Вы находитесь на странице: 1из 24

28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?

action=viewArtwork&artworkId=11507

sinh hoạt | văn học | âm nhạc | sân k hấu | tạo hình | sách | tạp chí Việ t | nhóm chủ trương | he lp |

thơ | truyệ n / tuỳ bút | phỏng vấn | tiể u thuyế t | tiể u luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | k ịch bản
văn học | ý k iế n độc giả | sổ tay | thảo luận | k ý sự / tường thuật | tư liệ u / biê n k hảo | thông cáo |

văn học

tiểu luận / nhận định

Thiếu Khanh Dịch và giới thiệu văn học cổ Việt Nam: Những điều bất
cập

Đề cập sự kiện “CD 10 ca khúc nổi tiếng của Việt Nam được chuyển sang tiếng
Anh” bồi rất... trời ơi mới đây (mà trang web của Bộ Văn hóa Thông tin và Du lịch
Việt Nam đăng bài hí hửng khoe “Chuyển ngữ sát nghĩa tiếng Anh” để “Chắp
cánh cho ca khúc Việt bay xa”), trên trang blog Nguyễn Văn Tuấn tác giả viết:

“Nhưng dịch nhạc và thơ Việ t sang tiế ng Anh là việ c làm rất k hó k hăn. Nó đòi
hỏi người dịch chẳng những phải am tường tiế ng Anh, tiế ng Việ t, m à còn phải
có k iế n thức tốt về văn thơ của cả hai ngôn ngữ. Dịch thơ văn và nhạc k hông
chỉ đơn thuần là việ c chuyể n ngữ, m à còn là m ột công trình sáng tác.”

Những yêu cầu cho dịch thuật, nhất là dịch thơ, như Gs Nguyễn Văn Tuấn nói
trên đây, vốn đã được nhận thấy từ hàng ngàn năm trước, và được khẳng định
một cách cụ thể từ cuối thế kỷ 17. Nhưng trước khi xảy ra vụ “CD với 10 ca khúc”
được “dịch” một cách tai hại nói trên, người ta đã có dịp nhận thấy việc dịch và
giới thiệu văn học cổ Việt Nam đã được một vài dịch giả trong nước thực hiện
ngoài “chuẩn” quy định mà hệ quả tuy không đến nỗi... “you inside me after
class” [1] (!) nhưng cũng hết sức bôi bác trời ơi.

Người La Mã là những người đầu tiên làm công việc dịch thuật từ thời cổ đại.
Năm 196 trước công nguyên, các thành bang Hy Lạp chịu nhận sự bảo hộ của
La Mã. Người La Mã chiến thắng và cai trị người Hy Lạp nhưng họ vốn rất
ngưỡng mộ nền văn minh và văn học của Hy Lạp, và họ đã dành rất nhiều nỗ
lực để dịch các tác phẩm văn học của Hy Lạp, trong đó, những trường thiên anh
hùng ca Odyssey và Iliad của thi hào Homer vốn là những viên ngọc bất hủ.
Ngay khi phát minh dịch thuật, người La Mã đã dịch thơ. Tác phẩm văn học của
tất cả các quốc gia thời cổ đại chủ yếu là thơ. Đó là loại tác phẩm dễ lưu truyền
bằng miệng và theo trí nhớ khi các phương tiện in ấn chưa ra đời. Kinh nghiệm
sớm về dịch thuật của họ cũng là kinh nghiệm dịch thơ. Nhưng chỉ đến nửa sau
thế kỷ 17, nhà thơ, kịch tác gia kiêm nhà phê bình văn học người Anh John
Dryden (1631-1700) mới tổng kết kinh nghiệm của các thế hệ những những nhà
nghiên cứu dịch thuật để đưa ra những tiêu chuẩn cụ thể cho một dịch giả. John
Dryden đòi hỏi người dịch thơ phải là một nhà thơ, phải nắm vững cả hai ngôn ngữ,
và ngoài việc phù hợp với các tiêu chuẩn thẩm mỹ của thời đại của mình dịch giả
phải am hiểu cả các đặc tính và “tinh thần” của tác giả nguyên tác. (“To translate
poetry ... the translator must be a poet, must be a master of both languages,
and must understand both the characteristics and “spirit” of the original author,
besides conforming to the aesthetic cannons of his own age.”)[2]

Hơn ba trăm năm qua, từ Đông sang Tây, dường như chưa có ai phản bác các
yêu cầu này của nhà thơ kiêm nhà phê bình văn học người Anh đó. Không
những thế, nhận định của ông ngày càng được khẳng định và có giá trị gần như
một “định lý”. Riêng trong nền văn học Việt Nam, cho đến gần đây hầu như các

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 1/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

dịch giả dịch thơ bản thân họ đều vốn là nhà thơ, nổi tiếng nhất là nhà thơ
Đoàn Thị Điểm đã dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn từ nguyên tác
chữ Hán ra chữ Nôm. Có một trường hợp tưởng là ngoại lệ là nhà văn Khái
Hưng, người đã dịch một bài thơ từ nguyên tác tiếng Pháp, Mes heures perdues
(Những giờ phút mất đi của tôi) vốn được biết nhiều với tên Sonnet d'Arvers (Bài
Sonnet của Arvers), bài thơ duy nhất của nhà thơ Pháp Félix Arvers (1806 –
1850). Khái Hưng là nhà văn, dường như không thấy nói ông có làm thơ. Nhưng
có đọc tác phẩm Tiêu Sơn Tráng Sĩ của ông mới biết ông rất am tường thi pháp
cổ điển, không kém gì một nhà thơ. Và bài thơ dịch “Tình Tuyệt Vọng” của ông,
“Lòng ta chôn một khối tình / Tình trong giây phút mà thành thiên thu...” chứng tỏ
ông là một nhà thơ vững vàng.

Hiện nay tình trạng dịch và giới thiệu mảng thơ của nền văn học cổ đã cho thấy
nhiều bất cập. Nhiều dịch giả dịch mảng thơ này bản thân không phải là nhà
thơ, thiếu những kiến thức nhất định về văn học, thậm chí chưa nắm vững ý
nghĩa trong văn bản ngôn ngữ nguồn và xuệch xoạc với ngôn ngữ đích. Cũng
trên trang blog Nguyễn Văn Tuấn, tác giả nhận thấy “Trong thực tế, đã có biết
bao trường hợp những bài thơ được dịch sang tiếng ngoại quốc trở thành đại
họa cho tác giả.” Đó là hậu quả tất nhiên từ trình độ non yếu của người dịch.

Từ một số bài thơ của nền văn học cổ điển Việt Nam đã được dịch ra tiếng Anh
và xuất bản, có thể thấy được các sai lầm yếu kém làm lộ rõ ba vấn đề căn bản:

1. Ai dịch? Và dịch như thế nào?

2. Dịch cho ai đọc?

3. Họ đã hiệu đính các bản dịch như thế nào?

Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng điểm một. Trước hết,

1. Ai dịch? Và dịch như thế nào?

Không phải vô cớ mà John Dryden đòi hỏi bản thân người dịch thơ phải là một
nhà thơ trước đã. Trước ông, nhà thơ Anh, Sir John Denham, (1615–1669), đã
biết rằng người dịch thơ không phải chỉ làm cái công việc chuyển một ngôn ngữ
này sang một ngôn ngữ khác mà là chuyển cái chất thơ, cái hồn thơ (poesie) từ
ngôn ngữ này thành cái chất thơ, cái hồn thơ trong ngôn ngữ kia.

Phần lớn và là phần quan trọng của mảng văn học cổ Việt Nam là thơ. Mà là thơ
cổ. Việc dịch những bài thơ đó sang tiếng nước ngoài đúng là rất khó khăn, đòi
hỏi người dịch không những phải là một nhà thơ mà còn phải am hiểu văn học
và văn học sử Việt Nam đến một chừng mực nhất định. Không đáp ứng yêu cầu
này, có thể người dịch không những không chuyển đạt đúng nội dung nguyên
tác mà còn gây “đại họa cho tác giả.” Các “tai họa” đó là do

a.- Dịch giả thiếu kiến thức về văn học - Dịch thơ mà không hiểu thơ.

Cuốn sách Thơ Nữ Việt Nam Từ Xưa Đến Nay, Tuyển tập song ngữ [3]
giới thiệu
một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú được gán cho nữ sĩ Sương Nguyệt Anh,
như sau:

TIẾNG THAN C ỦA NGƯỜI C HINH PHỤ THỜI NAY


Cỏ mướt sân mềm, liễu thướt tha

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 2/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507
Ngày nào chàng trở lại quê nhà
Nửa rèm trăng úa lòng tê tái
Lẻ gối quyên kêu lệ thấm nhòa
Ải bắc mây giăng mờ bóng nhạn
Giang sơn xuân héo tựa nga my
Tương tư bao độ thầm trong mộng
Từng đến bên anh – biết chăng là
(1918)

Sương Nguyệt Anh (bút danh của bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê, 1864–1922, con
gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu), một nữ sĩ nổi tiếng, là người phụ nữ Việt
Nam đầu tiên làm chủ bút một tờ báo, cũng đầu tiên của phụ nữ Việt Nam, tờ
Phụ Nữ Chung (Tiếng chuông phụ nữ). Nên biết các văn nhân thời trước theo
nho học, coi văn thơ chữ nghĩa là điều thanh cao quan trọng không thể khinh
suất. Thơ được coi là một trong bốn nghệ thuật tao nhã, cầm kỳ thi họa, mà chỉ
những người có học hành, có tâm hồn thơ và cảm thức về thơ mới biết sáng tác
và thưởng thức. Cho nên, trong thơ các cụ rất nghiêm túc về niêm luật, vì đối với
các cụ làm thơ thất niêm thất luật không chỉ là sai sót về kỹ thuật mà còn là một
bằng chứng của sự học hành thô lậu, dốt nát, và vì thế là một sự nhục nhã. Bài
thơ trên đây, về kỹ thuật, hoàn toàn là một tác phẩm dở, không đáng có và
không thể có, không thể là thơ của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Lẽ nào một “con
nhà nòi”, và là chủ bút tiên phong của một tờ báo tiên phong vào thời nền cổ
học còn ảnh hưởng rất mạnh lại là tác giả của một “bài thơ” chỉ đáng là trò cười
như thế!

Xét về hình thức, bài thơ thất ngôn bát cú này đang có các vần tha, nhà, nhòa,
đến vần thứ tư lại là... my, rồi vần cuối trở lại với là! Câu “Giang sơn xuân héo
tựa nga my” vừa không vần vừa không đối theo luật. Câu thứ sáu đã thất vận,
đến câu thứ tám lại thất niêm với ba từ cuối rất vô duyên – biết chăng là. Cần
biết là vào đầu thế kỷ 20, những tình nhân, và thậm chí vợ chồng, còn chưa gọi
nhau bằng các từ “anh, em” như bây giờ, nhất là trong văn thơ. Họ thấy nó...
trơ trẻn. Khoan khoan ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái, ta là phận trai, (Lục Vân
Tiên). Câu “Từng đến bên anh – biết chăng là” vừa vô duyên, vừa không phải là
thơ. Nhất định bài thơ đó không phải của bà Sương Nguyệt Anh. Gán cho bà là
tác giả bài thơ đó đã là một cách làm nhục bà. Ngoài ra, giới thiệu một bài thơ
như thế với độc giả nước ngoài chỉ chứng tỏ được một điều: chính người Việt
Nam chẳng am hiểu được bao nhiêu các tác phẩm văn học của tiền nhân mình.

Nhưng chuyện này là do trình độ hiểu biết về văn học nói chung và về thơ nói
riêng của người có trách nhiệm chọn thơ để giới thiệu, còn dịch giả thì vô can
chớ? Không hẳn vậy. Chưa xem bản dịch tiếng Anh, người đọc đã biết dịch giả
vừa không phải là một nhà thơ, vừa ít am hiểu văn học và văn học sử. Tức là
không đúng “tiêu chí” theo như John Dryden nêu ra. Nếu đúng ắt dịch giả đã
nhận ra một bài thơ “dỏm”, và không phải chịu “khổ nạn” dịch câu “Giang sơn
xuân héo tựa nga my” là “The curving hills fade like a woman’s delicate eyebrow”
để mang tiếng dịch sai vì không hiểu thơ, và “tiếp tay” làm nhục nữ sĩ Sương
Nguyệt Anh bằng sự mặc nhiên gán cho người phụ nữ tài hoa ấy một bài thơ
“dỏm” và dở cực kỳ đến vậy. Gán bài thơ này cho bà Sương Nguyệt Anh để được
dịch và giới thiệu với đọc giả nước ngoài là thêm một trường hợp “đại họa cho
tác giả” như thế.

Nếu dịch giả là nhà thơ và hiểu biết ít nhiều văn học sử ắt biết nhà thơ Thái
Thuận (thế kỷ 15) là phó nguyên soái Tao Đàn của vua Lê Thánh Tôn, tài thơ
rất nổi tiếng, mỗi bài thơ thất ngôn bát cú của ông phải đủ tám câu, chớ không
phải chỉ có bảy câu như bài dịch “End of Spring in the Citadel” trong tạp chí

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 3/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Vietnam Literature Review: The World’s Window on Vietnamese Culture, Volume


III, 2009.[4]

Ai tư vãn là bài thơ của công chúa Ngọc Hân khóc chồng là hoàng đế Quang
Trung, được dịch sang tiếng Anh một cách... thật ngộ:

AI TƯ VÃN (Trích) [5]


Buồn thay nhẽ sương rơi gió lọt
Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa
Tưởng lời di chúc thiết tha
Khóc nào lên tiếng, thức mà cũng mê...

Dịch:

From LAMENT O F LO NELINESS


Such loss: Dew settles, the wind pierce,
Her tears scatter across the desolate landscape.
She remembers the words of his urgent last wishes,
Sobbing, sobbing, sobbing, she seems awake yet in the stupor.

Chỉ với cái tựa và bốn câu đầu tiên được dịch đã thấy cái... tai họa mà bà công
chúa xấu số đã phải gánh chịu sau tai họa mất chồng và sắp có thể bị sát hại
cả mẹ lẫn con. “Trích” thì được dịch là From. “Ai tư vãn” (Ai: buồn khổ, tư: nghĩ
ngợi, vãn: than thở) được dịch là Lament of Loneliness (Tiếng than của sự cô
đơn)! “Buồn thay nhẽ” được dịch thành “Such loss” (!). “Cảnh đìu hiu thánh thót
châu sa” thành ra “Her tears scatter across the desolate landscape”! Và “Khóc
nào lên tiếng,” thì thành “Sobbing, sobbing, sobbing.”!

Ngoài cách dịch thơ “lạ lùng” đó, dịch giả, vì không có kiến thức cơ bản về văn
học sử nên không cảm nhận được nội dung của tác phẩm, đã không biết Ai Tư
Vãn là bài thơ khóc chồng của Lê Ngọc Hân, nguyên Bắc cung hoàng hậu của
vua Quang Trung. Không biết Ngọc Hân là tác giả bài thơ, là người than khóc, là
nhân vật ngôi thứ nhất. Vì không biết thế cho nên trong suốt bản dịch, dịch giả
đã nhất mực từ chối thân phận chủ thể của tác giả Ngọc Hân, đẩy tác giả xuống
ngôi thứ ba như một người xa lạ – she, và her, và khi bà góa phụ vương giả nói
đến chồng mình thì người dịch “buộc” bà dùng những từ he, his và him. Khi tác
giả than mình không còn được hàn huyên với chồng, “Tin hàn huyên khôn hỏi
thăm nhanh” thì dịch giả dịch thành: “No longer can they exchange greetings” –
Họ không còn chào hỏi nhau được nữa!

Chuyện “không biết” này được nhận thấy một lần nữa ở một dịch giả khác, cũng
trong cuốn sách Thơ Nữ Việt Nam... nói trên, với bài Hạnh Thục Ca,[6] một bài thơ
dài kể lại việc vua Hàm Nghi “xuất bôn” rời kinh thành Huế chạy ra Quảng Trị
sau mưu toan chống Pháp không thành. Ở đây (và thêm một chỗ khác nữa)
người dịch cũng dịch “Trích” là From, còn cái tựa Hạnh Thục Ca (Bài ca về hành
trình [vua Đường Minh Hoàng lánh nạn An Lộc Sơn] trốn vào đất Thục) được dịch
là Chant of Redemption (!!)

Cứ cho Chant là “bài ca” đi, Redemption có nghĩa là sự chuộc lại tội lỗi, chuộc lại
vật cầm cố, chuộc kẻ bị tù tội, hoặc sự trang trải hết nợ nần. Thế thì Redemption
dính gì với chuyện vua Hàm Nghi bỏ kinh đô chạy ra Tân Sở được tác giả ví như
vua Đường “hạnh Thục”? Bài ca “chuộc lại” cái gì đây?

Hai câu ở đầu đoạn trích này, nhà vua (Hàm Nghi), lúc này đã chạy ra Quảng Trị,
tâu xin Thái hậu cùng chạy lên đồn Tân Sở để tránh giặc Pháp, được chép là:

Gởi xin Tần Sở kíp lên


Ở đây thế ắt chẳng nên đâu là

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 4/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Và được dịch:

They asked for shelter in Tần Sở to escape in time,


For it was not the least bit wise to stay behind!

Lại một lần nữa, ngoài cách dịch “xa xăm”, người có trách nhiệm chọn bài dịch
lẫn dịch giả đều không hiểu thơ, và không nhớ cả lịch sử nước nhà, nên, có lẽ,
cho đây là một thứ truyện Tàu “diễn thơ” kiểu như... Nhị thập tứ hiếu, và tưởng
đồn Tân Sở ở Quảng Trị là nước Tần nước Sở nào ở bên... Tàu!

Dù sao, đó là những đoạn tác phẩm mà trong đó lời xưng hô không bộc lộ rõ
ràng, dịch giả không phải nhà thơ, không hiểu văn học và không cảm được thơ
nên không nhận ra. Thế nhưng trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, người chinh
phụ luôn gọi chàng xưng thiếp mà sao dịch giả cũng không hiểu chàng với thiếp
nghĩa là gì để cứ một mực gán cho họ là she/her, he/him?

Đưa chàng lòng dặc dặc buồn


Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền[7]

Câu 6 trên thì đã rõ nghĩa. Câu 8 dưới có nghĩa là: đi bộ thì thiếp không cưỡi
ngựa được, còn đi đường thủy thì thiếp không đi thuyền được, cho nên thiếp rất
tiếc không thể theo chàng.

Hai câu được dịch ra tiếng Anh... chẳng ăn nhập vào đâu cả:

The battle calls him away, leaving her in anguish


No longer his mate, once he leaps astride his horse or steps into his boat.

(Trận chiế n gọi anh ta đi x a, để nàng/cô ta ở lại trong đau k hổ


Không còn là người bạn của anh ta nữa, m ột k hi anh ta nhảy lê n lưng ngựa
hay bước x uống thuyề n của anh ta)!

Và:

Nhủ rồi tay lại cầm tay


Bước đi một bước dây dây lại dừng (dây dây?)
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san

Thành ra:

They hold hands, sharing gentle counsel, tender words


He takes a step away and, preoccupied, another step, then pauses.
Her heart, like the moon’s shadow, follows him;
His heart, far away, seeks glory in the Heavenly Mountains

Thôi bỏ qua cách dịch hoàn toàn không đạt, bỏ qua cách dịch word for word mà
không nhận ra sự trái nghĩa của từ (bóng trăng dịch thành moon’s shadow, mà
shadow là bóng tối, trong khi bóng trăng có nghĩa là ánh sáng trăng), bỏ qua
việc dịch giả không hiểu tiếng Việt “nhủ” có nghĩa là dặn dò, không biết “Thiên
San” là tên núi vì nó ở... bên Tàu, những điều đó thuộc về khả năng thông hiểu
hai ngôn ngữ của dịch giả. Có điều kỳ lạ là dịch giả không biết chàng và thiếp có
nghĩa hiện đại là anh và em!

Một dịch giả khác thậm chí ngay cả từ ta nghĩa là... ta, mà vẫn cứ tưởng là một
anh chàng nào khác, ở ngôi thứ ba:

Mười bảy hay là mười tám đây


Cho ta yêu dấu chẳng rời tay [8]

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 5/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Thành ra:

Seventeen or eighteen you should be


Cherrished, never leaving his hands.

Và, lạ lắm nhé, cũng trong bài thơ “Vịnh cái quạt giấy” đó của nữ sĩ Hồ Xuân
Hương:

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy

Thành ra:

A rose fan and powdered cheeks can charm!

Điều này thuộc một “tiêu chí” dịch thuật khác, sẽ được đề cập sau.

Người dịch thơ mà bản thân không phải là nhà thơ, nhưng nếu “nắm vững hai
ngôn ngữ - [ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích]” (master of both languages),
am hiểu cả các đặc điểm và “tinh thần” của tác giả văn bản nguồn” (understand
both the characteristics and “spirit” of the original author), và “phù hợp với các
nguyên tắc thẩm mỹ của thời đại của dịch giả” (conforming to the aesthetic
cannons of his own age) theo các tiêu chuẩn John Dryden nêu ra, thì có lẽ bản
dịch của họ chỉ thiếu một chút chất thơ thôi chớ không đến nỗi xa nguyên tác
đến mức “diệt” thật sự như thế.

b.- Dịch giả thiếu kiến thức trong những lãnh vực chuyên biệt – Dịch bừa

Nhìn vào chất lượng của một số thơ văn cổ được dịch ra tiếng Anh xuất bản ở
Việt Nam, người ta có thể suy từ “định lý” của John Dryden, ra nhiều “hệ luận”
khác. Ví dụ, để dịch một bài thơ thiền, dịch giả phải là một thi sĩ thiền sư hay
một nhà tu, am hiểu giáo lý của Phật. Nói như thế không phải là chuyện trào
phúng cho vui. Một dịch giả “layman” không hiểu gì về đạo Phật mà dịch thơ
thiền sẽ thành một... trò dị hợm ngay tức khắc.

Cũng trong cuốn sách Thơ Nữ Việt Nam..., bài thơ Sắc Không được cho là của
thái phi Ỷ Lan (thứ phi của vua Lý Thánh Tông, mẹ của vua Lý Nhân Tông ):

SẮC KHÔ NG[9]


Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không.
Sắc không đều chẳng quản,
Mới khế hợp chân tông.

Khi về già thái phi Ỷ Lan đã đi tu (và làm được nhiều điều tốt, có lẽ để “chuộc”
tội làm cho Dương hoàng hậu, vợ cả của vua Lý Thánh Tông, cùng với hơn bảy
mươi người cung nữ phải chết. Do những việc làm mang tính “sám hối” này, bà
được dân (không hề hay biết những chuyện ghen tuông trong hoàng cung) yêu
kính gọi là Quan Âm. Tuy vậy chọn một bài “kệ” của một nhà tu như bài Sắc
Không, gọi là “thơ” của bà để giới thiệu ra nước ngoài thì dường như không phù
hợp cho lắm. Quan niệm về Sắc và Không của đạo Phật tuy rất cao thâm, nhưng
đó là các ý tưởng của Phật giáo, tức là một phần rất lớn nhân loại, những người
Phật tử, đã cùng biết, và ngày nay những từ Sắc Không đã trở nên bình thường
trên cửa miệng nhiều người, không có gì là đặc biệt của một người, hay của một
nhà thơ nữ Việt Nam cần được chia sẻ với thế giới. Có Phật tử nào mà không
thuộc Bát Nhã Tâm Kinh “Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa
thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không... Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc
tức thị không, không tức thị sắc...”?

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 6/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Giới thiệu một “bài thơ” như thế vốn đã không “đắc”, mà bài dịch sang tiếng
Anh lại biến bài “thơ” đó thành... trò đùa, cho nên hiệu quả thật là tiêu cực.

Đây là bài dịch tiếng Anh:

BEING NO N-BEING
Being is non-being, non-being being
Non-being is being, being non-being
Pay no mind to being and non-being
Only then is there unity of the whole.

Being với những non-being đọc lên líu lưỡi nghe như một câu thần chú buồn cười
và vô nghĩa. Dịch Sắc và Không là being và non-being là mượn các khái niệm triết
học Tây phương, có tồn tại hay không tồn tại, có sống hay không sống, gán ép
vào triết học Phật giáo, một cách lấy râu ông nọ cắm cầm bà kia rất thô thiển.
Being và non-being không hề có nghĩa tương đương với Sắc và Không trong đạo
Phật, và the whole cũng đâu có nghĩa gì là “chân tông”!

Sắc trong đạo Phật là sắc tướng, hình tướng, là vạn vật hữu hình; nói chung tất
cả những gì con người “chấp” là “có” thì đều được coi là “Sắc” – Form. Không thì
phức tạp hơn. Nó đối lại với Sắc, nhưng không phải là không có Sắc, không phải
là trống không, không có gì cả. Không, tiếng Phạn là Sunyata. Oshoo, trong The
Heart Sutra, Oshoo talks on Buddha, giữ nguyên từ Sunyata mà không dịch sang
tiếng Anh; ông cho là tiếng Anh không có từ tương đương. Và bản dịch Bát Nhã
Tâm kinh từ chữ Phạn sang tiếng Anh được phổ biến cũng giữ nguyên chữ
Sunyata như thế:

“O Shariputra, form is no othe r than sunyata. Sunyata is no othe r than


form. From is e x actly sunyata. Sunyata e x actly form. Fe e ling, thought,
volition, and consciousne ss are lik e wise lik e this.”

(Xá Lợi tử, sắc bất dị k hông, k hông bất dị sắc. Sắc tức thị k hông, k hông tức thị
sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, diệ c phục như thị. – Này ông Xá lợi tử, sắc k hông
k hác k hông, k hông k hông k hác sắc. Sắc chính là k hông; k hông chính là sắc.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng đề u như thế cả.)

Thế nhưng, tuy không có từ tiếng Anh nào mang nghĩa chính xác của từ Sunyata
tiếng Phạn, vốn không hoàn toàn có nghĩa là nothing / nothingness hay empty
/ emptiness, nhưng không phải người nói tiếng Anh nào cũng hiểu được nghĩa
từ tiếng Phạn Sunyata. Cho nên người ta đã tạm dùng từ void để dịch chữ Không
giúp người đọc tạm có được một khái niệm gần đúng. Thay vì being với non-
being, những câu sắc-không ấy có thể chỉ đơn giản là

FO R M AND VO ID
Form is void, void is form
Void is form, form is void...
To find one’s true way to conform
Pay no mind to form and void

Không phải là một bài thơ thiền, nhưng bài thơ “Vằng Vặc Trăng Mai” của
Nguyễn Thị Điểm Bích (Thế kỷ XII)[10] có những câu có vẻ mang phong vị “nhà
chùa” :

Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ,


Mâu Thích Ca nào thuở hữu tình.

Được dịch:

A refreshing man of peace: The scene is usual


Wherever Sidhartha goes, the garden is calming.

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 7/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Không hiểu dịch giả (là một người nước ngoài làm việc nhiều năm ở Hà Nội) lấy
chất liệu ở đâu mà ... tối tác như thế!

Cũng từ những bài thơ đã được dịch và xuất bản, ta có thể có “Hệ luận” thứ hai:
Để dịch những bài thơ liên quan đến âm nhạc, dịch giả nên vừa là một nhà thơ
vừa có sự hiểu biết nhất định về âm nhạc.

Nghe thì có vẻ buồn cười nếu không phải là cường điệu cho vui. Nhưng thật đấy.
Đây là trường hợp một dịch giả không am hiểu những khái niệm đơn giản trong
âm nhạc truyền thống của Việt Nam nên dịch sai và, do đó, độc giả người nước
ngoài sẽ không hiểu gì cả hoặc sẽ... phì cười.

“Long Thành Cầm Giả Ca” là một bài thơ chữ Hán theo thể cổ phong trường
thiên của thi hào Nguyễn Du được nhiều người biết. Mới đây người ta đã làm
một cuốn phim “hoành tráng” chuyển thể từ bài thơ này để chiếu trong dịp đại
lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và dự festival phim quốc tế tại Việt Nam. Bài
thơ được dịch ra tiếng Anh và giới thiệu trên tập san Vietnam Literature
Review.[11]

(Tất cả) bản dịch tiếng Anh trong tạp chí này không kèm theo nguyên tác tiếng
Việt. Câu thứ 13 của bản dịch “Long thành cầm giả ca”:

And her fingers danced on the strings, leaping over five octaves.
(Và các ngón tay nàng nhảy m úa trê n những dây đàn, nhảy qua năm
octaves.)

Câu đó trong nguyên tác được phiên âm:

Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến


( Năm âm thanh ré o rắt biế n hóa the o tay người đàn.)

Câu tiếng Anh tuy dài nhưng còn xa mới đủ ý của bảy từ trong nguyên tác,
nhưng điều quan tâm chính ở đây là dịch giả thiếu hiểu biết về âm nhạc truyền
thống Việt Nam, dùng five octaves để dịch từ ngũ thanh là không chính xác và
hoàn toàn vô nghĩa. Ngũ thanh là năm âm, chớ không phải là năm octaves. Năm
âm, vì âm nhạc truyền thống của chúng ta, nói một cách đơn giản, chủ yếu là
nhạc ngũ cung (pentatonic music). Âm giai của nhạc truyền thống của ta là âm
giai ngũ âm, pentatonic scale hay five-tone scale, chỉ có năm nốt mang tên Hò,
Xự, Xang, Xê, Cống (với năm biến thức gọi theo từ Hán Việt là Cung, Thương,
Giốc, Trủy, Vũ) tương ứng với các nốt Đô, Rê, Fa, Sol, La (hoặc Đô, Rê, Mi, Sol,
La)[12] trong âm nhạc Tây phương. Trong khi đó âm nhạc tây phương là nhạc
thất cung hoặc thập nhị cung,[13] ghi âm thanh tự nhiên bằng bảy nốt theo thứ
tự Đô Rê Mi Fa Sol La Si, và bảy nốt này là âm giai tự nhiên Đô của âm nhạc thất
cung. Nếu lập lại nốt Đô ở bậc cao trên nốt Si, ta sẽ có một âm giai tự nhiên
toàn âm (của âm giai) Đô. Từ Đô thấp đến Đô cao là một quãng tám (gồm 8
nốt), tức là một octave. Năm octaves là một âm vực (sound extent) bằng năm lần
quãng tám như thế chồng lên nhau từ thấp đến cao. Âm nhạc truyền thống của
ta không có quãng tám tự nhiên - octave đó. Vì âm giai của ta chỉ có năm âm
thôi mà.

Năm octaves thường là âm vực của đàn harpsichord, trong khi âm vực của đàn
grand piano trải rộng đến tám octaves (vài cái piano hiện đại thậm chí có âm
vực chín octaves). Âm vực của đàn Nguyệt rất hẹp, không quá một octave so với
nhạc Tây phương; thường là các bản nhạc chơi trên đàn Nguyệt chỉ diễn tấu
trong khoảng quãng bốn hay quãng năm thôi. Cho nên nhạc công không thể
nào chơi đến năm octaves trên đàn Nguyệt như trong câu dịch tiếng Anh. Người
tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 8/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

đọc có thể phì cười là vì vậy.

c.- Dịch giả dịch từng từ theo nghĩa đen (word for word)

Ngay từ trước công nguyên, Cicero (106–43 BC), một trong các lý thuyết gia
dịch thuật nổi tiếng của La Mã có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ dịch giả về sau,
đã nhận thấy không nên dịch sát nghĩa đen từng từ (word for word), mà phải
chuyển ý của câu hay cụm từ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác (sense for
sense). Đến nay chúng ta đến sau người La Mã hơn hai ngàn năm, nhưng trong
dịch thuật đôi khi việc dịch từng từ vẫn còn là một thói quen dễ dãi và... hấp
dẫn không cưỡng được.

Trong bài thơ được gán cho bà Sương Nguyệt Anh đề cập trên đây có câu:

Ải Bắc mây giăng mờ bóng nhạn

Được dịch theo cách word for word thành:

Along the Northen Pass, clouds obscure the single swallow.

Người xưa lấy điển tích Tô Vũ, một tướng của nhà Hán bị Thiền Vu tức vua của
người Hung nô (Hsiung-nu hay Hun) bắt và cầm giữ trên biên cương phía Tây
bắc nước Tàu trong mười chín năm, ngày ngày phải đi chăn dê. Nhiều lần vua
Hán Vũ đế đòi thả Tô Vũ, nhưng Thiền Vu nói Tô Vũ đã chết rồi. Tô Vũ bèn viết
thư cột vào chân của rất nhiều chim nhạn để mùa đông giống chim này bay về
phương nam tránh rét, thư có thể đến tay đồng bào ông. Nhờ vậy vua Hán có
bằng cớ để đòi Thiền Vu trả Tô Vũ về nước.

Do đó, cụm từ “mờ bóng nhạn” trong câu thơ có ý nói không có thư từ tin tức,
chớ chẳng phải thực sự nói chi về chim nhạn cả.

Trong một bài khác, bài “Tự Trào” được cho là của nữ sĩ Cao Ngọc Anh [14] có
câu:

Chẳng có chi mà lại có danh

Câu thơ có nghĩa là mình không có công trạng hay thành đạt gì mà cũng có
tiếng tăm.[15] Từ “danh” trong câu thơ có nghĩa là thanh danh, hay danh tiếng,
reputation chẳng hạn, nhưng cả câu đã được dịch một cách mot-à-mot rất...
nghĩa đen:

I have nothing, although I’ve a name. (!)

Bài dịch tiếng Anh ngắn ngủi này còn có nhiều điều để nói, nhưng ở đây chỉ đề
cập cách dịch dễ dãi word for word. Chẳng hạn từ tiên trong các câu:

Dở tiên dở tục dở tu hành


Half fairy, half philistine, half religious practitioner

Túi nhẹ thơ tiên trí quẩn quanh


Light fairy poems with a muddled view

Tiên có lẽ là một khái niệm rất khó dịch ra các ngôn ngữ phương Tây. Trong
ngôn ngữ của họ hình như không có sẵn từ tương đương, vì lẽ trong đời sống
tinh thần của người Tây phương chỉ có thần thoại, chớ không có tiên thoại. Mà
trong thần của họ, những ông bà thần trong thần thoại Hy Lạp nửa người, nữa

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 9/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

thánh, nửa... quỷ, không phải những vị tiên ông tiêu dao phiêu hốt, tiên bà
nhân từ hiền hậu, tiên cô xinh đẹp dịu dàng, tất cả luôn thân thiện và sẵn sàng
giúp đỡ con người như trong quan niệm của ta. Từ fairy của họ mà nhiều người
quen hiểu là tiên là hoàn toàn không phù hợp với hình ảnh ông tiên, cô tiên
trong tưởng tượng của người Việt Nam, và có lẽ cả trong một số dân tộc Đông
phương. Từ fairy được từ điển Longman Dictionary of Contemporary English định
nghĩa là: a small imaginary creature with magic powers, which looks like a very
small person. Từ điển Macmilan English Dictionay cũng định nghĩa y như vậy và
cho thêm đôi cánh: an imaginary creature with magic powers that looks like a
small person with wings. Còn từ điển Oxford Advanced Leaner’s Dictionary cho ví
dụ: a good / wicked fairy

Tức là có fairy hiền và fairy độc ác. Và trong thực tế người ta mặc định fairy là
một thứ sinh vật trong tưởng tượng, giống người, giới tính nữ. Và đặc biệt là
nhỏ. Rất bé nhỏ.

Trái với thứ fairy tầm thường trong tưởng tượng trẻ con đó, khái niệm tiên trong
bài thơ của nữ sĩ Cao Ngọc Anh hàm ý một điều gì cao siêu, thanh thoát, trong
sạch, khác với tục, và dứt khoát không phải là fairy. Và Tây Phương, vì thế, hoàn
toàn không có khái niệm thơ tiên như giống như của ta. Thơ tiên của ta không
phải là fairy poems. Fairy poems của Tây phương là những bài thơ về các “nàng
tiên bé xíu”, kiểu như thơ của nhi đồng ... sáng nay mẹ lên nương, một mình em
đến lớp.... Cho nên để chuyển gần đúng nghĩa của từ tiên sang tiếng Anh có lẽ
dịch giả phải lao động trí óc dữ lắm, chớ không thể dễ dàng dùng “chiêu” word
for word mà được. Người Anh Mỹ sẽ ngơ ngác không hiểu gì đâu. Hoặc họ sẽ
hiểu rất sai lạc.

Cũng dịch giả này khi dịch một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt chữ Hán “Ngẫu
Thành” của Nguyễn Trãi có câu:

Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư


(Việ c đời như m ột giấc m ộng hoàng lương)

Hoàng là màu vàng - yellow. Hoàng lương là hạt kê (màu) vàng chỉ giản dị là
“yellow millet”. Ai cũng hiểu cụm từ “giấc mộng hoàng lương” vốn là một điển
tích về một anh học trò khó trên đường lên kinh dự thi. Dọc đường, trong một
quán trọ, anh tình cờ ngủ quên bên cạnh bà chủ quán đang nấu một nồi chè kê.
Trong mơ anh học trò thấy mình đổ tiến sĩ và làm quan suốt vài chục năm thăng
tiến vùn vụt, trở nên giàu có sang trọng, vợ đẹp con khôn, một thời lừng lẫy.
Bỗng có người tâu lên vua là anh – bấy giờ đã là một đại quan – phạm tội tham
nhũng rất nặng. Vua sai điều tra, và với bằng chứng phạm nhiều trọng tội rành
rành vị đại quan bị ghép tội tử hình. Đến ngày hành quyết, khi lưỡi đao đoạt
mệnh còn chưa kịp bổ xuống cổ, anh học trò hốt nhiên tỉnh dậy, toát mồ hôi
khắp người, mừng mình còn sống. Quay nhìn bên cạnh nồi kê của bà lão vẫn
chưa chín, nhớ lại “hoạn lộ” mấy mươi năm trong mộng, anh học trò cảm thấy
lòng mình nguội lạnh với công danh, bèn mang lều chiếu bỏ về, không thèm đi
thi nữa.

Thế mà câu thơ đó đã được dịch thành:

It’s over! Waking from a dream of golden millet. [16]

Chưa nói chuyện câu dịch “phóng” không sát nguyên tác, dịch giả đã dịch chữ
hoàng lương theo nghĩa đen của từ nhưng lại thành ra golden millet – hột kê
bằng vàng! Chắc là độc giả Tây tưởng có ai đó đi tìm hột kê bằng vàng mà
không gặp cho nên than thở “It’s over”!
tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 10/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Trong bài thơ Ai Tư Vãn, công chúa Ngọc Hân đang mơ theo chồng ở thế giới
bên kia thì sực tỉnh giấc chiêm bao:

Mơ màng thêm nỗi khát khao


Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi.

Được dịch thành:

Such dreams leave her thirsty for him


And more anxious to reach him in the Jade Capital. [17]

Ngọc kinh chẳng qua một cách nói tu từ cho đẹp lời, một euphemism đối với bậc
đế vương (Quang Trung) đã chết, chớ có phải một Jade Capital theo nghĩa đen
nào đâu! Hơn nữa, Ngọc Hân khát khao được hội ngộ với chồng ở thế giới bên
kia mà nói là leave her thirsty for him thì vừa sai lạc vừa sống sượng quá.

Trong tập Thơ Thiền Lý Trần, tập thơ quý ấn loát rất công phu sang trọng và
đẹp đẽ, có bài thơ “Ngôn hoài” [18] của Thiền sư Dương Không Lộ với câu đầu:

Trạch đắc long xà địa khả cư

Câu thơ chưa có gì là thiền vị, được dịch nghĩa thành:

[19]
Finding a dragon–shaped land where I could reside

Và dịch thành thơ:

A dragon–shaped land to call my own.

Dịch giả là nhà thơ Việt kiều sống ở Mỹ có tác phẩm được chọn trong Một trăm
bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20 (Trung tâm Văn hoá Doanh nhân xuất
bản, 2007). Đồng dịch giả là một nhà thơ Mỹ và là giáo sư đại học. Tuy vậy, cả
hai đều bị “cám dỗ” rơi vào chiếc bẫy “dễ dãi” khi dịch ba từ “long xà địa” là
dragon-shaped land. Một cách làm “thuận tay” của kẻ tự tin quá đáng nên không
cần động não.

Tiếng Anh là một trong những ngôn ngữ “kỹ thuật” và, có lẽ vì vậy, duy lý. Người
đọc sẽ không hiểu dragon-shaped land cách nào khác hơn là mảnh đất “hình con
rồng”. Thế là có hai điều bất cập:

Trước hết, ai cũng biết “long” là linh vật đứng đầu trong tứ linh “Long Lân Qui
Phụng” được nhập từ văn hóa Trung quốc, nhưng dường như ít người nghi ngờ
nó có nguồn gốc từ nền văn minh nông nghiệp sông nước phương Nam. Người
Tàu đã nhập khẩu con rồng dưới dạng sản phẩm thô của người phương Nam (có
lẽ không xa lắm với con cá sấu vốn được gọi là giao long = rồng của người Giao
[chỉ]) vào thời kỳ đầu của sự tiếp xúc văn hóa của hai dân tộc, và sau đó xuất
lại sang cho ta (và nhiều dân tộc khác) dưới dạng thành phẩm đã chế biến, tuy
không được hoàn chỉnh: họ cho con rồng bay lên làm mưa làm gió nhưng lại...
quên vẽ cánh cho nó (như người Tây phương – duy lý – đã làm với con dragon
của họ).

Là một thứ hàng “ngoại’ được gắn mác sang trọng nên các vua chúa của ta, bắt
chước Tàu, đã vơ lấy nó làm “lôgô” cho mình, gắn liền nó với tất cả những gì có
liên hệ đến vua chúa: Thân thể của vua là long thể, áo của vua là long bào,
giường ngủ của vua là long sàng, xe vua đi là long xa, vân vân. Dĩ nhiên không ai
gọi ông vua mất nước lưu vong là... long đong, nhưng khi giết vua thì người ta
gọi là đồ long (giết rồng). Thanh “đồ long đao” của Kim Dung là với dụng ý để
giết vua Mông Cổ khôi phục nhà nước của người Hán đấy.

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 11/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Do nó có địa vị cao sang quý hiếm như vậy, các thầy địa lý gán tính chất “rồng”
cho những “cuộc” đất có sẵn những đặc tính thiên nhiên tiện cho việc phát triển
các mặt văn hóa, chính trị, kinh tế, quân sự vân vân của một địa phương. Những
vị trí giúp cho sự phát triển đó được thuận lợi thì họ gọi là long mạch (mạch máu
nuôi thân thể của rồng). Trong chiếu dời đô, vua Lý Thái Tổ gọi khu vực của
thành Đại La là thế đất “rồng chầu hổ phục” (long bàn hổ cứ) và đặt tên là
Thăng Long, dù ở đó chẳng có con rồng nào, hoặc chỉ có một con duy nhất
trong... chiêm bao của nhà vua, nhưng lại có rất nhiều voi (sách Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư chép các vua nhà Lý từng ra vùng Tây Hồ xem người ra đặt bẫy bắt
voi), chớ tuyệt nhiên không phải đất Hà Nội có hình dạng con rồng chầu hay
hình con cọp nằm phục thật sự.

Trở lại với câu thơ:

Trạch đắc long xà địa khả cư.


(Đã chọn được vùng / thế đất rồng rắn có thể cư trú.)

Ta có thể nghi ngờ giá trị của yếu tố xà trong câu thơ. Long thì cao sang quý
hiếm như vậy, còn xà thì sao? Rắn luôn luôn được coi là một sinh vật nham hiểm
độc ác. Nó đã chẳng quyến rũ bà Eva sa ngã khiến cả nhân loại bị vạ lây đó là
gì? Dân gian có câu ca dao: Lấy chồng thì phải theo chồng / Chồng đi hang rắn
hang rồng cũng theo. Theo đó, “hang rắn” hàm ý nơi nguy nan cực khổ, đối lại
với hang rồng là nơi an nhàn sung sướng.

Thế sao mảnh đất trong câu thơ của vị thiền sư lại gồm cả rắn cả rồng? Có lẽ
thiền sư cần một từ để mô tả tầm quan trọng hay tính chất đặc biệt gì đó của
vùng đất mình nói đến, chớ không phải nói chuyện rồng rắn gì; chuyện rồng rắn
chỉ là một phương tiện của ngôn ngữ. Lý do sự hiện diện của yếu tố xà trong
câu thơ có lẽ chỉ là một sự ngẫu nhiên và cũng do luật thơ mà thôi. Trong luật
thơ thất ngôn – ở đây là thất ngôn tứ tuyệt thể trắc – chữ thứ tư của câu thơ
này phải là một âm bằng (trầm bình thanh, mang dấu huyền, hoặc phù bình
thanh không mang dấu) chớ không phải một âm trắc. (Mà hổ là một âm trắc –
trầm thượng thanh). Nếu thay xà bằng hổ cho hợp với chữ nghĩa long hổ thường
đi đôi với nhau thì câu thơ sẽ thất niêm và khổ độc, thành ra như một câu nói
bình thường, không mang nhạc điệu của thơ:

Trạch đắc long hổ địa khả cư.

Còn nếu bỏ hẳn yếu tố “xà” để nội dung được nhất quán – nghĩa là chỉ có rồng
không thôi, không phải vừa rồng vừa rắn – “hiệu quả” sẽ tệ hơn:

Trạch đắc long địa khả cư.

Từ đó dễ dàng nhận thấy từ xà chỉ là do nhu cầu của âm vận chớ không phải do
hình dạng thế đất rồng rắn gì cả. Ý nghĩa chính là vùng đất có địa thế quan
trọng và thuận lợi cho sự phát triển cuộc sống – với một vị thiền sư là thuận
tiện về mặt tinh thần tu dưỡng. Chớ nếu mảnh đất thật sự có hình rồng hay
hình rắn thì đối với một thiền sư đắc đạo có gì là lý thú để đắc ý đâu?

Nhiều thi sĩ Việt Nam đã dịch bài thơ chữ Hán này thành thơ Việt, và không phải
ngẫu nhiên mà hầu hết đều viết “đất long xà”, hoặc “đất rồng rắn / rắn rồng”,
chớ không ai nói nó có hình con gì. Dĩ nhiên một phần là do các thi sĩ đó chưa
phải đối diện với một nhiệm vụ khó khăn là chuyển nó sang một thứ ngôn ngữ
tây phương rạch ròi duy lý làm cho người nước ngoài hiểu rõ ý của tác giả. Dù
sao, dịch long xà địa sang tiếng Anh là “dragon-shaped land” e là vô nghĩa, nếu
không nói là ngô nghê. Bởi vì tuy gọi những từ rồng rắn, nhưng trong tâm trí

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 12/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

người Việt hiểu rõ ý nghĩa của nó là quan trọng, cao quý, chớ không phải cho là
nó có hình rồng hay hình rắn. Long bào, long sàng, long xa là những vật dụng
cao quý dành cho nhà vua, chớ đâu phải chúng có hình rồng! Long thể lại càng
không phải thân thể của con vật nào cả, dù là con vật đứng đầu tứ lình. Đó là
thân thể của ông vua chớ! Đối với người nước ngoài, “dragon-shaped land” bao
giờ cũng chỉ có nghĩa đen là mảnh đất / vùng đất hình con rồng mà thôi. Không
có nghĩa nào khác. Quá xa với ý nghĩa thật sự mà tác giả bài thơ muốn truyền
đạt.

Điều bất cập thứ hai: con rồng trong quan niệm của người Đông phương, là một
linh vật, thiêng liêng. Rồng làm mưa giúp cho đời sống nông dân thuận lợi.
Trong khi đối với văn hóa Tây phương, dragon là một thứ chằn tinh quái thú
hung dữ, đối thủ ghê gớm của con người. Trong thần thoại Tây phương lúc nào
người ta cũng thấy cần phải chiến đấu để trừ diệt nó. Biến một “linh vật” của
mình thành một chằn tinh ác thú trong mắt người khác không phải là cách hay
để giới thiệu giá trị tinh thần trong tác phẩm của cổ nhân.

Người Việt đầu tiên nào đã dịch từ dragon trong từ điển thành “con rồng” đã
phạm một sai lầm văn hóa vô cùng quan trọng; sự sai lầm đó ngày càng phổ
biến, rất khó sửa chữa. Nhưng một dịch giả nhà thơ nắm vững hai ngôn ngữ
(cũng có nghĩa là có hiểu biết cả hai nền văn hóa) có lẽ không nên dễ dãi với lối
dịch sát nghĩa như thế.

Cũng theo cách dịch nghĩa đen word for word, bài thơ “Tự Thuật” của bà Nhàn
Khanh [20] có những câu:

Lần lần gió sớm trăng mai


Mặc ai tử các, mặc người kim lâu
Song đã chót (sic!) nhuộm màu hồng phấn
...
(Ý thơ là: Tự vui sống m ột m ình [với gió sớm trăng m ai], k hông bận tâm đế n
những k ẻ ở lầu son gác tía, nhưng đã trót sinh làm nữ giới...)

Được một dịch giả khác dịch thành:

Better to grow gradually under early wind and the moon


Ignoring the whiners who connive for gold and palaces (!)
Once we have tinted our faces with rouge

(Tốt hơn là nê n lớn lê n / phát triể n dần dần dưới những đợt gió và trăng sớm
Bỏ qua những k ẻ than vãn m ưu m ô tìm vàng và các cung điệ n (!)
C húng ta đã có lần tô m àu hồng phấn lê n m ặt m ình) (!)

Hoặc câu :

Lối xưa tu đã vụng đường

Được dịch “sát nghĩa đen” thành ra:

The traditional nunnery has become an awkward route (!)


(Nữ tu việ n truyề n thống đã thành m ột đường lối rầy rà k hó chịu)!

Hoặc:

Mai sau hết kiếp bao giờ


Dẫu rằng phú quý cũng chừa trần gian
Ví không lên chốn Bồng Sơn
Thì xin đem xuống cửu toàn cho xong
Chân mây mặt đất bóng hồng
Cây cao bóng mát tâm đồng mặc ai...
...

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 13/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Được dịch ... theo nghĩa đen thành:

If ever in the future this fate should end


If even the wealthy could be spared this world
If I can’t climb Fairy Mountain
Please take me down to the Nine Streams
The feelings of the beautiful clouds and earth,
Of the tall trees and fresh shadows concern no one (!!)
...
(Nế u trong tương lai số phận này chấm dứt
C ho dù sự giàu sang có thể được giữ lại thế giới này[?]
Nế u m ình k hông trè o[!] lê n được Núi Tiê n (Bồng sơn)
Xin hãy đe m tôi x uống dưới chín dòng suối
Những cảm x úc của các đám m ây và quả đất đẹ p đẽ
C ủa những cây cao và những cái bóng [đe n] tươi m át[!] k hông liê n quan đế n
ai hoặc k hông làm cho ai quan tâm cả[!])
...

Dẫu rằng phú quý cũng chừa trần gian – Dù (kiếp sau đầu thai) lên trần gian làm
người giàu có cũng không thèm, mà được dịch là If even the wealthy could be
spared this world!

Cửu toàn hay Cửu tuyền = Chín suối = Nine Streams. Liệu một người Tây
phương phải sống ở Việt Nam bao lâu để hiểu được Cửu tuyền hay Chín Suối có
nghĩa là... thế giới bên kia chớ chẳng phải là chín dòng suối nào cả?

Bóng mát là... fresh shadows!

Diệt văn học theo kiểu... ráp chữ tập làm văn như thế này mà giới thiệu với độc
giả nước ngoài là giới thiệu làm sao?

d.- Dịch giả không hiểu nguyên tác nên dịch liều.

Trái với lối dịch sát từng chữ theo nghĩa đen như trên là một lối dịch “phóng
khoáng” đến độ nếu John Dryden có sống lại cũng phải ngạc nhiên, dù trong ba
loại hình dịch thuật căn bản mà ông đã “công thức hóa”, có loại hình thứ ba là
dịch theo “cách mô phỏng khi dịch giả có thể rời bỏ nguyên tác nếu cảm thấy
phù hợp”. (imitation, where translator can abandon the text of the original as
he sees fit).[21]

Cách dịch vượt xa sự “mô phỏng” đến độ có thể gọi là... tối tác chủ yếu là do
dịch giả hoàn toàn không hiểu văn bản trong ngôn ngữ nguồn, hay nguyên tác.
Trường hợp bản dịch bài thơ “Thăng Long Thành Hoài Cổ” của bà Huyện Thanh
Quan đã được đề cập trong một bài viết trước đây là một ví dụ.

Bài thơ chữ Hán “Ngẫu Thành” của Nguyễn Trãi đã được nói đến ở phần trên
gồm bốn câu như sau:

Ngẫu Thành
Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư
Giác lai vạn sự tổng thành hư
Như kim chỉ ái sơn trung trú
Kết ốc hoa biên độc cựu thư

Dịch nghĩa:

Ngẫu nhiên mà thành


Chuyện đời như một giấc mộng hoàng lương
Tỉnh mộng ra thì tất cả mọi chuyện đều hư huyễn cả

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 14/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507
Hiện nay chỉ còn muốn vào ở trong núi
Làm nhà cạnh hoa để đọc sách xưa.

Bài thơ được dịch sang tiếng Anh:

AC C IDENTS O F FATE[22]
It’s over! Waking from a dream of golden millet
One discovers that all things are empty
Better to build a small hut in the mountains
and settle in to read old books and find satisfaction
in listening to the flowers of the forest bloosom .(!)

“Ngẫu thành” là ngẫu nhiên mà thành, hay tình cờ mà làm thành (bài thơ). Bài
dịch giới thiệu trong tờ tạp chí không kèm theo nguyên tác, không biết dịch giả
căn cứ vào “dị bản” nào mà dịch tựa đề bài thơ “Ngẫu Thành” này là Accidents
of Fate – Các tai nạn hay những tình huống rủi ro của số mệnh? Trong bài thơ
tác giả có nói đến tai nạn hay rủi ro nào đâu? Cũng chẳng có gì là số mệnh cả!

Ngoài “hột kê bằng vàng”, all things are empty chỉ có nghĩa khi nói về những vật
đựng như thùng, xô, chậu: mọi thứ đều trống trơn. Vạn sự tổng thành hư - Hư
đây là hư ảo, hư huyễn, có đó rồi mất đó, đâu phải là trống trơn như căn nhà
hay chiếc hộp! Và dịch giả không nhận ra đây là lời tự sự của tác giả tự nhủ
mình, nên dịch “One discovers...” như nói một kẻ nào khác, và “Better to build...”
như lời khuyến bảo một ai khác. Đã vậy dịch giả đã thừa giấy vẽ... thêm lời, thừa
cả một dòng in listening to the flowers of the forest bloosom một cách vô cớ trong
khi thiếu cái ý “làm nhà bên hoa”!

Cách “dịch phóng tác” kiểu này thấy xảy ra thường xuyên hơn hết là ở một dịch
giả người nước ngoài sống ở Hà Nội giữ trách nhiệm biên tập nhiều đầu sách
dịch của một nhà xuất bản. Đó là người đã dịch những câu thơ của Nguyễn Thị
Điểm Bích trích dẫn ở phần trên.

Và cũng dịch giả ấy (ngoài những câu “phóng tác” đã được đề cập trong bài viết
Bụt Chùa Người trước đây) đã dịch những câu ca dao dân gian:[23]

Rượu ngon chẳng quản be sành


Áo rách kéo vá hơn lành vụng may

thành:

No manager chech my tempting treat (!?)


Better than a tailor, I mended your shirt.

Dưới đây thì dịch giả không hiểu nên dịch ngược lại ý nguyên tác:

Nói ra đau đớn trong lòng


Ấy cái nợ truyền kiếp chớ phải chồng em đâu!

I speak about my heart’s pain


My husband is not my payment for a former life’s blame!

Hoặc:

Biết nhau mỗi đứa một nơi thêm buồn

Thành ra:

Knowing each other only brings more regret.

Hay:

Gái không chồng như phản gỗ long đanh


Phản long đanh anh còn chữa được

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 15/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Thành ra:

Single, she’s like a bed with loose plank


Waiting for some man to come rewamp

Hay:

Tôi về đã mấy năm nay

thành:

I left home many years ago.

Dịch giả hiểu lầm hoặc không hiểu văn bản nguồn đưa đến câu dịch “xuyên tạc”
một cách buồn cười.

Câu hát:

Có đêm thức suốt năm canh


Rau heo, cháo chó, loanh quanh đủ trò

mô tả phận làm dâu cực khổ của một cô gái trẻ, làm lụng vất vả suốt ngày, đêm
về lại phải thức thâu canh nấu rau cháo cho bầy heo chó nuôi trong nhà, nhưng
lại được dịch giả hiểu là cô gái phải ăn những thức ăn cho heo cho chó:

Lie awake all night in gloom


Eat pigs’ feed, dogs’ gruel, my life doomed!

Hoặc, trong bài “Ai Tư Vãn”, công chúa Ngọc Hân than mình vì các con mà còn
phải sống chớ hồn phách luôn dõi theo (hồn phách của) chồng ở khắp noi:

The o x a thôi lại the o gần


The o phe n điệ n quế the o lần nguồn hoa

Được các dịch giả khác dịch thành:

She followed him far off, followed him close by


Followed him to the quarters of wemen in the palace, (!)

Dịch giả như thế và dịch theo những cách như thế thì liệu việc giới thiệu văn học
Việt Nam sẽ đạt được kết quả gì? Vào thế kỷ 16, Etienne Dolet (1509-1546) nhà
nhân văn, học giả và dịch giả người Pháp bị xiết cổ chết và đốt xác (tức là một
hình phạt, mang ý nghĩa tiêu diệt hẳn linh hồn nạn nhân cho không được dự...
ngày phán xét) vì chánh quyền lúc bấy giờ cho là ông dịch sai một đoạn văn,
chứng tỏ ông là người tà giáo không tin vào sự bất tử. Dĩ nhiên chuyện dã man
đó chỉ xảy ra vào thời trung cổ ở châu Âu, thời con người còn cuồng tín đến man
rợ. Dù sao, thiện chí nhiều mà khả năng không tương ứng thì sẽ gây hậu quả
đáng tiếc hơn là hiệu quả.

Vấn đề thứ hai:

2. Dịch cho ai đọc?

Đã dịch ra tiếng nước ngoài thì đương nhiên là dành cho người nước ngoài đọc
chớ sao? Vì dịch là với mục đích giới thiệu văn học của ta ra nước ngoài mà. Có
lẽ không đơn giản như thế, hoặc một vài dịch giả không nghĩ đơn giản như thế.
Họ dịch... cho người Việt Nam biết tiếng Anh đọc! Đó là một tình trạng rất dễ
nhận thấy.

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 16/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Liệu có người nước ngoài nào hiểu được bà Huyện Thanh Quan nói gì qua hai
câu thơ trong bài “Qua Đèo Ngang” được dịch ra tiếng Anh một cách khôi hài
như dưới đây:

“Quốc quốc”, the swamp hen laments,


“Gia gia”, the patridge cries. [24]

Chỉ có độc giả người Việt mới hiểu, vì đã biết những từ “quốc quốc”, “gia gia”
nghĩa là gì trong câu thơ nguyên tác:

Nhớ nước đau lòng con “quốc quốc”,


Thương nhà mỏi miệng cái “gia gia”

Còn đây là vài câu trích trong bản dịch một đoạn Chinh Phụ Ngâm:

He will hunt the enemy as Giới Tử conquered Lâu Lan,


Storm in like Phục Ba smashing the Man Khê rebellion,
...
The advance troops are already approaching Liễu Camp
While the cavalry remains sheltered in distant Tràng Dương
...
Reaching Hàm Capital , he turns, glancing back once more,
While she watches from the wharf at Tiêu and Tương Rivers
The smoke at Tiêu Tương never drifts to Hàm Dương;
The trees in Hàm Dương are a species apart from Tiêu Tương.
...

Khoan nói đến những tên người tên đất trong đoạn đó là người Tàu đất Tàu,
nhưng người Trung Quốc nào đọc và có thể hiểu đoạn văn dịch có liên quan đến
các địa danh và lịch sử đất nước mình? Huống hồ đã “săn Lâu Lan” thì ắt Lâu
Lan là tên người, cho nên dịch săn thành conquer là không phù hợp. Tới Man Khê
bàn sự Phục Ba mà thêm thắt thành Storm in like Phục Ba smashing the Man Khê
rebellion là diễn nghĩa hơi vung tay quá... trớn.

Dù với thiện chí người ta cũng không tìm đâu ra trong lịch sử và lịch sử văn học
Việt Nam những tên người tên đất đó để hiểu hết nội dung bài văn. Cũng giống
như người Pháp và Mỹ đọc những tên phiên âm Lư Thoa, Mạnh Đức Tư Cưu, Oa
Sing Tơn, Niu Oóc... chớ không khác. Chỉ có độc giả người Việt mới có thể hiểu
được. Vậy, bản dịch chỉ để cho người Việt Nam đọc mà thôi.

Tuy vậy, đọc bản dịch The Moon Lute Player in the Thăng Long Citadel (Long
Thành Cầm giả ca)[25] gặp những câu này ngay người Việt cũng chắc gì đã hiểu:

She used to play “ Cung phụng khúc” in the palace...


...
On a feast night beside the Giám lake..
...
But fierce too like a thunderstroke on the stone stele of Tiến Phúc
As moving as the ailing moan in Việt of Trang Tích
...
The young people of Ngũ Lăng didn’t stand a chance
...
I was greeted honorably by Tuyên phủ sứ...
v.v...

Có được mấy người Việt hiểu được “Cung phụng khúc” là gì, Hồ Giám ở đâu? Bây
giờ nó còn không và là hồ gì? Điển tích “a thunderstroke on the stone stele of
Tiến Phúc” (trong câu thơ cổ “Vận khứ lôi oanh Tiến phúc bi”) nghĩa là gì? Tiếng

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 17/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

rên rỉ của Trang Tích ở đất Việt là sao? Ngũ Lăng là cái gì vậy? Không có một lời
chú thích nào cả. Cầm như tất cả độc giả nước ngoài đều rành điển tích Tàu hơn
người Việt. Không biết có bao nhiêu người Việt, ngoài các sử gia, hiểu rõ chức
“Tuyên phủ sứ” là gì? Dịch cho người Việt đọc với nhau mà người Việt cũng
không hiểu thì... chỉ còn cách bó tay chấm com!

Có một điều duy nhất cho thấy chủ đích các bản dịch này là dành cho độc giả
người nước ngoài: đó là trong sách Thơ Nữ Việt Nam... tên họ các tác giả được
lược bỏ hết các dấu phụ của nguyên âm (diacritics) và dấu giọng (accent
marks), còn lại những chữ “trần trụi” lạ mắt vừa không còn giống chữ Việt vừa
không giống chữ Tây, nhưng rồi lại sợ độc giả người Việt không đọc được nên
phải đặt lại nguyên dạng của cái tên đó trong ngoặc đơn ngay bên cạnh:

LE THI Y LAN (Lệ Thị Ỷ Lan)

NGUYEN THI DIEM BICH (Nguyễn Thị Điểm Bích)

vân vân... Thật ngộ.

Những từ tiếng Việt không dấu vốn là tàn tích của một thời nô lệ gần đây mà
dường như nhiều người quên mất ý nghĩa của chúng. Khi những người thực dân
Pháp thiết lập nền cai trị trên đất nước ta, tiếng Pháp, ngôn ngữ của kẻ thống
trị được sử dụng chính thức trong mọi lãnh vực; tiếng Việt bị đẩy xuống vai trò
ngôn ngữ phụ “của thổ dân” như một ngoại ngữ. Những nhà cai trị người Pháp
không thấy có lý do nào cần thiết phải đúc thêm các con chữ thích hợp để in
đúng chính tả vài tiếng Việt thỉnh thoảng xuất hiện trong các báo cáo hay trên
báo chí của họ. Kết quả là những từ tiếng Việt được in ra không có dấu giọng
(accent marks) lẫn dấu phụ của nguyên âm (diacritical marks). Một số người Việt
tưởng phải viết ngôn ngữ của dân tộc mình một cách trần trụi như thế thì mới
văn minh và ... sang như Tây. Thế là họ bắt đầu xóa bỏ hết các dấu trong tên
tuổi của minh trên danh thiếp... và bắt chước Tây phát âm những từ tiếng Việt lơ
lớ một cách ngọng nghịu, và gọi các địa danh của đất nước mình theo cách gọi
của người Pháp: Hạ Long thành Along, Láng Thọ (trung tâm thành phố Sài Gòn
bây giờ) thành Lăng Tô, Hương Bì thành Uông Bí, vân vân... Trong lúc đó, khi
viết và đọc tiếng Pháp của “mẫu quốc” thì họ cắc ca cắc củm viết cho đúng một
cédille trong chữ Française, cái dấu sắc của chữ café, cái dấu huyền trong chữ
frère và dấu apostrophe chẳng hạn cho từ Sonnet d'Arvers trên đây...vân vân.
Thiếu những cái dấu đó trong tiếng Pháp là dấu hiệu họ không rành tiếng mẫu
quốc khiến họ xấu hổ, còn thiếu những dấu đó trong tiếng Việt và phát âm
ngọng nghịu tiếng mẹ đẻ là dấu hiệu theo kịp văn minh hoặc đã được dự phần
dồng hóa vào giai cấp thống trị sang cả!

Rất tiếc, “dịch” theo cách đó không những không biến những chữ Việt thành
tiếng nước ngoài được mà những chữ lai căng “không còn ta mà cũng chẳng
phải Tây” ấy chỉ gây bối rối cho người đọc. Nếu một người nước ngoài muốn nói
đúng tiếng Việt họ cũng cần chữ có đầy đủ các dấu giọng để làm chuẩn phát
âm. Tiếng Việt không dấu không khác gì một con đường lắm ngã ba ngã bảy mà
không có một hiệu báo giao thông nào. Người bản xứ chưa chắc đọc hiểu, làm
sao người nước ngoài hiểu được?

Ví dụ một đoạn văn sau đây, từ một cuốn sách nghiên cứu âm nhạc viết bằng
tiếng Anh xuất bản trong nước:

“W e use d traditional te chnical te rm s still use d by popular artists such as the


ngon nhan, ngon chun, ngon nhun... A te nde ncy has appe are d am ong the young
instrum e ntalists and te ache rs of the dan bau to use a m ore e x plicative

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 18/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507
language for e x am ple , by calling the se cond te chnique (ngon chun), the
de sce nding fle x ional te chnique (nhan luyen xuong)”. [26]

Có lẽ phải là người Việt trong nghề mới hiểu được những từ Việt “bí ẩn” trong
đó. Nếu một người nước ngoài đọc không hiểu, nhờ một người Việt như tôi giải
thích thì tôi cũng đành bó tay. Nếu không chịu bó tay thì tôi có thể ... nói bậy
như một tác giả (dịch giả?) của một bài viết trên tờ tạp chí Heritage của hãng
Hàng Không Việt Nam số Tết Canh Dần 2010 đã dịch ba chữ Việt không dấu Gia
Dinh Bao thành... Family News![27]

Gia Định Báo là tên tờ báo đầu tiên của Việt Nam viết bằng loại chữ “la tinh hóa”
mà ngày nay chúng ta gọi là chữ quốc ngữ, xuất bản tại Sài Gòn từ ngày 15
tháng 4 năm 1865. Không ngờ đúng một trăm năm sau ngày đình bản (ngày 1
tháng Giêng dương lịch năm 1910), chỉ vì do ai đó muốn “Tây hóa” bỏ hết dấu đi
mà Gia Định Báo trở thành tờ “Tin tức gia đình” (Family News)!

3. Họ đã hiệu đính các bản dịch như thế nào?

To err is human. Sai lầm là bản tính của con người. Các dịch giả cũng là người,
làm một công việc đặc biệt với một ngôn ngữ không phải bản ngữ của mình
trong khi khả năng nhiều bề còn khuyết. Dù sao, không hiểu một đoạn văn, viết
sai một từ hay một câu tiếng Anh cũng chẳng phải là điều gì ghê gớm đến nỗi
bút sa thì gà phải chết. Và có lẽ những thiếu sót hay sai lầm trong các bản dịch
đề cập trên đây đã được những người có trách nhiệm xuất bản dự liệu trước.
Cho nên họ đã cẩn thận nhờ các dịch giả người nước ngoài hiệu đính từng bản
dịch. Dưới mỗi bản dịch đều có tên người hiệu đính kèm theo tên dịch giả. Điều
đó chứng tỏ sự thận trọng và tinh thần trách nhiệm nghiêm túc của nhà xuất
bản.

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 19/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Thông thường, để hiệu đỉnh một tác phẩm dịch thuật, người hiệu đính phải
thông thạo cả hai ngôn ngữ như một yêu cầu tiên quyết, và am hiểu vấn đề mà
mình tham gia hiệu đính, trong trường hợp này là am hiểu tiếng Việt, lịch sử văn
học và nền văn học cổ Việt Nam. Đó là một yêu cầu cần thiết và đúng dắn. Có
như thế người hiệu đính mới đánh giá được, trước hết, những điều được dịch có
đúng với nguyên tác hay không. Nếu người dịch thơ phải là một nhà thơ thì
người hiệu đính không thể không có đủ khả năng căn bản họ cần phải có.

Thế nhưng mọi sai lầm và thiếu sót, thậm chí nghiêm trọng, về kiến thức lẫn
ngôn ngữ, vẫn còn nguyên trong các bản dịch như ta đã thấy. Chúng ta không
thể không nêu câu hỏi: những người có trách nhiệm hiệu đính các bản dịch đã
làm điều đó như thế nào?

Rất tiếc, câu trả lời là: Họ đã không làm gì cả!

Không làm gì cả sao họ lại “chịu” để tên mình “hiệu đính”? Chúng ta không nghi
ngờ lòng tự trọng của họ: không làm mà vẫn “đánh trống ghi tên”. Chắc phải có
một lý do nào đó?

Lý do gì? Họ không hiểu tiếng Việt, và không hiểu văn học Việt Nam nên họ đặt
ngược tin tưởng vào các dịch giả người Việt với gỉả định là các dịch giả thông
thạo cả hai ngôn ngữ và vì dịch giả là người Việt nên thông thạo văn học Việt
Nam chăng? Có thể như thế, tuy họ, hoặc nhà xuất bản, đã không nói rõ là các
nhà hiệu đính không chịu trách nhiệm về cách các dịch giả hiểu văn bản nguồn
và cách họ dịch, mà chỉ hiệu đính câu cú cho đúng ngữ pháp tiếng Anh thôi. Như
thế cũng là hiệu đính.

Nhưng cũng không phải vậy.

Ở trên chúng ta đã không nghi ngờ tư cách và sự tự trọng của họ. Bây giờ
chúng ta cũng không nghi ngờ gì về khả năng tiếng Anh của họ. Nghi ngờ các
dịch giả hiệu đính này không thông thạo tiếng mẹ đẻ của họ có thể là một điều
xúc phạm. Họ là các dịch giả hoặc tác giả bản ngữ Anh Mỹ, nếu chỉ làm một việc
chữa lỗi ngôn ngữ trong các bản dịch, thế tại sao họ đã không nhận ra và
không sửa chữa các lỗi ngữ pháp rất hiển nhiên và thậm chí rất cơ bản trong các
bản dịch mà họ có ký tên mình hiệu đính? Ngoài các từ tiếng Anh được dùng
không chính xác mà có thể do Vietnamese literature is Greek to them, nên họ
không biết để sửa, các lỗi ngữ pháp rất thông thường vẫn còn nguyên trong
bản in, lồ lộ trước mắt người đọc, rất xốn.

Trước hết là một cái tựa sách. Đó là cái tựa “Thơ Nữ Việt Nam Từ Xưa Đến Nay –
Vietnamese Feminist Poems From Antiquity to the Present”.

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 20/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507

Thơ thì làm gì có thơ nữ hay thơ nam. Nói Thơ Nữ Việt Nam là nói tắt “Thơ của
các nhà thơ nữ Việt Nam”. Nhưng Vietnamese Feminist Poems thì đã thành ra
chuyện khác. Vì nó có nghĩa là những bài thơ mang tinh thần đấu tranh cho
quyền phụ nữ! Khi nói Feminist literature, người ta không nghĩ đó là văn học
của phụ nữ mà là thứ văn học tranh đấu cho nữ quyền. Trong cả cuốn sách có
bài thơ nào như thế đâu? Trách nhiệm của việc dịch sai ngay cái tựa trên bìa
sách này là do dịch giả non kém hay do các nhà hiệu đính “vô tình” bỏ qua? Hay
cả hai?

Một bài thơ của nhà thơ Phạm Đình Hổ có nhan đề được dịch sang tiếng Anh
DELICATE FEELINGS[28] gồm ba đoạn bốn câu, mỗi đoạn đều bắt đầu với cụm từ
được lập lại:

Pretty girl from Hà Nội

Có lẽ không ai lại nói tiếng Anh “hàm hồ” như vậy. Nếu muốn nói đến một cô gái
xinh đẹp nào đó ở Hà Nội mà không xác định là ai, thì người ta nói:

A pretty girl from Hà Nội

Nếu đó là một cô gái xác định hoặc đã được đề cập trước đó rồi thì người ta
dùng mạo từ xác định:

The pretty girl from Hà Nội

Chỉ khi nào muốn nói tổng quát tất cả các cô gái đẹp ở Hà Nội người ta mới có
thể không dùng mạo từ, nhưng danh từ thì ở dạng số nhiều:

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 21/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507
Pretty girls from Hà Nội.

Lỗi ngữ pháp sơ đẳng được lập lại nhiều lần “sờ sờ” trước mắt trong sách thì rõ
ràng là những nhà hiệu đính, nếu không phải “vô tình không thấy”, đã cố tình
không làm gì cả. Thậm chí có thể là họ không đọc. Tuy vậy cũng có một dấu vết
duy nhất chứng tỏ người ký tên hiệu đính dưới một bản dịch đã có “làm việc”
hoặc có đọc qua bản dịch đó. Nhưng rất tiếc, dấu vết đó lại là... rác rưởi: sau
câu thứ hai của bản dịch một bài thơ thất ngôn bát cú của Tản Đà bỗng chèn
vào một ghi chú trong ngoặc đơn: (autumn or Fall – should be consistent) – gọi
mùa thu là autumn hay Fall thì phải nhất quán – Như thế này đây:

MO O N LIGHT O VER THE W EST LAKE


By Tản Đà
Gone with a solitary breeze over the West Lake, a leaf falls
In the stark autumn moonlight, one is accompanied only by his own shadow
(autum n or Fall – should be consiste nt)
Unanswered love mirrored in the water as a lost gaze.
...

Trong bản dịch chỉ có duy nhất một từ chỉ mùa thu là autumn (tiếng Anh) mà có
lẽ người hiệu đính là người Mỹ muốn dùng từ tiếng Mỹ “Fall” để thay thế. Nhưng
không lẽ tất cả những gì mà các dịch giả người nước ngoài làm được vừa đủ để
ký tên mình hiệu đính chỉ là... tranh đấu cho một từ tiếng Mỹ được dùng ưu tiên,
và lưu một dòng chữ như thế giữa một bản dịch một bài thơ tám câu?

Ghi tên tuổi mình một cách nghiêm túc là người hiệu đính mà không làm gì cả,
để mặc cho tất cả các sai lầm tồn tại, đó là do họ thiếu tự trọng, họ không trung
thực, hay họ coi thường văn học Việt Nam qua những bản dịch quá non nớt?

Cuốn sách Thơ Nữ Việt Nam Từ Xưa Đến Nay không chỉ được xuất bản ở Việt Nam
mà còn được “ra mắt” ở Mỹ với đầy đủ những yếu kém trong các bản dịch của
nó. Đặc biệt, đầu sách có lời “Cùng bạn đọc” (Dear Readers) với câu cuối như
vầy được các nhà hiệu đính trân trọng (bụm miệng) giữ nguyên, có lẽ để tỏ ra
tôn trọng tính chất “cây nhà lá vườn” trong cách viết tiếng Anh của người Việt
cho độc giả khắp năm châu được thưởng thức:

“W e would be ple ase d to have re ade rs, poe ts, and translators share the ir
ide as with us so that subse que nt e ditions of this anthology can be m ore
com ple te and m ore e ngaging...”

Có thể nào họ, những người đứng tên hiệu đính ấy, có một “mưu đồ” khác “độc”
hơn chăng? Làm cho văn học Việt Nam nói chung xuất hiện như những sản
phẩm tầm thường, què quặt, ngây ngô, vô nghĩa trước con mắt thế giới, chẳng
hạn? Hoặc hẹp hơn, để cho cả thế giới thấy “Việt Nam 87 triệu dân mà không có
người chuyển ngữ thơ văn” cho ra hồn, như Gs Nguyễn Văn Tuấn băn khoăn đặt
câu hỏi trên blog của ông chăng?

Biết chết liền.

_________________________
[1]Lời dịch tiế ng Anh bồi trong bài hát “Hà Nội m ùa vắng những con m ưa” trong C D nói
trê n.
[2]
The o Susan Bassne tt-McGuire , Translation Studies, bản in k hông ghi năm và nhà x uất
bản, trang 60.
[3]Nhàx uất bản Fe m inist Đại học Thành phố Ne w York , Mỹ và nhà Xuất bản Phụ Nữ, Việ t
Nam cùng hợp tác x uất bản. Ấn bản lần thứ hai, năm 2009, trang 148-149.
[4]
Số Kỷ niệ m 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, trang 14.

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 22/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507
[5]
Thơ Nữ Việt Nam... Sách đã dẫn, trang 130 – 133.
[6]Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 140 – 143.
[7]Thơ Nữ Việt Nam...Thơ Nữ Việ t Nam ... Sđd, trang 122–123.
[8]Thơ Nữ Việt Nam... Hồ Xuân Hương, Vịnh cây quạt, sđd, trang 128–129.
[9]Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 112-113
[10]Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 114-115
[11]Tạp chí đã dẫn, trang 16-17
[12]Âmnhạc ngũ cung có 5 điệ u thức. Ở đây ví dụ với điệ u thức tưng ứng với âm giai chủ
âm Đô cho dễ hiể u.
[13]Âm nhạc thập nhị cung hay âm nhạc 12 âm , tức là âm giai ngoài bảy nốt chính có
thê m năm nốt m ang dấu diè se (#): Đô - Đô# - R ê - R ê # - Mi – Fa – Fa# - Sol – Sol# -
La – La# - Si; [hoặc năm nốt m ang dấu bé m ol (b): Đô - R ê b - R e – Mib - Mi – Fa – Solb
– Sol - Lab – La – Sib – Si].
[14]Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 150–151.
[15]Nữ sĩ C ao Ngọc Anh (1878-1970), tê n thật là C ao Thị Hòa, ái nữ của quan Thượng thư
Bộ Học C ao Xuân Dục, con dâu của quan Phụ chính Đại thần Nguyễ n Trọng Hợp triề u
Thành Thái. C ó lẽ , ngoài tài văn thơ, bà tự cho là m ình do gia thế quyề n quý m à nổi
tiế ng nê n m ới có câu tự trào như thế .
[16]Vietnam Literature Review, sđd, trang 14.
[17]Thơ Nữ Việt Nam... “Ai Tư Vãn”, Sách và trang đã dẫn.
[18]
Thơ Thiền Lý Trần, nhà thơ Nguyễ n Duy chủ biê n, nx b Văn Hóa Sài Gòn, ấn bản lần thứ
hai, 2008, trang 58.
[19]C ó lẽ “Having found a dragon–shape d land whe re I could re side ” thì sát và rõ hơn.
[20]Thơ Nữ Việt Nam... Sđd, trang 146 – 147. Bà Nhàn Khanh là nữ sĩ người Bắc, e m gái
của hai cụ họ Dương nổi tiế ng là Dương Khuê (“Bác Dương thôi đã thôi rồi..." - Nguyễ n
Khuyế n) và Dương Lâm . Bà sống vào k hoảng đầu thế k ỷ 20.
[21]Ba loại hình dịch thuật căn bản the o Dryde n là: 1. Dịch sát từng chữ the o nghĩa đe n,
2. Dịch se nse for se nse the o cách của C ice ro, và 3. Dịch m ô phỏng, hay phỏng dịch.
[22]Vie tnam Lite rature R e vie w, sđd, trang 14.
[23]
Thơ Nữ Việt Nam... sđd, từ trang 93 đế n trang 109.
[24]Thơ Nữ Việt Nam, sđd, trang 134–135.
[25]Vie tnam Lite rature R e vie w... Tạp chí đã dẫn, trang 16 – 17.
[26]ĐàoTrọng Từ, Huy Trân, Tú Ngọc, Essays On Vietnamese Music, R e d R ive r Fore ign
Language Publishing House , Hanoi, 1984. Ghi chú (1) trang 36.
[27]Heritage,Tạp chí của Hàng Không Q uốc gia Việ t Nam – Vie tnam Airline s English
Magazine , Ye ar of the Tige r, (2010) trang 35.
[28]Vietnam Literature Review, tạp chí đã dẫn, trang 18.

----------------

Bài liên hệ:

12.09.2010
Có một bà tên Huyen (Huyện) họ Quan lót chữ Thanh (tiể u luận /
nhận định)
... Nhưng điề u k ỳ lạ hơn hế t là dịch giả k hông hiể u chút gì trong nội dung bài
thơ Đường luật “tám câu năm vần” rất nổi tiế ng này của bà Huyệ n Thanh
Q uan. Dịch và giới thiệ u ra văn học thế giới m ột tác phẩm của cổ nhân m à
người dịch k hông có chút hiể u biế t m ảy m ay nào cả về hình thức lẫn nội dung
của nó là m ột chuyệ n thật hiế m có... (...)

08.10.2010
Chắp cánh cho ca khúc Việt bay đến 1000 năm điên rồ - Nguyễn
Tôn Hiệt
[1000 NĂM THĂNG LONG] ... Sự k iệ n “Đại Lễ Ngàn Năm Thăng Long”

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 23/24
28/02/2013 tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507
k hai m ạc vào ngày 1/10/2010 (nhằm ngày quốc k hách C ộng Hoà Nhân Dân
Trung quốc) và k ế t thúc vào ngày 10/10/2010 (nhằm ngày quốc k hánh nước
C ộng Hoà Nhân Dân Triề u Tiê n và Trung Hoa Dân Q uốc) là m ột chuỗi vô số
những trò nhế ch nhác rất ư là hoàng tráng. Đã có quá nhiề u người nói về
những trò này trong những ngày qua. Hôm nay, gần đế n ngày cao trào của
“đại lễ ”, tôi vào x e m inte rne t thì tình cờ phát hiệ n m ột sản phẩm văn hóa cực
k ỳ ngu x uẩn, điê n rồ, nhưng rất ư m ang “tính quốc tế ”. Vậy nê n tôi x in tường
thuật lại ở đây cho m ọi người cùng thưởng lãm ... (...)

C ác hoạ phẩm s ử dụng trên trang này được s ự c ho phép c ủa c ác hoạ s ĩ đã tham gia trên trang T iền V ệ

Bản quyền T iền V ệ © 2 0 0 2 - 2 0 1 3

tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11507 24/24

Вам также может понравиться