Вы находитесь на странице: 1из 8

Cơ chế độc lực của vi khuẩn

Cơ chế độc lực của vi khuẩn


Bởi:
Wiki Pedia

Tìm hiểu các cơ chế mà vi khuẩn sử dụng để xâm nhập và gây bệnh có ý nghĩa quan
trọng trong cuộc chiến chống lại các tác nhân bé nhỏ này. Vậy các tác nhân gây bệnh tí
hon này đã, đang và sẽ sử dụng những loại vũ khí nào để để tạo nên độc lực của chúng?
Sau đây là những bàn luận về các chiến lược gây bệnh chung của các vi khuẩn mà y học
đã hiểu phần nào.

Các yếu tố bám dính

Bước quan trọng đầu tiên trong quá trình tương tác giữa tác nhân gây bệnh và vật chủ
là sự bám dính (adherence) của chúng vào các bề mặt của vật chủ. Các bề mặt này bao
gồm da, niêm mạc (khoang miệng, mũi hầu, đường tiết niệu) và các tổ chức sâu hơn
(tổ chức lympho, biểu mô dạ dày ruột, bề mặt phế nang, tổ chức nội mô). Cơ thể tạo ra
nhiều lực cơ học khác nhau nhằm loại bỏ các vi sinh vật khỏi các bề mặt này như bài tiết
nước bọt, ho, hắt hơi, dịch tiết niêm mạc, nước tiểu, nhu động ruột và dòng máu chảy….
Một đặc điểm chung của các tác nhân gây bệnh là khả năng biểu hiện các yếu tố giúp
chúng bám vào các phân tử trên nhiều loại tế bào khác nhau của vật chủ và giúp chúng
chống chịu được các lực cơ học này. Một khi đã bám dính vào bề mặt tế bào vật chủ,
tác nhân gây bệnh có khả năng khởi động các quá trình hóa sinh đặc hiệu gây bệnh như
tăng sinh, bài tiết độc tố, xâm nhập và hoạt hóa các chuỗi tín hiệu của tế bào vật chủ.

Các yếu tố bám dính của vi sinh vật được gọi là các adhesin. Chúng có thể có bản chất
polypeptide hoặc polysaccharide.

Các adhesin có bản chất polypeptide được chia thành hai nhóm: nhóm có fimbriae và
nhóm không có fimbriae. Các fimbriae, hay còn gọi là các pili, là những cấu trúc phụ
của vi sinh vật có dạng như sợi lông trên bề mặt vi khuẩn. Các fimbriae được cấu tạo
bởi nhiều protein xếp chặt với nhau tạo nên hình dạng giống như trụ xoắn ốc. Thường
thì chỉ có một loại protein là cấu trúc chính của một phân nhóm fimbriae tuy nhiên các
protein phụ trợ khác cũng có thể tham gia vào cấu trúc của đỉnh hoặc gốc fimbriae. Đỉnh
của các fimbriae có chức năng gắn với tế bào vật chủ. Các vi khuẩn Gram âm thường
bám dính nhờ các fimbriae này như E coli (gây viêm dạ dày ruột và nhiễm khuẩn tiết
niệu), V cholera, P aeruginosa và các loại Neisseria.

1/8
Cơ chế độc lực của vi khuẩn

Thuật ngữ yếu tố bám dính không phải fimbriae (afimbrial adherin) dùng để chỉ các
protein có chức năng bám dính nhưng không tạo thành cấu trúc dài, đa phân như
fimbriae. Các yếu tố bám dính không phải fimbriae thường điều khiển quá trình tiếp
xúc mật thiết với tế bào vật chủ tuy nhiên quá trình này chỉ xảy ra ở một nhóm nhỏ các
loại tế bào nhất định nếu so với khả năng gắn được với rất nhiều loại tế bào khác nhau
của fimbriae. Các vi khuẩn Gram âm (Yersinia pseudotuberculosis, E coli gây bệnh lý
ruột, các Neisseria), các vi khuẩn Gram dương (Staphylococcus, Streptococcus) và các
Mycobacteria là những tác nhân gây bệnh có yếu tố bám dính không phải fimbriae.

Các yếu tố bám dính bản chất polysaccharide thường là thành phần cấu tạo của màng tế
bào, vách tế bào và vỏ vi khuẩn. Teichoic acid trong vách của vi khuẩn có tác dụng như
là các yếu tố bám dính của Staphylococcus và của Streptococcus. Các polysaccharide
(glucan và mannan) trong lớp vỏ của Mycobacteria cũng được các thụ thể của vật chủ
nhận diện (receptor bổ thể 3 và mannose receptor) nhờ đó làm tăng tính bám dính
của các tác nhân này. Mặc dù các tương tác receptor-ligand nhằm tăng cường khả
năng bám dính có thể chia thành hai nhóm chính: tương tác protein-protein và protein-
carbonhydrate, một điều quan trọng cần nhớ là các vi sinh vật thường sử dụng rất nhiều
thụ thể khác nhau của tế bào vật chủ.

E coli gây bệnh lý ruột (Entero-pathogenic E coli: EPEC) bơm trực tiếp protein có chức
năng thụ thể của chính nó vào trong tế bào vật chủ. Một khi đã ở trong màng tế bào vật
chủ, các thụ thể này sẽ gắn với các yếu tố bám dính không phải fimbriae trên bề mặt tế
bào vi khuẩn tạo thuận lợi cho quá trình bám dính.

Một điều quan trọng cần nhớ là một tác nhân gây bệnh thường biểu hiện nhiều yếu tố
bám dính khác nhau. Chiến lược này được hầu hết các loại vi khuẩn (Gram âm, Gram
dương và mycobacteria) sử dụng. Một hướng tập trung nghiên cứu điều trị hiện tại là
phát triển các vaccine hoặc thuốc phong bế khả năng bám dính.

Khả năng xâm nhập

Một khi đã gắn vào bề mặt tế bào vi khuẩn, một số tác nhân gây bệnh tiếp tục tiến sâu
vào hơn nữa trong cơ thể vật chủ để tiếp tục chu trình nhiễm trùng. Quá trình này gọi là
sự xâm nhập (invasion). Có thể chia quá trình xâm nhập thành hai loại: nội bào và ngoại
bào.

Xâm nhập ngoại bào xảy ra khi tác nhân gây bệnh phá vỡ các rào cản của tổ chức để
phát tán đến các vị trí khác trong cơ thể nhưng bản thân chúng vẫn tồn tại bên ngoài
tế bào vật chủ. Phương thức xâm nhập ngoại bào được sử dụng bởi liên cầu khuẩn tan
máu β nhóm A (Group A β-haemolytic streptococcus) và tụ cầu vàng (Staphylococcus
aureus). Các chủng vi khuẩn này tiết một số enzyme phá hủy các phân tử của tế bào vật
chủ:

2/8
Cơ chế độc lực của vi khuẩn

• Hyaluronidase: cắt đứt các proteoglycan ở tổ chức liên kết.


• Streptokinase và staphylokinase: phá hủy các cục fibrin.
• Lipase: giáng hóa các loại mỡ của vật chủ được tích tụ lại
• Nuclease: tiêu hủy các ARN và ADN được giải phóng ra.
• Các haemolysin tạo các lỗ thủng trên màng tế bào có khả năng ly giải không
chỉ các hồng cầu mà cả các loại tế bào khác nữa. Haemolysin cũng tham gia
vào sự phát tán vi khuẩn rộng hơn trong tổ chức vật chủ.
• Elastase của trực khuẩn mủ xanh có khả năng giáng hóa các phân tử ngoại bào
và giúp vi khuẩn xâm nhập tổ chức với các biểu hiện lâm sàng như viêm màng
keratin, hoại tử tổ chức trong bỏng và tạo các xơ nang.

Khả năng xâm nhập ngoại bào cho phép các tác nhân gây bệnh này tạo ra các chỗ ẩn
nấp trong tổ chức và tại đó chúng có thể tăng sinh rồi phát tán vào các vị trí khác của cơ
thể cũng như sản xuất các độc tố và khởi động các đáp ứng viêm. Các tác nhân gây bệnh
xâm nhập ngoại bào cũng có thể đi vào bên trong tế bào và sử dụng cả hai con đường
xâm nhập nội bào và ngoại bào.

Xâm nhập nội bào xảy ra khi các vi sinh vật thực sự đi vào bên trong tế bào của vật chủ
và sống trong môi trường nội bào này. Một số các tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Gram
âm, vi khuẩn Gram dương và các Mycobacteria có khả năng sống bên trong tế bào. Các
tế bào thực bào lẫn tế bào không có chức năng thực bào đều là đích tấn công của các
tác nhân này. Một số tác nhân gây bệnh có đời sống ký sinh nội bào bắt buộc nghĩa là
chúng buộc phải sống bên trong tế bào các động vật có vú mới có thể phát triển được.
Các tác nhân này bao gồm Chlamydia, Rickettsia và Mycobacterium leprae. Các chủng
vi khuẩn khác thuộc loại ký sinh nội bào không bắt buộc chỉ sử dụng khả năng xâm nhập
nội bào như là phương tiện để tăng sinh và phát tán đến các tổ chức khác.

Vỏ vi khuẩn

Một số vi khuẩn sản xuất một lượng lớn các phân tử polysaccharide trọng lượng phân tử
cao, còn được gọi là exopolysaccharide. Lớp áo ngoại bào này được gọi là vỏ vi khuẩn
(capsule). Khả năng sản xuất vỏ là một trong những yếu tố độc lực quan trọng nhất của
vi khuẩn về phương diện xâm nhập tại vị trí viêm. Một cách cụ thể hơn, vỏ vi khuẩn
giúp chúng chống lại cơ chế phòng vệ của cơ thể cũng như đề kháng kháng sinh. Vỏ
một số vi khuẩn cũng có khả năng điều hòa miễn dịch. Vỏ này bảo vệ vi khuẩn chống
lại sự thực bào bằng cách không cho các kháng thể tạo hiện tượng opsonin hóa trên
vách vi khuẩn. Do không có hiện tượng opsonin hóa nên các đại thực bào và bạch cầu
trung tính tiếp cận kém hoặc không thể tiếp cận được vi khuẩn. Hiện tượng "thực bào
bất lực" này càng làm cho phản ứng viêm thêm mạnh mẽ bởi các tế bào thực bào không
thể tiêu diệt được vi khuẩn càng cố gắng tiết nhiều cytokine hơn nữa trong nỗ lực làm
sạch vi khuẩn nơi đây. Phản ứng này lại thu hút thêm nhiều các bạch cầu đa nhân và
đại thực bào khác nữa đến ổ viêm. Các loại vi khuẩn nguy hiểm có khả năng tạo vỏ là

3/8
Cơ chế độc lực của vi khuẩn

Streptococcus pneumoniae (phế cầu khuẩn), Neisseria meningitidis (não mô cầu khuẩn)
và Pseudomonas aeruginosa (trực khuẩn mủ xanh).

Vách tế bào vi khuẩn

Vi khuẩn được chia thành hai nhóm chính dựa trên sự khác biệt cấu trúc vách tế bào
(cell wall): vi khuẩn Gram dương và vi khuẩn Gram âm. Vách tế bào của cả hai nhóm
đều chứa các thầnh phần gây độc được xem là những yếu tố độc lực mạnh đóng vai trò
trung tâm trong quá trình bệnh sinh của của sốc nhiễm trùng huyết.

Các thành phần độc tố của vách tế bào không nhân là những thành phần cấu trúc cơ bản
rất ít giải phóng vào môi trường xung quanh nếu tế bào không bị chết và bị ly giải. Một
điều trái khoáy là các kháng sinh sử dụng trong lâm sàng lại làm gải phóng một lượng
lớn các thành phần gây độc này. Do đó lại làm xấu hơn tình trạng bệnh sẵn có cũng như
tiên lượng của bệnh nhân. Nhiều bằng chứng khoa học cho thấy rằng vi khuẩn Gr (-) và
vi khuẩn Gr (+) cùng dùng chung một chiến lược để gây nhiễm khuẩn huyết.

Nhiễm trùng huyết là hậu quả từ các tác động liên hợp của cytokine, các thành phần
bổ thể và các thành phần của con đường đông máu. Các thành phần của vách vi khuẩn
có thể gây nên sự sản xuất hoặc hoạt hóa các chất trung gian điều hòa này. Thật vậy,
các biến cố trực tiếp gây nên nhiễm trùng huyết là quá trình giải phóng các nội độc tố
(endotoxin hay lipopolysaccharide) hoặc giải phóng các thành phần gây độc khác của
vách vi khuẩn vào trong hệ tuần hoàn.

Lipopolysaccharide (LPS) vi khuẩn là một phân tử lưỡng tính nằm trong lớp màng ngoài
của vách vi khuẩn Gram âm thường được xem là yếu tố chính chịu trách nhiệm trong
quá trình gây nên sốc nhiễm trùng huyết. Thụ thể chính của LPS là CD14, một marker
bề mặt của đại thực bào. Lipid A, thành phần gây độc của phân tử LPS, gây nên sự
giải phóng hàng loạt các cytokine gây viêm và hoạt hóa hệ thống bổ thể và con đường
đông máu. Các nghiên cứu gần đây cho thấy các thụ thể giống Toll (Toll-like receptor),
cytokine viêm, eicosanoid, gốc tự do ôxy hóa, yếu tố ức chế di chuyển đại thực bào, các
protein kinase truyền tín hiệu và các yếu tố sao mã đều đóng vai trò quan trọng trong
sinh bệnh học của sốc nhiễm trùng huyết do vi khuẩn Gram âm.

Các mảnh Peptidoglycan và teichoic acid trong vách tế bào vi khuẩn Gram dương có
khả năng tạo nên nhiều hiệu ứng sinh lý bệnh giống như LPS. Peptidoglycan và teichoic
acid của vi khuẩn Gram dương là thành phần khởi động chính của nhiễm trùng huyết do
nhóm vi khuẩn này.

Các thành phần của vách tế bào ở cả vi khuẩn Gram âm và vi khuẩn Gram dương đều
tác động chủ yếu thông qua khởi động đáp ứng viêm bằng cách hoạt hóa các monocyte,
đại thực bào. Các tế bào này khi được hoạt hóa sẽ giải phóng một loạt các cytokine, đặc
biệt là TNF α và interleukin-1. Mặc khác, cả nội độc tố lẫn peptodoglycan đều có thể

4/8
Cơ chế độc lực của vi khuẩn

hoạt hóa hệ thống bổ thể. Sự hoạt hóa này lại làm giải phóng TNF α từ các monocyte và
gây nên tập trung các bạch cầu trung tính và làm co mạch phổi. Như vậy, bất kể nhiễm
trùng huyết gây nên do vi khuẩn Gram dương hay vi khuẩn Gram âm, dấu hiệu và triệu
chứng nhiễm trùng đều khá tương tự nhau.

Các độc tố

Độc tố (toxin) là các vũ khí sinh học có bản chất protein hoặc không phải protein được
sản xuất bởi vi khuẩn nhằm tiêu diệt các tế bào vật chủ. Các ví dụ về độc tố không phải
protein là nội độc tố (LPS) của các vi khuẩn Gram âm và teichoic acid của các vi khuẩn
Gram dương. Các độc tố bản chất protein (ngoại độc tố) thường là các enzyme đi vào
tế bào có nhân bằng hai phương thức: (1) tiết vào môi trường lân cận hoặc (2) trực tiếp
bơm vào bào tương của tế bào vật chủ thông qua hệ thống tiết loại III (type III secretion
system) hoặc một số cơ chế khác. Các ngoại độc tố vi khuẩn có thể tạm chia thành 4 loại
chính dựa trên thành phần cấu trúc amino acid cũng như chức năng của chúng:

• Độc tố A-B,
• Độc tố tiêu protein,
• Độc tố hình thành lỗ thủng, và
• Các độc tố khác.

Một số chủng vi khuẩn có độc tố A-B là P. aeruginosa, E. coli, Vibrio cholerae,


Corynebacterium diphtheria và Bordetella pertussis. Các độc tố A-B có hai phần: tiểu
đơn vị A có hoạt tính enzyme và tiểu đơn vị B chịu trách nhiệm gắn và đưa độc tố vào
tế bào vật chủ. Hoạt tính enzyme của tiểu đơn vị A có thể có hoạt tính tiêu protein ví dụ
như độc tố tetanus và botulinum hoặc có hoạt tính ADP ribosyl hóa (ADP ribosylating
activity) như độc tố của vi khuẩn tả, ho gà, bạch hầu và độc tố A của trực khuẩn mủ
xanh.

Các độc tố tiêu protein phá hủy các protein vật chủ đặc hiệu gây nên những đặc tính lâm
sàng riêng của bệnh. Ví dụ độc tố botulinum của Clostridium botulinum, độc tố tetanus
của Clostridium tetani, elastase và protease IV của P. aeruginosa. Độc tố botulinum
được đưa vào bằng đường tiêu hóa và gây nên liệt mềm (flaccid paralysis) các dây thần
kinh ngoại biên trong khi độc tố tetanus hình thành ở các vết thương sâu và gây nên liệt
cứng (spastic paralysis) do ảnh hưởng đến thần kinh trung ương. Elastase và protease IV
của trực khuẩn mủ xanh phả hủy các chất cơ bản của tế bào, cho phép nhiễm trùng lan
tỏa đến các khu vực rộng hơn.

Các độc tố phá vỡ màng tế bào hiện diện ở một số vi khuẩn. Độc tố này có khả năng tạo
lỗ thủng trên màng tế bào vật chủ gây ly giải tế bào. Càng ngày càng có nhiều độc tố
tạo lỗ thủng màng tế bào được phát hiện ở các vi khuẩn Gram âm như họ RTX (Repeat
arginine Threonine X motif). Mặc dù cơ chế tạo lỗ thủng giống nhau ở các thành viên
của họ này, các tế bào đích lại khác nhau.

5/8
Cơ chế độc lực của vi khuẩn

Các độc tố khác bao gồm: các protein dạng enzyme thủy phân globulin miễn dịch A
(immunoglobulin A protease-type protein), các độc tố bền với nhiệt hoạt hóa Guanylate
cyclase và các độc tố làm thay đổi khung nâng đỡ (cytoskeleton) của tế bào vật chủ.

Như vậy, vi khuẩn có khả năng sử dụng nhiều phương thức khác nhau nhằm phá hủy
các con đường truyền tin cũng như tính toàn vẹn cấu trúc của tế bào để thiết lập và duy
trì nhiễm trùng. Hiện nay y học đã bắt đầu hiểu được cơ chế phân tử của các tác động do
độc tố. Điều đáng mừng là một số các độc tố quan trọng trên đây có chung những motif
cấu trúc và sinh hóa. Chúng ta có thể lợi dụng đặc điểm này để phát triển các phương
pháp trị liệu trong tương lai và các phương pháp này có thể hiệu quả chống lại nhiều vi
khuẩn khác nhau.

Khả năng ký sinh nội bào

Vi khuẩn gây bệnh đã tiến hóa và phát triển nhưng cơ chế để sống sót và nhân lên bên
trong tế bào vật chủ sau khi xâm nhập. Các tế bào vật chủ có thể chứa đựng vi khuẩn
nội bào gồm các tế bào không có chức năng thực bào (như các tế bào biểu mô và tế bào
nội mô) và cả thực bào chuyên nghiệp như đại thực bào và bạch cầu trung tính. Khả
năng sống sót và nhân lên được bên trong các thực bào chuyên nghiệp là điều đáng ngạc
nhiên bởi các tế bào được trang bị các vũ khí có sức công phá mạnh mẽ để tiêu diệt vi
khuẩn bị nuốt vào. Các cơ chế tiêu diệt mầm bệnh này bao gồm sự sản xuất các chất
trung gian có khả năng ôxy hóa, độ pH thấp bên trong các không bào chứa vi khuẩn và
sự hoạt hóa các enzyme tiêu hủy protein.

Thường có ba nơi đồn trú mà vi khuẩn sử dụng để ẩn nấp bên trong tế bào. Các vị trí
này bao gồm:

• Bên trong các không bào tiêu thể-thực bào thể (lysophagosome) có khả năng
thủy phân và có tính acid,
• Bên trong các không bào chưa hòa màng với tiêu thể, và
• Bên trong dịch bào tương.

Coxiella burnetti là một ví dụ về khả năng vi khuẩn sống bên trong các môi trường độc
của không bào tiêu thể-thực bào thể. Chính độ pH thấp là điều kiện cần thiết để tác
nhân này tăng sinh. Các chủng Mycobacterium, Salmonella, Legionella pneumophila
và Chlamydia trachomatis thuộc nhóm cư trú bên trong các không bào chưa hòa màng
với tiêu thể. Các không bào bị các vi khuẩn này chiếm cứ được xem là được "đặc
biệt hóa" hoặc được "tái cấu trúc" vì về mặt hình thể chúng thường khác biệt với các
không bào khác trong tế bào và chứa các marker bề mặt đặc trưng. Shigella flexneri, L
monocytogenes và Rickettsia rickettsii là những tác nhân gây bệnh sống trong dịch bào
tương. Các vi khuẩn này có cùng chung một chiến lược dùng enzyme phá hủy các không
bào lân cận và phát tán nội bào thông qua sử dụng các khung nâng đỡ của tế bào.

6/8
Cơ chế độc lực của vi khuẩn

Các vi khuẩn ký sinh nội bào có thể nhân lên và lan tràn đến các tế bào khác trong vùng
nhiễm trùng hoặc có thể đi xa hơn. Chlamydia và Rickettsia ly giải màng tế bào vật chủ,
phóng thích các tế vi khuẩn gây nhiễm trùng, các vi khuẩn này sẽ bám và xâm nhập các
tế bào lân cận. Ngoài tác động làm ly giải tế bào vật chủ, Shigella và Listeria còn sử
dụng một con đường lan truyền từ tế bào đến tế bào thông qua việc truyền trực tiếp một
phần cấu trúc tế bào nhiễm bệnh cho tế bào lành lân cận. Các tế bào nhiễm vi khuẩn này
tạo ra các phần lồi vào tế bào lành, sau đó phần lồi này sẽ hòa màng với tế bào lành và
tạo nên các không bào chứa vi khuẩn bên trong tế bào lành. Các vi khuẩn ký sinh trong
đại thực bào và bạch cầu trung tính cũng có khả năng sử dụng các thực bào này như là
các phương tiện chuyên chở để gây nhiễm trùng toàn thân thông qua hệ thống máu và
bạch huyết. Salmonella typhi, các chủng Yersinia và Brucella được xem là có khả năng
di chuyển giữa các tổ chức theo phương thức này.

Các vi khuẩn nội bào gây nên những vấn đề nghiêm trọng trong một số bệnh lý nhiễm
trùng. Một số tác nhân nhiễm trùng nội bào có thể tồn tại hàng năm trời và cần phải
sử dụng một liệu pháp kháng sinh rất mạnh mẽ. Nhiễm trực khuẩn lao Mycobacterium
tuberculosis là ví dụ điển hình nhất.

Trọng tâm của các nghiên cứu hiện tại là nhận diện và xác định đặc trưng của các yếu tố
độc lực mà vi khuẩn ký sinh nội bào sử dụng để chiếm lĩnh nơi ẩn nấu khó tiếp cận này.

Đề kháng kháng sinh

Việc phát minh ra kháng sinh đã làm thay đổi mang tính cách mạng trong điều trị các
bệnh lý nhiễm trùng. Tuy nhiên việc sử dụng kháng sinh tràn lan trong những thập kỷ
vừa qua đã dẫn đến sự xuất hiện rất nhiều chủng vi khuẩn đề kháng kháng sinh và tạo
nên một mối nguy cơ toàn cầu trầm trọng đe dọa nền y học hiện đại. Cả vi khuẩn Gram
dương và Gram âm đều có khả năng đề kháng lại các thuốc điều trị vi sinh vật. Các
chủng vi khuẩn đề kháng kháng sinh (một số lớn trong đó có khả năng đa đề kháng) xuất
hiện gầy đây và là nguyên nhân của những mối lo ngại gồm: các tác nhân gây bệnh tiêu
chảy như Shigella, Salmonella, E coli và Enterococcus faecium; các tác nhân gây bệnh
đường hô hấp như Klebsiella pneumoniae và P aeruginosa; gây bệnh đường tiết niệu
như E coli, M tuberculosis. Các tác nhân gây bệnh này vẫn là nguyên nhân gây tử vong
do nhiễm trùng hàng đầu trên thế giới. Hơn nữa, Staph aureus đề kháng với methicillin,
một trong những nguyên nhân gây nhiễm trùng bệnh viện thường gặp nhất, và các vi
khuẩn Gram âm đề kháng vancomycin như Enterococcus (và cả Staph aureus) là những
thách thức thực sự đối với các bác sĩ lâm sàng.

Có ba cơ chế thường gặp của hiện tượng đề kháng kháng sinh ở vi khuẩn:

• Thay đổi vị trí đích tác động,


• Thay đổi sự thu nhận kháng sinh, và
• Bất hoạt kháng sinh.

7/8
Cơ chế độc lực của vi khuẩn

Sự phát triển khả năng đề kháng được thực hiện thông qua hai quá trình di truyền: do
đột biến tự phát và chủ yếu là do thu nhận các gene từ nguồn gốc bên ngoài thông qua
hiện tượng chuyển gene theo chiều ngang. Hiện tượng chuyển gene theo chiều ngang
xuất hiện khi các yếu tố di truyền được chuyển từ một cá thể này đến cá thể khác cùng
loài hoặc khác loài.

Ngoài ra, thay đổi vật chất di truyền đưa đến hiện tượng đề kháng cũng được gây nên bởi
đột biến tự phát. Ví dụ một đột biến làm thay đổi vị trí gắn kháng sinh có thể làm giảm
độ nhạy cảm kháng sinh đó và làm gia tăng đề kháng thuốc. Đặc biệt, M tuberculosis,
tác nhân gây bệnh lao, vẫn là mối đe dọa cho sức khỏe loài người vì vi khuẩn này có
khả năng đa đề kháng, bao gồm đề kháng với isoniazid và streptomycin. Đề kháng với
streptomycin là do vi khuẩn có các đột biến làm thay đổi các đích của kháng sinh này.

Khả năng lan tràn của các vi khuẩn đề kháng kháng sinh là mối đe dọa thực sự đối với
sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới. Quá trình này có thể thuận lợi nhờ khả năng tạo
các biofilm. Các biofilm này là các tập hợp vi sinh vật có tổ chức nhờ đó chúng có thể
chia sẻ khả năng sống sót và tăng cường đề kháng đối với các kích tác của môi trường.
Sự lây lan này có thể xảy ra giữa động vật với động vật do thức ăn bị nhiễm chất thải
hoặc từ động vật lây cho người do ăn phải các thức ăn nhiễm bẩn, do xuất nhập khẩu
động vật sống hoặc các sản phẩm của chúng và lây từ người sang người, đặc biệt là
trong các cơ sở chăm sóc y tế.

Nguy cơ tạo thành dịch (epidemic) hoặc đại dịch (pandemic) là nguy cơ có thật và nó
đặt ra một thách thức lớn cho việc điều trị các bệnh nhiễm trùng trên bình diện toàn cầu.
Do vậy cần phải có các nghiên cứu phát triển các thuốc mới hiệu quả trong việc kiểm
soát và ngừa sự lan tràn này.

Triển vọng nghiên cứu và điều trị

Đối mặt với những cơ chế mà vi khuẩn sử dụng để gây bệnh, các nghiên cứu trong tương
lai sẽ tập trung vào những hướng nào? Những tiến bộ gần đây trong kỹ thuật khuyếch
đại chuỗi ADN (polymerase chain reaction: PCR) và các kỹ thuật ADN khác cho phép
các nhà khoa học xác định nhanh chóng bộ gene hoàn chỉnh của cả các vi sinh vật gây
bệnh và tế bào của vật chủ có nhân cũng như lượng giá được mức độ biểu hiện gene và
mô tả được các quá trình phân tử xảy ra trong nhiễm trùng. Áp dụng các phương pháp
này trong việc nghiên cứu bộ gene của vi sinh vật và tế bào vật chủ, kết hợp với các
công cụ phân tích hiệu quả và thang đánh giá mức độ biểu hiện gene đã và đang tạo ra
một cuộc cách mạng trong việc phát triển các kỹ thuật mới trong chẩn đoán, tiên lượng
và xử trí lâm sàng các bệnh nhiễm trùng.

8/8

Вам также может понравиться