Вы находитесь на странице: 1из 18

MỤC LỤC

1. Dẫn nhập…………………………………………….1
2. Nhận xét bản án…………………………………….1
3. Tóm tắt bản án………………………………………1
3.1. Dữ kiện xung quanh vấn đề.………………....1
3.2. Quyết định của tòa án…………………………1
4. Bình luận bản án
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN TÁNH LINH Độc lập -Tự do - Hạnh phúc
TỈNH BÌNH THUẬN

Bản án: 26/2017/DS - ST.


Ngày: 27/07/2017.
V/v “Tranh chấp hợp đồng gia công”.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH TỈNH BÌNH THUẬN

Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Yến.
Các hội thẩm nhân dân: 1. Ông Mai Thế Hải.
2. Ông Nguyễn Hữu Phước.

Thư ký phiên tòa: Ông Hồ Văn Khánh – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh
tỉnh Bình Thuận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh tỉnh Bình Thuận tham gia
phiên toà: Bà Đinh Thị Vân Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 7 năm 2017 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện Tánh
Linh tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/2017/TLSTDS,
ngày 27 tháng 03 năm 2017 về việc: “Tranh chấp hợp đồng gia công”. Theo quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2017/QĐST – DS, ngày 07/07/2017 giữa các đương
sự:

Nguyên đơn:
- Ông Trần Đắc Long (tên gọi khác: Dương), sinh năm 1979; trú tại: Thôn
2 – Bắc Ruộng – Tánh Linh – Bình Thuận: Có mặt.
Bị đơn:
- Ông Phạm Minh Sơn, sinh năm 1977 - đã ủy quyền cho bà Nguyễn Thị
Thu An, sinh năm 1979; cùng trú tại: Thôn 1 - Huy Khiêm – Tánh Linh – Bình Thuận:
Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Ngô Thị Thuẩn, sinh năm 1985; trú tại: Thôn 2 – Bắc Ruộng – Tánh
Linh – Bình Thuận: Có mặt.
- Bà Nguyễn Thị Thu An, sinh năm 1979; trú tại: Thôn 1 - Huy Khiêm –
Tánh Linh – Bình Thuận: Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Trong đơn khởi kiện ngày 22/3/2017 và các tài liệu, chứng cứ được thu
thập trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn ông Trần Đắc Long
trình bày như sau:
Vào khoảng tháng 9/2017 giữa ông Trần Đắc Long và ông Phạm Minh Sơn thỏa thuận
xây dựng một căn nhà cấp 4 có diện tích 200m2 với số tiền công là 600.000đ/m2 x
200m2 = 120.000.000đ. Các bên thỏa thuận đến thời hạn ngày 20/12/2016 (âm lịch)
ông Long phải có trách nhiệm giao nhà cho gia đình ông Sơn. Ông Long có trách
nhiệm thi công căn nhà, trả tiền công sơn nước, tiền công bắt điện nước. Các bên có
viết và ký kết hợp đồng xây nhà với nhau. Sau đó, phía bên vợ chồng ông Sơn, bà An
có phát sinh một một số hạng mục khác ngoài hợp đồng nhưng ông Long vẫn đồng ý
xây dựng căn nhà này. Trong quá trình thi công các bên đã thực hiện theo đúng thỏa
thuận. Tuy nhiên, ông Long xác định sau khi hoàn thành căn nhà giao cho vợ chồng
bà An, ông Sơn thì ông Long chỉ nhận được số tiền là 80.000.000đ cộng với các chi
phí mà bà An đã trả gồm tiền sơn nước: 12.000.000đ; tiền bắt điện: 4.000.000đ; tiền
công bắt ống nước: 750.000đ. Ông Long khấu trừ tiền công đóng la phông bằng tôn
lạnh cho bà An là 3.000.000đ. Như vậy, tổng số tiền bà An đã thanh toán cho ông
Long liên quan đến tiền công xây dựng nhà là 99.750.000đ. Còn lại 20.250.000đ bà
An, ông Sơn chưa trả nên ông Long đề nghị vợ chồng bà An, ông Sơn phải có trách
nhiệm trả số tiền 20.250.000đ cho vợ chồng ông Long, bà Thuẩn.

[2] Thể hiện trong các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên toà
hôm nay, bị đơn ông Phạm Minh Sơn đã ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thu An trình bày:
Vào khoảng tháng 8 - 9/2016 (âm lịch) giữa vợ chồng bà An, ông Sơn có thỏa thuận
xây dựng một căn nhà cấp 4 với diện tích 200m2; tiền công 600.000đ/m2 x 200m2 =
120.000.000đ với ông Trần Đắc Long. Các bên thỏa thuận, ông Long có trách nhiệm
xây dựng nhà và chịu các chi phí liên quan đến tiền công thợ xây nhà, tiền bắt điện
nước, tiền công sơn nước. Đến ngày 20/12/2016 ông Long phải hoàn thành và giao
nhà cho vợ chồng bà An. Bà An thỏa thuận với ông Long xây dựng theo đúng kết cấu
được ghi trong bản hợp đồng mà các bên đã ký kết. Tuy nhiên, trong quá trình thi
công xây dựng thì phía bà An có thay đổi, phát sinh thêm một số hạng mục khác ngoài
hợp đồng. Trong quá trình thi công ông Long đã xây dựng theo đúng yêu cầu của bà
An, ông Sơn. Các bên thỏa thuận bà An, ông Sơn có trách nhiệm thanh toán tiền công
xây dựng nhà cho ông Long với số tiền 120.000.000đ chia làm 3 lần: Lần thứ 1: Sau
khi hoàn thành xong phần móng nhà giao 40.000.000đ; lần thứ 2: Sau khi lợp tôn
xong giao: 40.000.000đ; lần thứ 3: Sau khi hoàn thành và giao nhận thanh toán
40.000.000đ. Bà An xác định đã thực hiện việc thanh toán tiền theo đúng thỏa thuận.
Tổng số tiền bà An đã giao cho ông Long là 100.000.000đ. Do bà An trực tiếp thanh
toán tiền công sơn nước 12.000.000đ; tiền công bắt điện 5.000.000đ; tiền bắt ống
nước: 750.000đ. Đồng thời trước kia ông Long và bà An, ông Sơn thỏa thuận đóng la
phông bằng tôn lạnh nhưng sau đó phía bà An thay đổi làm la phông bằng thạch cao
nên ông Long đồng ý khấu trừ cho bà An 3.000.000đ, tiền công làm la phông. Như
vậy, tổng số tiền bà An đã thanh toán là 120.750.000đ. Cho nên, bà An không còn nợ
ông Long tiền xây dựng nhà. Do đó, bà An không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông Long.

[3] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Thuẩn trình bày:
Thống nhất như lời khai của ông Trần Đắc Long. Bà Thuẩn xác định hiện nay vợ
chồng bà An, ông Sơn còn thiếu tiền công xây dựng nhà là 20.250.000đ. Cho nên, yêu
cầu vợ chồng bà An, ông Sơn phải trả số tiền 20.250.000đ cho bà Thuẩn, ông Long.

[4]. Những chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án:


- Ông Trần Đắc Long cung cấp những chứng cứ sau: 01 bản hợp đồng thể hiện nội
dung thỏa thuận xây dựng nhà giữa các bên; giấy ghi nội dung theo dõi trả tiền công
cho thợ xây dựng; một số họ tên, địa chỉ của những người làm chứng liên quan trong
vụ án.
- Bà Nguyễn Thị Thu An cung cấp các chứng cứ sau: 01 bản hợp đồng thể hiện
nội dung thỏa thuận xây dựng nhà giữa các bên, trang thứ 2 có chữ ký màu đỏ ghi nội
dung “Dương ứng 40 triệu” và ký tên Dương; bà An cung cấp một số họ tên, địa chỉ
của người làm chứng trong vụ án.
- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã thu thập những chứng cứ như sau:
Tiến hành lấy lời khai của những người làm chứng liên quan trong vụ án.
- Ông Trần Đắc Long và bà Nguyễn Thị Thu An đều thống nhất: Vào khoảng
tháng 9/2016 (Al) giữa vợ chồng bà An, ông Sơn có thỏa thuận với ông Long để xây
dựng một căn nhà cấp 4 có diện tích 200m2 với số tiền công là 120.000.000đ. Nội dung
thỏa thuận được thể hiện trong “Bản hợp đồng” mà các đương sự đã cung cấp. Các bên
thống nhất các chi phí mà bà An đã trực tiếp chi trả là: Tiền công sơn nước 12.000.000đ;
tiền bắt đường ống nước: 750.000đ. Khấu trừ tiền công đóng la phong bằng tôn lạnh là
3.000.000đ.
- Các vấn đề liên quan đến vụ án các đương sự không thống nhất: Ông Long xác
định chỉ nhận từ bà An số tiền mặt là 80.000.000đ. Ông Long chấp nhận trả tiền công
bắt điện là 4.000.000đ. Bà An trình bày đã giao cho ông Long tổng số tiền là
100.000.000đ. Tiền công bắt điện bà An đã trả cho ông Thịnh là 5.000.000đ. Ông Long
cho rằng hiện nay bà An còn nợ tiền công xây dựng nhà là 20.250.000đ. Bà An không
đồng ý mà xác định đã trả toàn bộ chi phí xây dựng nhà là 120.750.000đ nên bà An
không còn nợ ông Long số tiền nào liên quan đến tiền công xây nhà.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh phát
biếu ý kiến như sau:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm
phán đã tuân thủ theo đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Tại phiên tòa
Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ
thẩm.
- Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng
như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng các quy định về quyền và
nghĩa vụ của đương sự. Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Đề nghị xem xét áp dụng khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và các Điều 146, 147,
203 của bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Điều 542, 547, 549, 552 Bộ luật dân sự năm 2005.

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đắc Long.

Buộc vợ chồng ông Phạm Minh Sơn, bà Nguyễn Thị Thu An phải liên đới trả cho
ông Trần Đắc Long số tiền công từ hợp đồng gia công xây nhà là 19.250.000đ. Chia
phần ông Phạm Minh Sơn phải trả 9.625.000đ; bà Nguyễn Thị Thu An phải trả
9.625.000đ

Bà Nguyễn Thị Thu An, ông Phạm Minh Sơn phải liên đới nộp 962.500đ; ông Trần
Đắc Long phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho ông Long số tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 700.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN


[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp:
Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Trần Đắc Long vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc
vợ chồng ông Phạm Văn Sơn, bà Nguyễn Thị Thu An phải có trách nhiệm thanh toán
số tiền còn thiếu trong quá trình ông Long thi công xây dựng căn nhà cho vợ chồng
ông Sơn, bà An. Bà Nguyễn Thị Thu An cho rằng đã thanh toán toàn bộ số tiền xây
dựng nhà cho anh Long nên bà An không chấp nhận yêu cầu này. Do đó, Hội đồng xét
xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án này là tranh chấp hợp đồng gia
công là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS; Điều 547 BLDS năm
2005. Cho nên, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện
Tánh Linh theo quy định tại khoản 1 Điều 35 BLTTDS.

[2[ Xét về yêu cầu khởi khiện của ông Trần Đắc Long:
Hội đồng xét xử xét thấy: Vào khoảng tháng 9/2016 giữa ông Trần Đắc Long
(Trần Đắc Dương) và ông Phạm Văn Sơn đã thỏa thuận xây dựng một căn nhà cấp 4
có tổng diện tích là 200m2 với số tiền là 120.000.000đ (600.000đ/1m2 x 200m2); xung
quanh nhà xây tường gạch 20cm; giữa nhà xây tường 10cm; đổ trụ cột xung quanh
cao 4m; tường ốp gạch men cao 1.6m; sơn nước mặt tiền + mặt bên hông; lợp tôn 1
mái; đỗ mê hiên chữ L; trần nhà đóng la phông bằng tôn lạnh; điện âm tường và ông
Long có trách nhiệm bắt đường ống vệ sinh. Các bên thỏa thuận đến ngày 20/12/2016
âm lịch thì ông Long phải có trách nhiệm giao nhà cho vợ chồng ông Sơn, bà An. Tuy
nhiên, trong quá trình thi công phía bên vợ chồng bà An, ông Sơn có thay đổi một số
kết cấu so với thỏa thuận ban đầu như ốp thêm đá hoa cương phần mặt tiền và bên
hông chữ L của căn nhà; làm la phông bằng thạch cao chứ không làm bằng tôn lạnh;
sơn giả đá phần mái hiên mặt tiền nhà và bắt thêm đèn Led, đèn chùm trên phần la
phông thạch cao. Tất cả những chi phí liên quan đến phần phát sinh này thì phía vợ
chồng bà An, ông Sơn phải chịu. Ông Long đã đồng ý với phần phát sinh này. Trong
quá trình thi công các bên đã thực hiện theo đúng thỏa thuận.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, ông Long
đều xác định: Sau khi thi công phần móng nhà xong thì phía bà An đã thanh toán cho
ông Long số tiền 40.000.000đ. Ông Long có viết ký nhận đã ứng số tiền 40.000.000đ
này. Sau đó, ông Long đã ứng thêm nhiều lần với số tiền là 40.000.000đ. Tổng số tiền
mà ông Long đã ứng liên quan đến tiền công xây dựng căn nhà từ bà An là
80.000.000đ. Ngoài ra, do trong thời gian làm nhà, bà An đã trả những chi phí liên
quan đến tiền công bắt điện, tiền công thợ sơn nước. Do lúc đầu các bên thỏa thuận
làm la phong bằng tôn lạnh nhưng sau đó phía vợ chồng bà An làm la phong bằng
thạch cao nên ông Long khấu trừ tiền công làm la phông cho bà An là 3.000.000đ.
Anh Long đồng ý khấu trừ những chi phí này vào tiền công xây dựng nhà cụ thể: Tiền
công bắt điện: 4.000.000đ; tiền bắt đường ống nước 750.000đ; tiền công thợ sơn
nước: 12.000.000đ; tiền công đóng la phông 3.000.000đ. Như vậy, tổng số tiền ông
Long đã nhận và thanh toán các chi phí này là 99.750.000đ (80.000.000đ +
12.000.000đ + 4.000.000đ + 750.000đ + 3.000đ). Còn lại số tiền 20.250.000đ bà An
chưa thanh toán cho ông Long. Tuy nhiên, bà An không chấp nhận phần trình bày của
ông Long mà cho rằng đã trực tiếp thanh toán cho ông Long tổng số tiền liên quan đến
phần công xây dựng căn nhà là 100.000.000đ. Cụ thể: Lần thứ nhất: Ông Long làm
xong phần móng bà An đã giao số tiền 40.000.000đ; lần thứ hai: Sau khi lợp xong
phần tôn mái nhà bà An đưa thêm số tiền 40.000.000đ; lần thứ ba: Khoảng cuối tháng
12/2016 (Al) giao thêm số tiền 20.000.000đ. Ngoài ra, bà An còn thanh toán các
khoản chi phí như: Tiền công sơn nước: 12.000.000đ; tiền công bắt điện: 5.000.000đ;
tiền bắt đường ống nước 750.000đ; khấu trừ tiền đóng la phông là 3.000.000đ. Như
vậy, tổng số tiền bà An đã thanh toán liên quan đến phần thi công căn nhà cho ông
Long là 120.750.000đ.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa, ông Long cho rằng
trong lần ứng tiền 40.000.000đ có ký nhận nhưng những lần ứng tiền tiếp theo thì các
bên không có ký nhận, nhưng bà An có ghi vào sổ theo dõi thanh toán tiền công cho
ông Long. Tại phiên tòa, bà An đã cung cấp được một chứng cứ chứng minh đã giao
cho ông Long được 40.000.000đ và xác nhận số tiền này đã thanh toán sau khi ông
Long xây móng nhà xong. Còn những lần giao tiền sau khi lợp tôn đưa ông Long
40.000.000đ; đến thời điểm tháng 12/2016 (Al) đưa thêm 20.000.000đ thì bà An
không cung cấp được chứng cứ gì chứng minh ông Long đã nhận những số tiền này.
Trong khi đó, ông Long chỉ xác định đã nhận từ bà An tổng số tiền là 80.000.000đ;
còn số tiền 20.000.000đ mà bà An cho rằng đã thanh toán cho ông Long vào thời điểm
tháng 12/2016 (Al) thì ông Long cho rằng không nhận được khoản tiền này. Do bà An
không cung cấp được chứng cứ ông Long đã nhận số tiền 20.000.000đ này. Cho nên,
việc bà An cho rằng đã thanh toán cho ông Long tổng số tiền công xây nhà là
100.000.000đ là không có cứ để chấp nhận.

Đối với số tiền công bắt điện, bà An cho rằng thanh toán cho ông Trần Ngọc
Thịnh số tiền công bắt điện là 5.000.000đ. Ông Long không đồng ý vì ông Long cho
rằng khi thỏa thuận với ông Nguyễn Trần Việt Anh về tiền công bắt điện các bên đã
thống nhất phía ông Long phải chi trả 20.000đ/1m2 x 200m2 = 4.000.000đ. Sau đó,
ông Long cũng thỏa thuận với ông Thịnh sẽ trả tiền công bắt điện là 4.000.000đ. Nên
ông Long chỉ chấp nhận thanh toán lại cho bà An số tiền 4.000.000đ. Tại biên bản lấy
lời khai ông Trần Ngọc Thịnh, ngày 18/5/2017 (bút lút 46) thể hiện “…..Giữa ông
Long, ông Thịnh và ông Phạm Minh Sơn thỏa thuận thống nhất tiền công bắt điện là
5.000.000đ. Ngoài ra, tiền công bắt thêm phần điện trần trên la phông thạch cao là
1.500.000đ. Thỏa thuận ông Long có trách nhiệm trả tiền điện nhà cho ông Thịnh là
5.000.000đ….”. Do đó, việc ông Long cho rằng đã thỏa thuận với ông Thịnh tiền công
bắt điện là 4.000.000đ là không có căn cứ chấp nhận mà có căn cứ chấp nhận số tiền
công bắt điện âm tường (không tính tiền công bắt điện trần la phông thạch cao) là
5.000.000đ theo như thỏa thuận giữa ông Long và ông Thịnh là phù hợp.

Xét thấy: Do không có căn cứ chứng minh bà An đã giao cho ông Long số tiền
20.000.000đ vào thời điểm tháng 12/2016 (Al) và ông Long cũng không thừa nhận đã
nhận số tiền này. Cho nên, yêu cầu của ông Long buộc vợ chồng bà An, ông Sơn phải
thanh toán số tiền xây nhà còn thiếu là có căn để chấp nhận. Căn cứ vào kết quả thẩm
tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ xác định, ông Long đã nhận từ
bà An tổng số tiền là 80.000.000đ và chấp nhận những khoảng chi phí khấu trừ vào số
tiền thi công mà bà An đã chi trả bao gồm: Tiền công sơn nước: 12.000.000đ; tiền
công bắt điện: 5.000.000đ; tiền bắt ống nước: 750.000đ; khấu trừ tiền công phần la
phông tôn lạnh: 3.000.000đ. Tổng số tiền bà An đã chi trả cho ông Long là:
80.000.000đ + 12.000.000đ + 5.000.000đ + 750.000đ + 3.000.000đ = 100.750.000đ.
Do số tiền công xây dựng căn nhà các bên thỏa thuận là 600.000d0/1m2 x 200m2 =
120.000.000đ. Như vậy, số tiền bà An chưa thanh toán cho ông Long là: 120.000.000đ
- 100.750.000đ = 19.250.000đ. Do đó, cần buộc vợ chồng bà An, ông Sơn phải có
trách nhiệm thanh toán cho vợ chồng ông Long, bà Thuẩn số tiền xây dựng nhà còn
thiếu là 19.250.000đ là phù hợp với quy định tại Điều 547, khoản 3 Điều 549, khoản 3
Điều 552 BLDS năm 2005.

Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông Long được chấp nhận một phần do đó cần
xử buộc bà An, ông Sơn phải nộp án phí DS/ST theo quy định của pháp luật là phù
hợp với Điều 147 BLTTDS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 về
án phí, lệ phí Tòa án.

Ông Trần Đắc Long, bà Ngô Thị Thuẩn yêu cầu vợ chồng bà An, ông Sơn phải trả số
tiền công xây nhà còn thiếu là 20.250.000đ. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xem xét chấp
nhận yêu cầu buộc bà An, ông Sơn phải trả số tiền là 19.250.000đ. Do đó, ông Long,
bà Thuẩn phải có trách nhiệm nộp tiền án phí DS/ST đối với phần không được chấp
nhận là 1.000.000đ, sung công quỹ nhà nước là phù hợp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 3 Điều 26; khoản 1 điều 35, các điều 147, 273 của Bộ luật tố tụng
Dân sự.
- Các Điều 547, khoản 3 Điều 549; khoản 3 Điều 552 Bộ luật dân sự năm
2005; khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội khóa IV về án phí, lệ phí.
Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đắc Long
- Xử buộc ông Phạm Văn Sơn, bà Nguyễn Thị Thu An phải có trách nhiệm
liên đới trả cho ông Trần Đắc Long, bà Ngô Thị Thuẩn số tiền: 19.250.000đ (Mười chín
triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng).
Chia phần:

- Ông Phạm Văn Sơn phải có nghĩa vụ trả cho ông Trần Đắc Long, bà Ngô
Thị Thuẩn số tiền 9.625.000đ (Chín triệu sáu trăm hai mươi làm ngàn đồng).
- Bà Nguyễn Thị Thu An phải có nghĩa vụ trả cho ông Trần Đắc Long, bà
Ngô Thị Thuẩn số tiền 9.625.000đ (Chín triệu sáu trăm hai mươi lăm ngàn đồng).
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả số tiền nêu trên thì hàng
tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi như sau:
+ Trường hợp các bên có thỏa thuận thì mức lãi suất không được vượt quá
20%/năm.
+ Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì mức lãi suất là 10%/năm - Về án phí
DSST: Buộc bà An, ông Sơn phải liên đới nộp 962.500đ án phí DSST, sung công quỹ
Nhà nước.

Buộc ông Long, bà Thuẩn phải liên đới nộp số tiền 300.000đ án phí DSST, sung công
quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà anh Long đã nộp là
1.000.000đ theo biên lai số N. 0011829, ngày 27/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Tánh Linh.

Ông Trần Đắc Long được hoàn trả lại số tiền 700.000đ tạm ứng án phí đã nộp.

Án xử sơ thẩm công khai; nguyên đơn, bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án 27/7/2017 (đã giải thích).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án Dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
- Các đương sự……….; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKSND huyện;
- C.C thi hành án DS huyện;
- Lưu HS, VP.

Nguyễn Thị Yến


1. Dẫn nhập.
1.1 Thế nào là hợp đồng gia công ?

Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công
sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để
thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của
bên đặt gia công để hưởng thù lao.

Nếu trong dân sự, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
nhận gia công thực hiện công việc để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt
gia công, còn bên nhận sản phẩm và trả tiền công. Thì trong thương mại, hợp
đồng gia công là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia công sử dụng
một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện
một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất sản phẩm hàng hóa theo yêu
cầu của bên đặt gia công với mục đích là hưởng thù lao, còn bên đặt gia công
nhận sản phẩm và trả tiền thù lao.

1.2 Đặc điểm của hợp đồng gia công

Hợp đồng gia công trong thương mại cũng có những đặc điểm chung của hợp
đồng gia công trong dân sự như:

 Đây là hợp đồng song vụ: bên đặt gia công và bên nhận gia công đều có
quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng, theo đó thì quyền của bên này sẽ là
nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
 Hợp đồng gia công là hợp đồng ưng thuận: hợp đồng có hiệu lực ngay từ
thời điểm các bên thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản của hợp đồng.
Hợp đồng gia công không bao giờ có thể được thực hiện và chấm dứt
ngay tại thời điểm giao kết, mà luôn đòi hỏi một khoảng thời gian đủ để
bên nhận gia công có thể thực hiện được việc gia công của mình. Nếu các
bên không có thỏa thuận về thời hạn thì thời hạn được tính là khoảng thời
gian hợp lý để thực hiện công việc đó.
 Hợp đồng gia công là hợp đồng có đền bù: Bên đặt gia công có nghĩa vụ
thanh toán tiền cho bên nhận gia công theo thỏa thuận. Việc không có
thỏa thuận không được hiểu là không có đền bù.

Bên cạnh đó, hợp đồng gia công trong cũng có những đặc điểm riêng so với các
hợp đồng gia công trong dân sự như sau:
 Đối tượng của hợp đồng gia công: đối tượng của hợp đồng gia công trong
thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình
sản xuất ra sản phẩm mới. Sản phẩm mới được sản xuất ra theo hợp đồng
gia công trong thương mại được gọi là hàng hóa gia công. Tất cả các loại
hàng hóa đều có thể được gia công, trừ các loại hàng hóa thuộc diện cấm
kinh doanh. Hàng hóa có thể được gia công cho thương nhân nước ngoài,
trường hợp hàng hóa được gia công cho thương nhân nước ngoài để tiêu
thụ ở nước ngoài thì hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu,
cấm nhập khẩu, có thể được gia công nếu được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép.

Hình thức: hợp đồng gia công trong thương mại phải được lập thành văn bản
hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.

1.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng gia công.

Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng gia công được quy định tại
các điều 544,545,546,547 của bộ luật dân sự 2015.

2. Nhận xét bản án.


2.1 Hình thức:

- Các phần của bản án được phân định và sắp xếp hợp lý.
- Cách trình bày bản án khá cụ thể, rõ ràng, thuận lợi cho việc đọc.
- Văn phong, ngôn ngữ của bản án dễ hiểu
- Tuy nhiên mắc nhiều lỗi giãn cách giữa các chữ và còn dùng từ viết tắt (VD:
Al- âm lịch), không thống nhất trong cách gọi tên (VD: ông Long - anh
Long),từ ngữ khó hiểu như “bút lút”.
- Dấu câu dùng không hợp lí ở một vài chỗ ([2[ ; Vì các lẽt rên: -> Vì các lẽ
trên; ).
2.2 Nội dung:
- Bản án nêu rõ thông tin các bên, nội dung của sự việc (thời gian, địa
điểm,..v.v..)
- Quyết định của toà án sơ thẩm được thể hiện rõ ràng.
- Toà án sơ thẩm có nêu căn cứ pháp lý ở phần quyết định, tuy nhiên các căn cứ
pháp lý này không được trình bày dẫn dụng cụ thể trong lập luận và nhận định
của toà.
3. Tóm tắt bản án.
3.1 Dữ kiện xung quanh vấn đề.

- Nguyên đơn (ông Trần Đắc Long) khởi kiện bị đơn (ông Phạm Minh Sơn và
bà Nguyễn Thị Thu An) về việc yêu cầu bị đơn có trách nhiệm trả lại số tiền
còn lại chưa thanh toán là 20.250.000đ cho vợ chồng ông Long và bà Thuẩn.

- Vào khoảng tháng 9/2017 giữa ông Trần Đắc Long và ông Phạm Minh Sơn
thỏa thuận xây dựng một căn nhà cấp 4 có diện tích 200m2 với số tiền công là
600.000đ/m2 x 200m2 = 120.000.000đ.
+ 20/12/2016 (âm lịch) ông Long phải có trách nhiệm giao nhà cho gia đình ông
Sơn.
+ Ông Sơn có trách nhiệm thanh toán tiền công xây dựng nhà cho ông Long với
số tiền 120.000.000đ chia làm 3 lần: Lần thứ 1: Sau khi hoàn thành xong phần
móng nhà giao 40.000.000đ; lần thứ 2: Sau khi lợp tôn xong giao: 40.000.000đ;
lần thứ 3: Sau khi hoàn thành và giao nhận thanh toán 40.000.000đ.
+ Ông Long có trách nhiệm thi công căn nhà, trả tiền công sơn nước, tiền công
bắt điện nước. Các bên có viết và ký kết hợp đồng xây nhà với nhau.
+ Phía bên bị đơn có phát sinh một một số hạng mục khác ngoài hợp đồng
nhưng ông Long vẫn đồng ý xây dựng căn nhà này.
* Đại diện nguyên đơn trình bày:
- Ông Long xác định sau khi hoàn thành căn nhà giao cho vợ chồng bà An, ông
Sơn thì ông Long chỉ nhận được số tiền là 80.000.000đ cộng với các chi phí mà
bà An đã trả gồm tiền sơn nước: 12.000.000đ; tiền bắt điện: 4.000.000đ; tiền
công bắt ống nước: 750.000đ. Ông Long khấu trừ tiền công đóng la phông bằng
tôn lạnh cho bà An là 3.000.000đ.
- Như vậy, tổng số tiền bà An đã thanh toán cho ông Long liên quan đến tiền
công xây dựng nhà là 99.750.000đ. Còn lại 20.250.000đ bà An, ông Sơn chưa
trả nên ông Long đề nghị vợ chồng bà An, ông Sơn phải có trách nhiệm trả số
tiền 20.250.000đ cho vợ chồng ông Long, bà Thuẩn.
* Đại diện bị đơn trình bày :
- Bà An xác định đã thực hiện việc thanh toán tiền theo đúng thỏa thuận. Tổng
số tiền bà An đã giao cho ông Long là 100.000.000đ. Do bà An trực tiếp thanh
toán tiền công sơn nước 12.000.000đ; tiền công bắt điện 5.000.000đ; tiền bắt
ống nước: 750.000đ. Đồng thời trước kia ông Long và bà An, ông Sơn thỏa
thuận đóng la phông bằng tôn lạnh nhưng sau đó phía bà An thay đổi làm la
phông bằng thạch cao nên ông Long đồng ý khấu trừ cho bà An 3.000.000đ,
tiền công làm la phông.
-Như vậy, tổng số tiền bà An đã thanh toán là 120.750.000đ. Cho nên, bà An
không còn nợ ông Long tiền xây dựng nhà. Do đó, bà An không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông Long.
3.2 Quyết định của Tòa án
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đắc Long.
- Xử buộc ông Phạm Văn Sơn, bà Nguyễn Thị Thu An phải có trách nhiệm liên
đới trả cho ông Trần Đắc Long, bà Ngô Thị Thuẩn số tiền: 19.250.000đ.
Chia phần:
- Ông Phạm Văn Sơn phải có nghĩa vụ trả cho ông Trần Đắc Long, bà Ngô Thị
Thuẩn số tiền 9.625.000đ.
- Bà Nguyễn Thị Thu An phải có nghĩa vụ trả cho ông Trần Đắc Long, bà Ngô
Thị Thuẩn số tiền 9.625.000đ.
-Buộc ông Long, bà Thuẩn phải liên đới nộp số tiền 300.000đ án phí DSST,
sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà
anh Long đã nộp là 1.000.000đ.
- Ông Trần Đắc Long được hoàn trả lại số tiền 700.000đ tạm ứng án phí đã nộp.
4. Bình luận bản án.
Hợp đồng được kí kết giữa nguyên đơn và bị đơn vào khoảng tháng 8,9/2016
âm lịch và tranh chấp xảy ra vào tháng 12/2016 lúc ông Long bàn giao nhà cho
gia đình ông Sơn. Mọi việc đều diễn ra trước ngày 1/1/2017 vì vậy chúng ta sẽ
dùng BLDS 2005. Và nhóm mình hoàn toàn đồng ý với Tòa sơ thẩm.
4.1 Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng gia công
- Nghĩa vụ của ông Long như nhóm mình đã tóm tắt ở phần tóm tắt bản án thì
ông chưa hoàn thành được nghĩa vụ của mình vì trong hợp đồng có thỏa thuận
là ông Long có trách nhiệm phải trả các chi phí trả tiền công sơn nước, tiền
công bắt điện nước.Và trong lời khai được hai bên xác nhận thì số tiền này do
phía bị đơn là bà An đã trả. Trong bản án cũng không nêu lí do tại sao bà An lại
trực tiếp đứng ra trả những khoản tiền trên.
- Về phía nghĩa vụ của bị đơn là bà An bên đặt gia công đã thỏa thuận trả tiền
công xây dựng nhà là 120.000.000đ chia làm 3 lần : Lần thứ 1: Sau khi hoàn
thành xong phần móng nhà giao 40.000.000đ; lần thứ 2: Sau khi lợp tôn xong
giao: 40.000.000đ; lần thứ 3: Sau khi hoàn thành và giao nhận thanh toán
40.000.000đ. Sau khi hoàn thành và giao nhận thanh toán 40.000.000đ. Thì bên
phía đặt gia công cũng không hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Điều 549. Nghĩa vụ của bên đặt gia công
Bên đặt gia công có các nghĩa vụ sau đây:
1. Cung cấp nguyên vật liệu theo đúng số lượng, chất lượng, thời hạn và địa
điểm cho bên nhận gia công, trừ trường hợp có thoả thuận khác; cung cấp các
giấy tờ cần thiết liên quan đến việc gia công;
2. Chỉ dẫn cho bên nhận gia công thực hiện hợp đồng;
3. Trả tiền công theo đúng thoả thuận.
-Theo khoản 3 điều 549 BLDS 2005 mà Tòa án có nhắc đến thì bên đặt gia
công có nghĩa vụ phải trả công theo đúng thỏa thuận, nghĩa là phải trả công
đúng theo những gì có ghi trong hợp đồng gia công.
-Tiếp theo Tòa có nêu ra cơ sở pháp lý là khoản 3 điều 552 BLDS 2005
Điều 552. Quyền của bên nhận gia công
Bên nhận gia công có các quyền sau đây:
1. Yêu cầu bên đặt gia công giao nguyên vật liệu đúng chất lượng, số lượng,
thời hạn và địa điểm đã thoả thuận;
2. Từ chối sự chỉ dẫn không hợp lý của bên đặt gia công, nếu thấy chỉ dẫn đó có
thể làm giảm chất lượng sản phẩm, nhưng phải báo ngay cho bên đặt gia công;
3. Yêu cầu bên đặt gia công trả đủ tiền công theo đúng thời hạn và phương thức
đã thoả thuận.
- Theo khoản 3 điều 552 thì ông Long có quyền yêu cầu bên đặt gia công bà An
ông Sơn phải có trách nhiệm trả tiền theo đúng phương thước đã thỏa thuận là
chia làm 3 lần như hợp đồng. Nhưng trong đơn khởi kiện thì ông Long chỉ yêu
cầu bà An ông Sơn phải trả 20.250.000đ chứ không nói gì về phương thước
thanh toán tiền công đã thỏa thuận. Nhóm mình không đồng ý với việc đưa ra
cơ sở pháp lý này của Tòa mà không giải thích tại sao lại đưa ra như vậy.
4.2 Quan hệ pháp luật đang tranh chấp
- HĐXX Tòa sơ thẩm có xác định quan hệ pháp luật đang tranh chấp là tranh
chấp về hợp đồng gia công theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS; Điều
547 BLDS năm 2005. Thì nhóm mình không đồng ý với quyết định này.Vì:
- Về khái niệm hợp đồng gia công, các đặc điểm nhóm mình đã có nhắc đến ở
phần 1.
- Về bản chất, hợp đồng gia công luôn có đối tượng là công việc tạo ra sản
phẩm.
Giá trong hợp đồng gia công là sự phức hợp bởi hai yếu tố: (i) nguyên vật liệu;
(ii) công sức bỏ ra để gia tạo sản phẩm.
- Về hợp đồng thi công xây dựng, Hợp đồng xây dựng là một loại hợp đồng dân
sự giữa bên nhận thầu và bên giao thầu, trong đó xác lập sự thỏa thuận giữa hai
bên về quyền và nghĩa vụ khi tham gia hợp đồng. Bên nhận thầu có nghĩa vụ
phải thực hiện giám sát công trình hoặc một phần công trình và giao đúng thời
hạn mà bên giao thầu yêu cầu. Bên giao thầu thì có trách nhiệm đưa ra các yêu
cầu, số liệu, bản thiết kế, vật tư xây dựng,... số vốn đầu tư đúng tiến dộ công
trình, đồng thời nghiệm thu và thanh toán đầy đủ các khoản tiền khi công trình
đã hoàn thành. Hợp đồng xây dựng phải được soạn thảo và kí kết bằng văn bản.
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Luật Xây dựng năm 2014 thì: “Hợp đồng
xây dựng là hợp đồng dân sự được thoả thuận bằng văn bản giữa bên giao thầu
và bên nhận thầu để thực hiện một phần hay toàn bộ công việc trong hoạt động
đầu tư xây dựng.” Định nghĩa trên cũng được ghi nhận lại trong khoản 1 Điều 2
Nghị định số 37/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng.
- Trong lời khai của cả nguyên đơn và bị đơn đều có cho rằng “Vào khoảng
tháng 9/2017(âm lịch) giữa ông Trần Đắc Long và ông Phạm Minh Sơn thỏa
thuận xây dựng một căn nhà cấp 4 có diện tích 200m2 với số tiền công là
600.000đ/m2 x 200m2 = 120.000.000đ. Vậy theo nhóm mình thì quan hệ pháp
luật đang tranh chấp là tranh chấp về hợp đồng thi công xây dựng thì sẽ chính
xác hơn là tranh chấp hợp đồng gia công. Và nhóm mình nghĩ nếu Tòa xác định
đây là tranh chấp về hợp đồng gia công thì Tòa cần phải giải thích rõ hơn về vấn
đề này.
4.3 Về quyết định của Tòa về số tiền bị đơn có trách nhiệm phải trả
- Xử buộc ông Phạm Văn Sơn, bà Nguyễn Thị Thu An phải có trách nhiệm liên
đới trả cho ông Trần Đắc Long, bà Ngô Thị Thuẩn số tiền: 19.250.000đ (Mười
chín triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng).
Ông Phạm Văn Sơn phải có nghĩa vụ trả cho ông Trần Đắc Long, bà Ngô Thị
Thuẩn số tiền 9.625.000đ (Chín triệu sáu trăm hai mươi làm ngàn đồng). Bà
Nguyễn Thị Thu An phải có nghĩa vụ trả cho ông Trần Đắc Long, bà Ngô Thị
Thuẩn số tiền 9.625.000đ (Chín triệu sáu trăm hai mươi lăm ngàn đồng). Thì
nhóm mình hoàn toàn đồng ý với quyết định này, vì phía bị đơn không đưa ra
được bất cứ giấy tờ, bằng chứng chứng minh là đã thanh toán được số tiền
20.000.000 cho bên nguyên đơn. Trong khi các khoản tiền khác thì có bằng
chứng và được sự xác nhận của nguyên đơn.

Вам также может понравиться