Khánh Thổ Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tân Kỳ
Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Tân
34 Nguyễn Văn Tân Thổ
Hợp, Tân Kỳ
35 Lô Thị Hiền Thái Bác sĩ Bệnh viện Đa khoa huyện Tân Kỳ
Bí thư Chi bộ bản Tân Lập, xã Thanh Sơn,
36 Vi Tuyền Quynh Thái
Thanh Chương
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Tân
37 Vi Văn Hồng Thái
Thắng, Quỳnh Lưu
38 Hồ Thị Thanh Thổ Bí thư Chi bộ xã Nghĩa Tiễn, thị xã Thái Hòa
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng Ban Dân
39 Lương Quang Kình Thái
tộc tỉnh
Uỷ viên Ban Chấp hành Tỉnh uỷ, Phó Trưởng Ban
40 Lữ Kim Duyên Thái
Dân vận Tỉnh uỷ
Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
41 Vừ Chông Pao Mông
tỉnh (người có uy tín cao trong đồng bào Mông)
42 Lô Trung Thành Thái Phó Giám đốc Sở văn hóa Thể thao và Du lịch
43 Lữ Văn Tường Thái Phó Giám đốc Sở Công an

278
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển
44 Vi Lưu Bình Thái
nông thôn
Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên
45 Vi Hải Việt Thái
phòng tỉnh
Phó Ban chỉ đạo Xây dựng Hệ thống Chính trị cơ
46 Vi Tố Định Thái sở tỉnh - Nguyên Phó Chỉ huy trưởng Ban Chấp
hành biên phòng tỉnh

TỈNH NINH BÌNH


Giáo viên Trường Trung học Phổ thông Dân tộc
1 Đinh Thị Ngoan Mường
nội trú Ninh Bình
2 Quách Văn Chạc Mường Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh
3 Nguyễn Thị Hằng Mường Bí thư Đoàn xã Yên Sơn, thị xã Tam Điệp
4 Đinh Huy Láng Mường Bí thư Đảng uỷ xã Kỳ Phú, Nho Quan
Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân xây dựng Xuân
5 Bùi Xuân Cộng Mường
Hòa, xã Thạch Bình, Nho Quan

TỈNH NINH THUẬN


Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân
1 Chamaléa Bốc Ra-glai
dân tỉnh

2 Pi Năng Thị Thuỷ Ra-glai Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Bác Ái

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, xã


3 Chamaléa Châu Ra-glai
Phước Trung, Bác Ái

4 Pi Năng Nhật Ra-glai Phó Trưởng Công an huyện Bác Ái

Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện


5 Chamaléa Ượng Ra-glai
Thuận Bắc
6 Cao Văn Đen Ra-glai Bí thư Chi bộ thôn Cầu Gãy, xã Vĩnh Hải, Ninh Hải

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,


7 Pi Năng Thạnh Ra-glai
xã Phước Trung, Bác Ái

8 Cao Phai Ra-glai Nguyên Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

9 Trượng Ngọc Anh Chăm Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

10 Quảng Tài Chăm Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

279
Đại biểu QH, Hiệu trưởng Trường phổ thông
11 Đàng Thị Mỹ Hương Chăm
Dân tộc nội trú

12 Lưu Nào Chăm Phó Bí thư Huyện uỷ Ninh Phước

13 Quảng Đủ Chăm Phó Cả sư tộc Chăm Bàlamôn Ninh Phước


Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Thành Hải,
14 Thạch Ngọc Sinh Chăm
Ninh Hải
15 Bá Bình Yên Chăm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận Nam

16 Thuận Sa Pa Chăm Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Bắc Sơn, Thuận Bắc

17 Trượng Văn Thọ Chăm Phó Giám đốc Sở Y tế

18 Hán Văn Chấn Chăm Chuyên viên Sở Khoa học và Công nghệ

19 CillPam Mơ Lam Cơ-ho Cán bộ trung tâm Văn hoá Thông tin tỉnh

20 Chamaléa Ha Dương Cơ-ho Trưởng thôn Gòn, xã Lâm Sơn, Ninh Sơn

21 K’ Tân Ra-glai Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Bắc Ái

TỈNH PHÚ THỌ


1 Đinh Ngọc Thanh Mường Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ Yên Lập

2 Đinh Thị Hợi Mường Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Yên Lập

3 Triệu Văn Tiên Dao Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Thượng Long, Yên Lập

4 Nguyễn Thị Thủy Mường Nông dân sản xuất giỏi xã Xuân Thủy, Yên Lập

5 Phùng Văn Tiến Mường Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ Thanh Sơn

6 Đinh Công Thực Mường Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Sơn
Giám đốc Công ty TNHH Khai thác đá Hương Cần,
7 Đinh Văn Minh Mường
Thanh Sơn
8 Đinh Thị Hường Mường Trưởng Ban Dân vận huyện Thanh Sơn
Bí thư Chi bộ, Trưởng Khu Hạ Thành, xã Tân Lập,
9 Đặng Đình Điện Dao
Thanh Sơn
10 Bùi Đức Nhẫn Mường Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tân Sơn

11 Nguyễn Xuân Thịnh Mường Bí thư Huyện uỷ Tân Sơn

280
12 Hà Thị Khóa Mường Hộ sản xuất kinh doanh giỏi xã Văn Luông, Tân Sơn

13 Bàn Xuân Lâm Dao Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Xuân Sơn, Tân Sơn

14 Đinh Thanh Hùng Mường Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Yến Mao, Thanh Thủy

15 Hà Văn Hải Sán Chay Bí thư Chi bộ xã Hùng Long, Đoan Hùng

16 Trần Xuân Vượng Sán Chay Thường trực Đảng uỷ xã Minh Phú, Đoan Hùng

17 Sầm Xuân Sinh Sán Chay Già làng xã Ngọc Quan, Đoan Hùng

18 Hà Đức Quảng Mường Phó Trưởng ban phụ trách Ban Dân tộc tỉnh

19 Nguyễn Thế Anh Mường Phó Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

20 Hà Thị Hương Mường Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh

TỈNH PHÚ YÊN


Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
1 Y Thông Ê-đê
huyện Sông Hinh
2 Lê Mô Tu Ê-đê Bí thư Đảng uỷ, thị trấn Hai Riêng, huyện Sông Hinh
Phó buôn Lê Diêm, thị trấn Hai Riêng, huyện
3 KPắ H Bin Ê-đê
Sông Hinh
4 Lương Văn Lách Chăm Phó Chủ tịch UBMT Tổ quốc Việt Nam huyện Sơn Hòa
5 Minh Thị Kim Thanh Chăm Phó Hiệu trưởng Trường PTDTNT tỉnh
6 Ma Việt Chăm Bí thư Đảng uỷ xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Chủ tịch Uỷ ban Mặt
7 Bá Thanh Kia Ba-na
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
8 La Văn Tỷ Ba-na Phó Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

TỈNH QUẢNG BÌNH


1 Hồ Thị Thoi Bru-Vân Kiều Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Trọng Hóa, Minh Hóa

2 Cao Văn Minh Chứt Trưởng bản Lương Năng, xã Hóa Sơn, Minh Hóa

3 Cao Tiến Thuỳnh Chứt Bí thư Chi bộ bản Mò o ố ồ, Thượng Hóa, Minh Hóa

4 Cao Chí Hùng Chứt Trưởng bản Cà Xen, Thanh Hóa, Tuyên Hóa

281
5 Đinh Hợp Bru-Vân Kiều Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Thượng Trạch, Bố Trạch
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã
6 Hồ Thị Con Bru-Vân Kiều
Trường Sơn, Quảng Ninh
7 Hồ Văn Thảo Bru-Vân Kiều Bí thư Đảng uỷ xã Kim Thủy, Lệ Thủy

TỈNH QUẢNG NAM


Giáo viên Trung tâm ngoại ngữ - tin học
1 Trần Thoại Anh Hoa
Trường Đại học Quảng Nam
Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân
2 Hồ Thanh Bá Xơ-đăng
huyện Nam Trà My
Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Hội
3 Nguyễn Bằng Cơ-tu
đồng nhân dân huyện Đông Giang
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Tà Bhing,
4 A Viết Thị Bông Cơ-tu
Nam Giang
5 Châu Thị Minh Định Co Chánh án Tòa án nhân dân huyện Bắc Trà My
6 Bờ Nướch Thị Bích Hiền Cơ-tu Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện đoàn Nam Giang
Hộ kinh doanh giỏi thị trấn Tiên Kỳ, huyện
7 Tôn Thạnh Hiệp Hoa
Tiên Phước
8 Nguyễn Thị Thu Hồng Gié-Triêng Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phước Sơn
9 Nguyễn Thị Huệ Xơ-đăng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Trà Tập, Nam Trà My
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã
10 Trần Văn Huệ Co
Tam Trà, Núi Thành
11 Đinh Thị Kim Cơ-tu Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tây Giang
12 Y Kông Cơ-tu Cán bộ lão thành cách mạng huyện Đông Giang
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
13 Nguyễn Thị Minh Lành Xơ-đăng
huyện Bắc Trà My
Tỉnh uỷ viên, Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Uỷ
14 Bh’riu Liếc Cơ-tu
ban nhân dân huyện Tây Giang
Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Hội
15 Phong Luôn Cơ-tu
đồng nhân dân huyện Nam Giang
Uỷ viên Ban Thường vụ tỉnh uỷ, Đại biểu quốc
hội khóa XII, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh, Trưởng
16 Đinh Mướk Xơ-đăng
ban tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu
số tỉnh Quảng Nam

282
Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân
17 Chờ Rum Nhiên Gié-Triêng
dân huyện Nam Giang
Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân
18 Hồ Văn Ny Xơ-đăng
dân huyện Nam Trà My
Tổ trưởng Tổ đoàn kết thôn Trà Sung, xã
19 Nguyễn Văn Phụng Co
Tam Lãnh, Phú Ninh
20 Lê Thị Quyết Cơ-tu Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Đông Giang
Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Hội
21 Huỳnh Tấn Sâm Co
đồng nhân dân huyện Bắc Trà My
Uỷ viên Thường vụ, Chỉ huy trưởng cơ quan
22 Arất Thọ Cơ-tu
Quân sự huyện Tây Giang
Thường vụ Huyện uỷ, Phó Chủ tịch Uỷ ban
23 Lê Thị Thủy Cơ-tu
nhân dân huyện Đông Giang
Chủ tịch Hội cựu chiến binh xã ĐắcPring,
24 Hiên Vôl Gié-Triêng
Nam Giang

Uỷ viên Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam


TP. Hội An, đại biểu Hội đồng nhân dân
25 Tạ Tấn Vũ Hoa
phường Minh An, thành viên Ban trị sự
Hội quán Phước Kiên, TP. Hội An
Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân
26 Đỗ Văn Xuân Gié-Triêng
huyện Phước Sơn

TỈNH QUẢNG NGÃI


1 Đinh Hoài Bắc Hrê Phó Giám đốc Sở Công an

2 Đinh Thị Loan Hrê Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

3 Phạm Viết Nho Hrê Bí thư Huyện uỷ huyện Ba Tơ

4 Đinh Thị Biểu Hrê Bí thư Huyện uỷ huyện Minh Long

5 Đinh Văn Dép Hrê Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Hà

6 Đinh Văn Siêng Hrê Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Minh Long

7 Đinh Minh Hoái Hrê Nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

8 Phạm Thanh Nghìn Hrê Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

283
9 Phạm Thị Biên Hrê Chủ tịch Cựu chiến binh xã Nghĩa Thọ, Tư Nghĩa
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân xã
10 Đinh Banh Hrê
Sơn Thành, Sơn Hà

11 Sang Lâm Biên Hrê Nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Sơn Hà

12 Phạm Văn Thọ Hrê Nguyên Bí thư Huyện uỷ Ba Tơ

13 Hồ Văn Thế Co Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Trà Bồng

14 Hồ Minh Sơn Co Nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Trà Bồng

15 Lê Thị Hồng Hải Co Bí thư Huyện đoàn Trà Bồng

16 Hồ Quang Minh Co Nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Trà Bồng

17 Đinh Thị Hoa Sen Co Giáo viên Trường THPT Trà Bồng

18 Hồ Thanh Hùng Co Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tây Trà

19 Hồ Ngọc Hùng Co Trưởng Ban Dân vận Huyện uỷ Tây Trà

20 Hồ Thị Hưng Co Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tây Trà

21 Đinh Như Tro Xơ-đăng Bí thư Huyện uỷ huyện Sơn Tây

22 Lê Văn Đường Xơ-đăng Nguyên Bí thư Huyện uỷ huyện Tây Trà

23 Đinh Kà Để Xơ-đăng Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự huyện Sơn Hà

24 Đinh Thị Minh Hoa Xơ-đăng Trưởng phòng Nội vụ huyện Sơn Tây

25 Đinh Thị Diểm Thoa Xơ-đăng Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Sơn Tây

TỈNH QUẢNG NINH


1 Triệu Đức Hương Dao Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Hoành Bồ

2 Hoàng Mít Tày Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Ba Chẽ

3 Lô Văn Chắn Tày Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Bình Liêu

4 Lý Thị Hoa Tày Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Đầm Hà

Phó Phòng Nghiệp vụ Văn hóa - Sở Văn hoá -


5 Trương Thị Bích Hường Dao
Thể thao và Du lịch

284
6 Ân Thị Thìn Sán Dìu Phó Chánh Thanh tra - Ban Dân tộc tỉnh

7 Nềnh Quốc Sinh Sán Chay Bí thư Đảng uỷ xã Quảng Lâm, Đầm Hà

8 Nình A Cun Sán Chay Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Đại Dực, Tiên Yên

Trưởng bản Long Sông Nà Pò xã Hoành Mô,


9 Chíu Phúc Bảo Dao
Bình Liêu

10 Tằng Phúc Sìn Dao Trưởng thôn Mốc 13 xã Quảng Đức, Hải Hà
Bí thư Chi bộ thôn Quế Sơn, xã Đông Ngũ,
11 Chíu Sìn Sằn Dao
Tiên Yên
12 Từ Văn Lâm Sán Dìu Giám đốc Xí nghiệp Đá Phú Cường, TX. Cẩm Phả

13 Liêu Quý Thuận Sán Dìu Già làng thôn Đầm Tròn, xã Bình Dân, Vân Đồn

14 Hà Ngọc Quỳnh Hoa Giám đốc Công ty TNHH Thuấn Quỳnh, huyện Hải Hà

15 Vắn Tuyết Mai Hoa Cán bộ Trung tâm chính trị Huyện uỷ Ba Chẽ

TỈNH QUẢNG TRỊ


1 Hồ Văn Pờn Pa-cô Nguyên Bí thư Huyện uỷ huyện Hướng Hoá

2 Hồ Xuân Nhờ Vân Kiều Bí thư Huyện uỷ huyện Hướng Hoá

Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Hướng Việt,


3 Hồ Văn Thành Vân Kiều
huyện Hướng Hoá

4 Hồ Mơ Pa-cô Uỷ viên Hội Cựu chiến binh xã A Dơi, huyện Hướng Hoá

5 Hồ Thị Lý Vân Kiều Hưu trí xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hoá

6 Hồ Thanh Bân Vân Kiều Bí thư Huyện uỷ huyện Đakrông

7 Hồ Thị Kim Cúc Pa-cô Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Đakrông

8 Hồ Thị Tâm Pa-cô Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã A Vao, Đakrông

9 Hồ Quang Chiến Vân Kiều Già làng thôn Hà Bạc, xã Hướng Hiệp, Đakrông

10 Hồ Văn Ngãi Vân Kiều Phó Bí thư Đảng uỷ xã Linh Thượng, Gio Linh

11 Hồ Viết Tà Vân Kiều Phó Bí thư Đảng uỷ xã Vĩnh Khê, Vĩnh Linh

12 Hồ Văn Núi Vân Kiều Phó Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

285
TỈNH SÓC TRĂNG
1 Thạch Kim Sêng Khmer Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
2 Lâm Ren Khmer Trưởng Ban Dân tộc tỉnh
3 Lâm Phương Khmer Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
4 Trà Phol Khmer Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh
5 Lý Thị Sẩm Khmer Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
6 Danh Phương Khmer Chánh Văn phòng Ban Dân tộc tỉnh
Hoà thượng trụ trì chùa Cần Đước, xã Thạnh Phú,
7 Dương Nhơn Khmer
Mỹ Xuyên
Hoà thượng trụ trì chùa Khleng, phường 6, TP.
8 Tăng Nô Khmer
Sóc Trăng
Gia đình hiếu học tiêu biểu xuất sắc, ấp Preychóp B,
9 Nghiêm Sang Khmer
xã Lai Hòa, Vĩnh Châu

10 Lý Quang Hoa Chủ Doanh nghiệp tư nhân, huyện Vĩnh Châu

11 Thạch Thanh Hoa Khmer Giám đốc Trung tâm Dạy nghề huyện Vĩnh Châu

12 Huỳnh Phến Hoa Chủ tịch Hội Tương tế người Hoa TP. Sóc Trăng

13 Sơn Nưl Khmer Nông dân tiêu biểu phường 5, TP. Sóc Trăng

14 Ngô Huế Phương Hoa Chủ Doanh nghiệp tư nhân, TP. Sóc Trăng

15 Trần Thị Cúc Khmer Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân TP. Sóc Trăng

Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã Phú Tâm,


16 Trần Cang Hoa
Châu Thành

17 Lâm Văn Mẫn Khmer Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Châu Thành

Hiệu trưởng Trường tiểu học Phú Tân B,


18 Trần Thị Ngọc Liêng Khmer
huyện Châu Thành

19 Lý Thuận Khmer Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Kế Sách

20 Thạch Thuôl Khmer Gia đình hiếu học huyện Kế Sách

21 Thạch Sanh Khmer Nông dân tiêu biểu huyện Long Phú

Trưởng Ban Quản trị Chùa Bưng Thniết, xã Liêu Tú,


22 Trần Liêu Khmer
Long Phú

286
23 Lý Đông Khmer Nông dân tiêu biểu huyện Thạnh Trị

24 Sơn Thị Vành Đa Khmer Hiệu trưởng Trường Dân tộc nội trú huyện Mỹ Tú

25 Thạch Tạ Khmer Bí thư Đảng uỷ xã Phú Mỹ, Mỹ Tú

Chủ nhiệm Hợp tác xã làng nghề dệt chiếu huyện


26 Trà Thị Suôl Khmer
Mỹ Xuyên

27 Lý Sên Khmer Nông dân tiêu biểu huyện Mỹ Xuyên

28 Lư Tú Linh Hoa Nông dân tiêu biểu huyện Mỹ Xuyên

29 Huỳnh Trúc Vũ Hoa Nông dân tiêu biểu huyện Cù Lao Dung

Chuyên viên Ban điều hành Chương trình 135


30 Trần Minh Chánh Hoa
huyện Ngã Năm

TỈNH SƠN LA
Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí Thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch
1 Thào Xuân Sùng Mông Hội đồng nhân dân tỉnh, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc
hội tỉnh
2 Hoàng Chí Thức Thái Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch Hội
3 Cầm Ngọc Minh Thái
đồng nhân dân tỉnh
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Giám đốc Sở
4 Lò Thanh Hay Thái
Công an
5 Thào A Giàng Mông Tỉnh uỷ viên, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh
Tỉnh uỷ viên, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
6 Thào Sếnh Páo Mông
Nam tỉnh
Tỉnh uỷ viên, Phó Trưởng Đoàn đại biểu
7 Cầm Chí Kiên Thái
Quốc hội tỉnh
Chính uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La - Bộ Chỉ
8 Hà Duy Hom Thái
huy Bộ đội biên phòng tỉnh
9 Hoàng Sương Kháng Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh
10 Đinh Thị Tuân Mường Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ Bắc Yên
11 Mùa Thị Máy Mông Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Bắc Yên
12 Lò Văn Phong Thái Trưởng bản Cáo Đa I, xã Phiêng Ban, Bắc Yên

287
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Háng Đồng,
13 Mùa Thị Tháy Mông
Bắc Yên
Phó Bí thư Huyện uỷ - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
14 Cầm Văn Thanh Thái
huyện Mai Sơn
15 Lò Thị Ươm Thái Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Chiềng Mai, Mai Sơn
16 Cà Thị Păn Thái Công nhân Công ty CP Nông nghiệp Chiềng Sung
Bí thư Chi bộ bản Nà Rờm, xã Chiềng Lương,
17 Lò Văn Quý Xinh-mun
Mai Sơn
18 Lò Văn Trường Thái Bí thư Chi bộ bản Cò Nòi, xã Cò Nòi, Mai Sơn
19 Mè Thị Sơ Khơ-mú Bí thư Chi bộ bản Co Trai, xã Hát Lót, Mai Sơn
20 Lò Văn Mến Thái Bí thư Huyện uỷ Quỳnh Nhai
Chi hội trưởng Hội Phụ nữ bản Tốm, xã Nặm Ét,
21 Lò Thị Phương La Ha
Quỳnh Nhai
Hội viên Hội Nông dân bản Bung, xã Mường Giàng,
22 Lò Thị Nổi La Ha
Quỳnh Nhai

23 Quàng Văn Họp Kháng Bí thư Chi bộ bản Ngáy, xã Liệp Muội, Quỳnh Nhai

24 Mùa Thị Sinh Mông Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Mường La

25 Quàng Văn Hay Kháng Người có uy tín bản Pá Pù, xã Nặm Dôn, Quỳnh Nhai

26 Lò Văn Son La Ha Trưởng bản Lọng Bong, xã Hua Trai, Mường La

Bí thư Chi bộ bản Hin Hon, xã Mường Bú,


27 Quàng Văn Phạo La Ha
huyện Mường La
Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
28 Lò Quân Hiệp Thái
huyện Sốp Cộp
29 Quàng Văn Chăn Thái Bí thư Đảng uỷ xã Mường Lạng, Sốp Cộp
30 Hà Đức Thiện Lào Cán bộ quân y Đồn biên phòng 453
31 Vi Thị Phượng Lào Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Sốp Cộp
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường Chiềng Ang,
32 Tòng Văn Pâng Thái
TP. Sơn La
33 Lường An Thái Nguyên Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
34 Mùi Thị Hiền Mường Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
Nguyên Uỷ viên Ban thường vụ tỉnh uỷ,
35 Lò Văn Sôn Thái
Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

288
36 Cầm Thị Chiêu Thái Nguyên Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo

37 Lường Thị Chum Thái Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ huyện Thuận Châu

38 Lò Văn Lo La Ha Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã Noong Lay, Thuận Châu

Chi Hội trưởng Phụ nữ Bản Kéo Sáo, Phỏng Lập,


39 Quàng Thị Chiến Kháng
huyện Thuận Châu

40 Cầm Văn Lung Thái Giám đốc doanh nghiệp Nặm Muồi, huyện Thuận Châu

Nguyên Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến và Hành chính


khu căn cứ cách mạng Long Hẹ, huyện Thuận Châu,
41 Thào Khua Chỉnh Mông
Nguyên Đội trưởng đội du kích khu căn cứ Long Hẹ,
huyện Thuận Châu

42 Quàng Văn Thích La Ha Bí thư Đảng uỷ xã Liệp Tè, Thuận Châu

43 Giàng Khánh Ly Mông Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Mộc Châu

44 Hà Ngọc Quý Thái Bí thư Đảng uỷ xã Tân Lập, Mộc Châu

45 Vì Thị Sính Xinh-mun Nông dân bản Tong Hán, xã Chiềng Hắc, Mộc Châu

46 Lò Thị Lương Thái Bí thư Đảng uỷ xã Chiềng Khừa, Mộc Châu

Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Chiềng Xuân,


47 Mùa A Giàng Mông
Mộc Châu

48 Hà Thị Kim Oanh Thái Phó Giám đốc Bưu điện huyện Mộc Châu

49 Cầm Thị Ngọc Thái Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Sông Mã

50 Cút Văn Hôm Khơ-mú Giáo viên tiểu học xã Mường Hung, huyện Sông Mã

51 Lò Văn Kiết Xinh-mun Bí thư Chi đoàn bản Nậm Ún, xã Nà Nghịu, Sông Mã

52 Lò Văn Lanh Xinh-mun Công an viên bản Đen, Chiềng Khương, Sông Mã

Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Phụ nữ xã Huổi Một,


53 Lò Thị Yên Xinh-mun
Sông Mã

Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch, Hội đồng


54 Lường Văn Hoàn Thái
nhân dân huyện Yên Châu

55 Vì Văn Khăm Xinh-mun Bí thư Đảng uỷ xã Lóng Phiêng, Yên Châu

56 Lò Văn Thân Xinh-mun Bí thư Chi bộ bản Huổi Cát, xã Chiềng Sơ, Sông Mã

289
Nguyên Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Uỷ ban
57 Tráng Lao Lử Mông
nhân dân xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu
58 Đinh Văn Trường Mường Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ huyện Phù Yên
Bí thư Đảng uỷ - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã
59 Lường Mạnh Cường Thái
Tường Tiến, Phù Yên

60 Vàng Thị Sông Mông Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Suối Tọ, Phù Yên

Giáo viên Trường phổ thông Dân tộc nội trú


61 Nguyễn Thị Hiêng Thái
huyện Phù Yên

62 Thào A Sang Mông Trưởng bản Đá Đỏ, xã Kim Bon, Phù Yên

TỈNH TÂY NINH


1 Danh Ngất Khmer Trưởng ấp Kà Ốt, xã Tân Đông, Tân Châu

2 Đốc Sóc Kha Khmer Già làng xã Hòa Hiệp, Tân Biên

3 Chàm Sá Chăm Trưởng ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo tỉnh

4 Sa Ty Giá Chăm Phó Trưởng ấp Chăm, xã Suối Dây, Tân Châu


Uỷ viên Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị xã
5 Lương Huệ Linh Hoa
Tây Ninh
Ban Đại diện dân tộc Xtiêng, xã Tân Thành,
6 Lâm Thị Mỹ Hà Xtiêng
Tân Châu

TỈNH THÁI NGUYÊN


Uỷ viên Ban Thường vụ tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Uỷ ban
1 Hà Thị Xoan Tày
Kiểm tra Tỉnh uỷ
Uỷ viên Ban Thường vụ tỉnh uỷ, Trưởng Ban Dân
2 Phùng Đình Thiệu Tày
vận Tỉnh uỷ

3 Ma Thị Nguyệt Tày Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

4 Nguyễn Thế Đề Tày Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ

5 Vi Thị Chung Nùng Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh

Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Trung ương


6 Nguyễn Thành Trung Sán Dìu
Thái Nguyên

290
7 Triệu Minh Thái Nùng Trưởng Ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh

8 Nguyễn Văn Lai Tày Trưởng Ban Dân tộc Uỷ ban nhân dân tỉnh

Phó Đội trưởng Phòng Bảo vệ Chính trị 4,


9 Lầu Văn Chinh Mông
Công an tỉnh

10 Ma Thúc Huỳnh Sán Chay Trợ lí tác huấn Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh

11 Hoàng Thị Đặng Sán Chay Giáo viên Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc

12 Mã Minh Huệ Tày Ca sĩ Nhà hát Ca múa Dân gian Việt Bắc

13 Trương Thị Huệ Sán Dìu Bí thư Huyện uỷ huyện Đại Từ

14 Trương Mạnh Kiểm Tày Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Đại Từ

15 Tạc Thị Nam Sán Chay Nông dân xóm 7, xã Hà Thượng, Đại Từ

16 Lương Văn Lành Tày Bí thư Huyện uỷ huyện Định Hóa

17 Viên Thị Hoa Tày Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Định Hóa

Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ, Chủ nhiệm Uỷ


18 Triệu Văn Hà Dao
ban Kiểm tra Huyện uỷ Định Hóa

19 Lường Văn Lợi Sán Chay Bí thư Đảng uỷ xã Phú Đình, Định Hóa

20 Lý Thị Khang Nùng Hội viên Hội Nông dân xã Hồng Tiến, Phổ Yên

21 Hoàng Mạnh Quân Sán Dìu Bí thư Đảng uỷ xã Minh Đức, Phổ Yên

22 Nguyễn Văn Tiệu Tày Bí thư Huyện uỷ huyện Võ Nhai

23 Nông Xuân Bắc Nùng Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Võ Nhai

Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ, Trưởng Ban


24 Nịnh Văn Hào Sán Chay
Tuyên giáo Huyện uỷ Võ Nhai

25 Nguyễn Thị Mai Dao Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Phú Lương
Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Yên Lạc,
26 Lương Phương Nho Sán Chay
Phú Lương
27 Lý Bá Hồ Ngái Nông dân xóm Cây Thị, xã Ôn Lương, Phú Lương
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Cao Ngạn, TP. Thái
28 Nguyễn Văn Thành Sán Dìu
Nguyên

29 Lê Anh Thái Sán Dìu Bí thư Huyện uỷ huyện Đồng Hỷ

291
30 Đặng Đăng Lý Dao Nguyên Trạm trưởng Trạm Y tế xã Hợp Tiến, Đồng Hỷ

31 Thẩm Dịch Thọ Ngái Nông dân xóm Tam Thái, xã Hóa Thượng, Đồng Hỷ

32 Hoàng Thanh Giao Nùng Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình

33 Lăng Phi Long Ngái Giáo viên Trường Trung học Phổ thông Phú Bình

TỈNH THANH HÓA


1 Lô Thị Luân Thái Trưởng Ban Dân vận Tỉnh uỷ

2 Phạm Quốc Ấn Mường Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo

3 Lò Đức Minh Thái Đội trưởng Đội An ninh miền núi, Công an tỉnh

4 Bùi Hồng Tài Mường Phó Chỉ huy trưởng Biên phòng tỉnh

5 Hà Văn Thương Thái Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

6 Lê Quang Tích Mường Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

7 Trương Trọng Tuấn Mường Chuyên viên Sở Tài chính

8 Lê Chí Thi Mường Phó Giám đốc Sở Tư pháp

9 Trịnh Thị Giới Mường Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh

10 Hà Thị Phương Mường Phó Bí thư Tỉnh đoàn

11 Hà Thị Lan Hương Mường Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh

12 Cao Thị Xuân Mường Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh

13 Hà Văn Long Thái Đại biểu tiêu biểu xã Phú Thanh, Quan Hóa

14 Phạm Văn Phượng Mường Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

15 Phạm Văn Thư Thái Phó Ban Dân tộc tỉnh

Hiệu trưởng Trường Trung học Phổ thông Dân tộc


16 Phạm Thị Hà Mường
nội trú tỉnh

17 Hà Văn Duyệt Thái Bí thư Huyện uỷ Mường Lát

18 Sung Thị Xia Mông Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Nhi Sơn, Mường Lát

292
19 Phan Thị Phấy Dao Nông dân bản Quăn Dao, xã Quang Chiểu, Mường Lát

20 Cút Văn Thu Khơ-mú Bí thư Chi bộ bản Đoàn Kết, xã Tén Tằn, Mường Lát

21 Hà Mạnh Hùng Thái Bí thư Huyện uỷ huyện Quan Hóa

22 Hà Thị Hiền Thái Nông dân tiêu biểu thị trấn Quan Hóa

23 Mùa A Lo Mông Bí thư Chi bộ bản Suối Tôn, Phú Sơn, Quan Hóa

24 Lò Đình Múi Thái Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Quan Sơn

25 Lương Văn Huân Thái Nông dân xã Na Mèo, Quan Sơn

26 Thao Văn Chứ Mông Trưởng bản Mùa Xuân, Sơn Thủy, Quan Sơn

27 Bùi Văn Huy Mường Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Bá Thước

28 Lục Văn Tĩnh Thái Bí thư Đảng uỷ xã Cổ Lũng, Bá Thước

29 Bùi Thị Phú Mường Nông dân xã Điền Trung, Bá Thước

30 Hà Chí Phấn Mường Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Lang Chánh

31 Hà Thị Tím Thái Trưởng bản Cháo, xã Lâm Phú, Lang Chánh

32 Lương Văn Đội Thái Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Quang Hiến, Lang Chánh

33 Bùi Trung Anh Mường Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Ngọc Lặc

34 Bàn Văn Quí Dao Trưởng bản Tân Thành, xã Thành Lập, Ngọc Lặc

35 Phạm Thị Châu Mường Bí thư Chi bộ thôn Giang Sơn, xã Thúy Sơn, Ngọc Lặc

36 Bùi Thị Riên Mường Bí thư Huyện uỷ huyện Cẩm Thủy

37 Cao Hồng Quân Mường Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Cẩm Giang, Cẩm Thủy

38 Bàn Thị Hiền Dao Nông dân xã Cẩm Bình, Cẩm Thủy

39 Bùi Trọng Liên Mường Bí thư Huyện uỷ huyện Thạch Thành

40 Nguyễn Thị Lợi Mường Bí thư Đảng uỷ xã Thạch Quảng, Thạch Thành

41 Cầm Bá Xuân Thái Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thường Xuân

42 Lương Thanh Tuyền Thái Trưởng bản Na Nghịu, xã Yên Nhân, Thường Xuân

293
43 Cầm Thị Tuyết Thái Giáo viên Trường Mầm non Xuân Chinh, Thường Xuân

44 Lê Nhân Đồng Thổ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Như Xuân

45 Lê Hà Tĩnh Thổ Bí thư Đảng uỷ xã Xuân Quỳ, Như Xuân


Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Cát Tân,
46 Lê Thị Nhi Thổ
Như Xuân

47 Lê Ánh Hồng Thổ Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Như Thanh

48 Bùi Thị Hồng Mường Chi hội Nông dân xã Yên Lạc, Như Thanh

49 Vi Văn Minh Thái Nông dân xã Xuân Thái, Như Thanh

50 Lê Văn Xứng Mường Bí thư Đảng uỷ xã Xuân Phú, Thọ Xuân

51 Cầm Thị Sâm Thái Nông dân xã Triệu Thành, Triệu Sơn

TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ


1 Hồ On Pa-cô Trưởng Ban Dân tộc tỉnh
2 Trần Xuân Bình Cơ-tu Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Nam Đông
3 Hồ Tứi Cơ-tu Cán bộ hưu trí thôn Dỗi, xã Thượng Lộ, Nam Đông
4 Hồ Trọng Kỳnh Cơ-tu Cán bộ hưu trí thị trấn Khe Tre, huyện Nam Đông
5 Lê Văn Trừ Tà-ôi Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ huyện A Lưới
Cán bộ hưu trí, Anh hùng Lực lượng vũ trang,
6 Hồ Đức Vai Pa-cô
thị trấn A Lưới, huyện A Lưới
Cán bộ hưu trí, Anh hùng Lực lượng vũ trang,
7 Kăn Lịch Pa-cô
thị trấn A Lưới, huyện ALưới
8 Hồ Văn Đoan Tà-ôi Cán bộ hưu trí xã A Ngo, A Lưới
9 Hồ Chí Thời Pa-cô Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện A Lưới
10 Hồ Thị Thanh Xuân Pa-cô Phó Bí thư Huyện uỷ huyện A Lưới
11 Hồ Thị Liên Cơ-tu Chuyên viên Sở Giáo dục và Đào tạo
12 Nguyễn Văn Giờ Pa Hy Chủ tịch Hội Nông dân xã Hồng Tiến
13 Lê Thị Na Pa Hy Bí thư đoàn xã Phong Mỹ, Phong Điền
14 Hồ Văn Phai Vân Kiều Nông dân bản Phúc Lộc, xã Xuân Lộc, Phú Lộc

294
TỈNH TRÀ VINH
1 Thạch Hel Khmer Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ

2 Sơn Minh Thắng Khmer Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh

3 Sơn Thị Ánh Hồng Khmer Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh

4 Thạch Dư Khmer Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

5 Kiên Thanh Khmer Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

6 Thái Văn Thìn Khmer Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh

7 Kim Hồng Danh Khmer Phó Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

8 Thạch Sók Xane Khmer Trưởng ban Trị sự giáo hội Phật giáo Việt Nam

9 Diệp Tươi Khmer Hội trưởng Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh

10 Thạch On Khmer MeKone tỉnh Trà Vinh

11 Huỳnh Thu Hoa Hoa Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

12 Lâm Phú Khmer Cán bộ hưu trí phường 8, thị xã Trà Vinh

13 Thạch Minh Mẫn Khmer Cán bộ hưu trí phường 3, thị xã Trà Vinh

14 Dương Văn Chép Khmer Cán bộ hưu trí ấp Thanh Trì A, xã Đa Lộc

15 Kim Thành Thái Khmer Phó Bí thư Huyện uỷ huyện Trà Cú

16 Kim Song Ven Khmer Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Cầu Ngang

17 Thạch Phân Khmer Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Cầu Kè

18 Thạch Mây Khmer Cán bộ hưu trí xã Hùng Hòa, Tiểu Cần
Hội trưởng Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước, thị xã
19 Thạch Oai Khmer
Trà Vinh
20 Hồng Phùng Quang Hoa Hội trưởng Hội Tương tế người Hoa, thị xã Trà Vinh

21 Trịnh Thanh Võ Hoa Thương mại dịch vụ Khóm 2

22 Thạch Ven Khmer Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Long Khánh

23 Kiên Ngọc Bên Khmer Nông dân sản xuất giỏi huyện Càng Long

295
TỈNH TUYÊN QUANG
1 Nguyễn Văn Chuyền Tày Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Na Hang

2 Hoàng Thị Dấu Dao Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Sinh Long, Na Hang

Hiệu trưởng Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở


3 Nông Thị Thí Tày
xã Thượng Giáp, Na Hang

Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ, Chủ tịch


4 Tô Thị Nhân Tày
Hội đồng nhân dân huyện Chiêm Hóa

5 Hoàng Văn Hòa Tày Trưởng Trạm Y tế xã Bình Phú, Chiêm Hoá

6 Triệu Thị May Pà Thẻn Nông dân thôn Khuổi Hóp, xã Linh Phú, Chiêm Hoá

7 Lý Đức Quân Nùng Phó Bí thư Đảng uỷ xã Trung Hòa, Chiêm Hoá

8 Nông Văn Tuấn Tày Nông dân thôn Kéo Cam, xã Bình Nhân, Chiêm Hoá

Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh xã,


9 Bàn Văn Tiến Dao
Trưởng thôn Đồng Lường, xã Bình Xa, Hàm Yên

10 Nguyễn Thị Hiển Dao Nông dân thôn Ba Trãng, xã Tân Yên, Hàm Yên

11 Vương Thị Duyên Sán Chay Trưởng ban Mặt trận thôn Khuân Then, xã Hùng Đức

Trưởng ban Dân vận Huyện uỷ, Chủ tịch Mặt trận
12 Hứa Văn Tiến Tày
Tổ quốc Việt Nam huyện Hàm Yên

Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Bí thư


13 Triệu Thị Lún Dao
Huyện uỷ huyện Yên Sơn

Uỷ viên Ban thường vụ Huyện uỷ, Trưởng Ban


14 Bế Thị Lĩnh Tày
Dân vận huyện Yên Sơn

Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Chủ tịch


15 Linh Văn Trung Nùng
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Yên Sơn

16 Hoàng Thị Hội Tày Nông dân thôn Làng Quài, xã Lực Hành, Yên Sơn

17 Bàn Thị Hưng Dao Nông dân thôn Bản Pình, xã Trung Minh, Yên Sơn

Đội trưởng Đội công an phụ trách xã, Công an


18 Vương Xuân Kỳ Sán Chay
huyện Yên Sơn

19 Đặng Văn Liên Pà Thẻn Trưởng thôn Tân Minh, xã Kiến Thiết, Yên Sơn

296
Chi Hội trưởng Hội Phụ nữ thôn Khe Cua, xã Đội Cấn
20 Phan Thị Thành Sán Chay
thị xã Tuyên Quang

21 Hoàng Văn Nhiên Tày Nông dân thôn Tân Lập, xã Tân Trào, Sơn Dương

22 Huyên Kỳ Hoa Sán Dìu Giám đốc Xí nghiệp Vonfram Thiện Kế, Sơn Dương

23 Mã Phúc Mai Nùng Đội phó Đội An ninh, Công an huyện, Sơn Dương

24 Sầm Văn Dừn Sán Chay Bí thư Chi bộ thôn Tân Phú, xã Đại Phú, Sơn Dương

Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng,


25 Đỗ Văn Chiến Sán Dìu
Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban
26 Nguyễn Hồng Thắng Tày
Tổ chức Tỉnh uỷ
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Giám đốc
27 Hứa Kiến Thiết Tày
Sở Công an
28 Hà Hữu Chinh Tày Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Trưởng Ban Dân tộc
29 Âu Văn Hành Sán Chay Phó Trưởng Ban Dân tộc
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Chỉ huy trưởng
30 Tiêu Xuân Hồng Sán Chay
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh
31 Bàn Xuân Triều Dao Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

32 Triệu Kim Long Dao Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh

33 Hoàng Thị Thắm Tày Phó Trưởng Ban Dân vận Tỉnh uỷ
Đại biểu Quốc hội khóa XII, Phó Trưởng ban
34 Phan Thị Mỹ Bình Sán Chay
Tuyên giáo Thị uỷ thị xã Tuyên Quang

TỈNH VĨNH LONG


1 Sơn Ry Ta Khmer Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

Giáo viên Trường Mẫu giáo Hướng Dương, xã Loan


2 Thạch Thị Va Ni Khmer
Mỹ, Tam Bình

3 Thạch Thị Phỉ Khmer Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Tân Mỹ, Trà Ôn

4 Trương Thạch Sanh Hoa Chủ tịch Hội Đông y TP. Vĩnh Long

5 Vương Tấn Lợi Hoa Lương y khóm 1, thị trấn Cái Vồn, Bình Minh

297
TỈNH VĨNH PHÚC
1 Trần Văn Sơn Sán Dìu Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

Cao Lan Phó Chánh Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và
2 Trần Thị Kim Hoa
(Sán Chay) Hội đồng nhân dân tỉnh

3 Hoàng Minh Ái Sán Dìu Trưởng phòng Chính sách, Ban Dân tộc tỉnh

4 Dương Văn Sáu Sán Dìu Trưởng phòng PX 16, Sở Công an

5 Lưu Đức Long Sán Dìu Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tam Đảo

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông


6 Diệp Văn Tư Sán Dìu
thôn - Uỷ ban nhân dân huyện Bình Xuyên

7 Lục Thị Vòng Sán Dìu Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc huyện Sông Lô

8 Chu Văn Sáu Sán Dìu Chủ tịch Hội Nông dân huyện Tam Đảo

Phó Tham mưu trưởng, Ban Chỉ huy Quân sự huyện


9 Dương Trung Thắng Dao
Lập Thạch
Cao Lan
10 Sầm Viết Lan Già làng thôn Đồng Dạ, xã Quang Yên, Sông Lô
(Sán Chay)
Bí thư Chi bộ thôn Thành Công, xã Lãng Công,
11 Dương Quỳnh Hương Dao
Sông Lô
Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân Duy Thông, xã
12 Dương Văn Trần Sán Dìu
Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên
Cao Lan Cán bộ phụ trách Thương binh - Xã hội và Dân tộc,
13 Trần Thị Loan
(Sán Chay) Uỷ ban nhân dân xã Quang Sơn, Lập Thạch

14 Đàm Thị Sinh Sán Dìu Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Đạo Trù, Tam Đảo

TỈNH YÊN BÁI


Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
1 Hoàng Thương Lượng Tày
tỉnh, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng Ban Dân
2 Hoàng Thị Hạnh Tày
vận Tỉnh uỷ
Tỉnh uỷ viên, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
3 Sùng A Vàng Mông
Việt Nam tỉnh
Cao Lan
4 Trần Quang Vinh Giám đốc Sở Tư pháp
(Sán Chay)

298
5 Hoàng Trung Năng Tày Trưởng Ban Dân tộc tỉnh

6 Triệu Tiến Thịnh Dao Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ

7 Vương Thị Thoan Nùng Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh
Chỉ huy phó - Tham mưu Trưởng, Bộ Chỉ huy
8 Nông Hồng Lai Tày
Quân sự tỉnh
9 Hoàng Văn Hoàn Tày Phó Giám đốc Sở Công an
Phó Trưởng Ban Dân tộc, Hội đồng
10 Hà Thị Hải Mường
nhân dân tỉnh
11 Vàng A Sàng Mông Phó Giám đốc Bệnh viện tỉnh

12 Hoàng Văn Inh Mường Chánh Văn phòng Thị uỷ Nghĩa Lộ

Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ, Phó Chủ tịch Uỷ


13 Hoàng Thị Chanh Tày
ban nhân dân huyện Văn Chấn

14 Hoàng Hữu Cường Tày Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp Tân Thịnh, Văn Chấn

15 Hà Ngoan Mường Nguyên Bí thư Huyện uỷ Văn Chấn

16 Triệu Đức Trình Dao Nông dân sản xuất giỏi xã Minh An, Văn Chấn

17 Hà Thị Hạnh Tày Nông dân sản xuất giỏi xã Thượng Bằng La, Văn Chấn

18 Hảng Thị Dông Mông Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Bản Công, Trạm Tấu

19 Sùng Tráng Thào Mông Già làng trưởng bản xã Pá Hu, Trạm Tấu

Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân


20 Thào A Sàng Mông
huyện Mù Cang Chải
21 Sùng A Giàng Mông Nông dân sản xuất giỏi xã Khao Mang, Mù Cang Chải
22 Bàn Hữu Quyên Dao Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Văn Yên
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Xã Châu Quế Thượng,
23 Đặng Văn Lả Phù Lá
Văn Yên

24 Hoàng Thị Tuyến Tày Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Mậu Đông, Văn Yên

Công ty TNHH Thương mại Sản xuất - Xuất nhập


25 Giàng Thị Muôn Phù Lá
khẩu Đạt Thành, Văn Yên
Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã
26 Tăng Thị Nguyên Nùng
Liễu Đô, Lục Yên

27 Triệu Thị Nhậy Dao Nông dân sản xuất giỏi xã Phúc Lợi, Lục Yên

299
28 Hoàng Thị Thế Tày Phó Bí thư Đảng uỷ xã Lâm Thượng, Lục Yên
29 Nông Văn Lịnh Tày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Lục Yên
Phó Văn phòng Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân
30 Vy Thị Nguyện Nùng
dân huyện Lục Yên

31 Hoàng Thị Hạ Nùng Thượng úy - Bộ Chỉ huy Quân sự huyện Lục Yên

Phó Bí thư Thường trực, Chủ tịch Hội đồng nhân


32 Nguyễn Thành Công Tày
dân huyện Trấn Yên

33 Hoàng Thị Nhàn Mường Chi Hội trưởng Hội Phụ nữ xã Quy Mông, Trấn Yên

Cao Lan Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ, Chủ nhiệm Uỷ


34 Trần Thị Hồng
(Sán Chay) ban Kiểm tra Huyện uỷ huyện Yên Bình
35 La Thị Hoa Nùng Nông dân sản xuất giỏi xã Bảo Ái, Yên Bình
36 Đặng Văn Nam Dao Trưởng thôn Ngòi Kè, xã Bảo Ái, Yên Bình

300
mục lục
Trang
Lời nói đầu.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam
tại Plâycu ngày 19/4/1946.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản việt nam.. . . . . . . 7
HIẾN PHÁP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NĂM 1946.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
HIẾN PHÁP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NĂM 1959.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1992.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
Nghị quyết Số 22-NQ/TW ngày 27-11-1989 CỦA Bộ Chính trị về một số chủ trương,
chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM BÌNH ĐẲNG, ĐOÀN KẾT, TÔN TRỌNG,
GIÚP NHAU CÙNG PHÁT TRIỂN.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11

NGƯỜI BA-NA. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20 Người hrê. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 84


Người Bố Y. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23 NGƯỜI KHÁNG.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 87
Người BRâu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 26 Người khmer.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 89
Người BRu - Vân Kiều.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 29 Người khơ-mú. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 92
Người chăm.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33 Người La Chí.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 95
Người Chu-ru.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 36 NGƯỜI LA HA.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 99
Người Chơ-Ro.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 39 Người La Hủ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 102
Người chứt.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 42 NGƯỜI LÀO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 105
Người co.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 46 NGƯỜI LÔ LÔ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 108
Người Cống. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 49 Người lự.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 111
Người Cơ-Ho. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 52 Người Mạ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 114
Người Cơ Lao. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 55 NGƯỜI MẢNG.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 117
Người Cơ-tu.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 57 Người Mông.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 119
Người dao.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 60 Người Mnông. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 123
Người Ê-đê. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 64 Người Mường. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 127
Người giáy. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 68 NGƯỜI NGÁI.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 131
Người Gia-Rai. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 71 Người Nùng.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 133
người Gié - Triêng.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 75 Người Ơ Đu.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 136
Người Hà Nhì.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 78 NGƯỜI PÀ THẺN.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 139
người hoa.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 81 NGƯỜI PHÙ LÁ.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 141

301
Người Pu Péo. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 145 Người Tà-Ôi. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 166
Người Ra-glai.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 148 NGƯỜI THÁI.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 170
Người Rơ măm. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 151 Người Thổ.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 175
Người Sán Chay.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 154 Người Việt.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 178
Người Sán Dìu.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 157 Người Xinh-Mun. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 183
NGƯỜI SI LA.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 160 Người Xơ-đăng. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 185
NGƯỜI TÀY. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 162 Người Xtiêng. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 188

CHỈ THỊ CỦA BAN BÍ THƯ.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 194


QUYẾT ĐỊNH Phê duyệt Đề án Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam.. . . . . . . 196
­­KẾ HOẠCH Tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam. . . . 198
Danh sách Ban CHỈ ĐẠO ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 202
Danh sách Ban Tổ chức Đại hội Đại biỂu các dân tộc thiểu số Việt Nam.. . . . . . . . . . . 204
Danh sách thành viên các Tiểu ban của Đại hội Đại biểu toàn quốc
các dân tộc thiểu số Việt Nam.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 205
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU CÁC Dân tộc thiểu số TẠI CÁC ĐỊA PH­ƯƠNG .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 210
DANH SÁCH ĐOÀN ĐẠI BIỂU CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG DỰ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU
TOÀN QUỐC CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 221
DaNH SÁCH CÁC ĐOÀN ĐẠI BIỂU ĐỊA PHƯƠNG THAM DỰ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 244

302
303
Chịu trách nhiệm xuất bản :
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QUÝ THAO

Biên tập nội dung và sửa bản in :


LÊ THỊ THU THUỶ - LÝ TUYẾT NHUNG
Biên tập mĩ thuật :
TÀO THANH HUYỀN
Thiết kế sách và trình bày bìa :
Phòng Thiết kế - CTCP Mĩ thuật và Truyền thông - NXBGDVN

Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam giữ quyền công bố tác phẩm.

CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM


Mã số : 8I750T0 - CDT
In 2 500 bản, (QĐ : 18), khổ 19 x 26,5cm,
In tại Công ty In và Văn hoá phẩm, 83 Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội
Số ĐKKH xuất bản : 285 - 2010/CXB/12 - 375/GD
In xong và nộp lưu chiểu tháng 5 năm 2010.

304

Вам также может понравиться