Академический Документы
Профессиональный Документы
Культура Документы
+Thứ hai: Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của chi bộ tháng trước (nêu rõ những
việc làm được, chưa làm được, nguyên nhân); tình hình đảng viên thực hiện chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên và nhiệm vụ
được chi bộ phân công.
+Thứ ba: Đánh giá công việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách HCM của đảng viên, quần chúng thuộc phạm vi lãnh đạo của chi bộ; biểu dương những
đảng viên tiên phong gương mẫu, có việc làm cụ thể, thiết thực về học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách HCM; đồng thời giáo dục, giúp đỡ những đảng viên có sai lầm (nếu
có).
+ Thứ tư: Thông báo ý kiến của đảng viên, quần chúng về sự lãnh đạo của chi bộ và vai
trò tiên phong gương mẫu của đảng viên (Nếu có) để chi bộ có biện pháp phát huy ưu điểm,
khắc khục khuyết điểm, kịp thời ngăn chặn, đấu tranh những biểu hiện quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực.
+Thứ năm: Đề ra một số nhiệm vụ cụ thể, thiết thực, bức xúc trươc mắt để thực hiện
trong tháng tới theo chức năng, nhiệm vụ của chi bộ và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên; đồng
thời phân công nhiệm vụ cụ thể cho đảng viên thực hiện.
+Thứ sáu: Chi bộ thảo luận, tham gia đóng góp ý kiến về các nội dung trên. Trong quá
trình thảo luận đồng chí chủ trì phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến của đảng viên và gợi ý nội
dung quan trọng để đảng viên tham gia thảo luận, thể hiện chính kiến của mình. Khi có những
vấn đề cần biểu quyết mà đang có ý kiến khác nhau, chi bộ cần trao đổi kỹ trước khi biểu quyết.
Ngoài các buổi sinh hoạt với nội dung nêu trên, ít nhất mỗi quý lần, chi bộ thực hiện sinh
hoạt chuyên đề với các nội dung như : Các chuyên đề về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách HCM theo hướng dẫn của TW và cấp ủy cấp trên; giải pháp xây dựng đảng bộ, chi
bộ trong sạch, vững mạnh hoặc củng cố, khắc phục cơ sở yếu kém; các giải pháp xây dựng
nông thôn mới; việc xây dựng thôn, (ấp, bản, làng…), khu phố (dân cư…)văn hóa; biện pháp
giúp đỡ đảng viên nghèo, có hoàn cảnh khó khăn; việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực và các tệ nạn xã hội ở địa phương, cơ quan, đơn vị; công tác đào tạo bồi
dưỡng cán bộ và tạo nguồn phát triển đảng viên; công tác quản lý và phân công công tác cho
đảng viên; biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu, tham mưu và quy trình xây dựng một đề
án, đề tài có chất lượng; phương pháp nghiên cứu, học tập để không ngừng nâng cao trình độ,
kiến thức cho cán bộ, đảng viên…
Các chuyên đề được lựa chọn làm nội dung sinh hoạt chuyên đề phải là những nội dung sát với
thực tế, gắn với chính cơ sở, tổ chức đảng ở đó đang có những thuận lợi, phát triển được nhân
rộng và cả những vướng mắc, khó khăn đòi hỏi phải được tháo gỡ…
* Đánh giá được thực trạng vấn đề sinh hoạt chi bộ tại địa phương, đơn vị.
+ Ưu điểm:
Công tác sinh hoạt Đảng ở chi bộ đã có tiến bộ, nề nếp sinh được giữ vững, ý thức trách nhiệm
của đảng viên, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao;
phương thức lãnh đạo của Đảng ở cơ sở từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng
được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố. Đa số cán bộ, đảng viên có ý
thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân,
được nhân dân tin tưởng.
+ Tồn tại, hạn chế:
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý
đảng viên chưa chặt chẽ… Đặc biệt, sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ chưa đi vào nề nếp, chất
lượng sinh hoạt còn rất hạn chế, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu…
số lượng đảng viên tham gia cũng không đầy đủ (với nhiều lý do: vì đang đi công tác xa hoặc đi
họp do yêu cầu của công việc…). Thời gian sinh hoạt không bảo đảm, thường là kết hợp sau
cuộc họp của chuyên môn rồi tranh thủ họp chi bộ, thậm chí có trường hợp lấy sinh hoạt chuyên
môn thay cho sinh hoạt chi bộ...
Nội dung sinh hoạt còn nghèo nàn, ít thiết thực, hình thức sinh hoạt chi bộ còn đơn điệu.
Nhiều buổi sinh hoạt vẫn còn nặng về phổ biến, liệt kê những công việc đã làm trong tháng
trước hoặc chỉ bàn về nhiệm vụ chuyên môn, chưa chú ý đi sâu kiểm điểm vai trò lãnh đạo của
chi bộ, chi ủy cũng như tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong thực hiện
nhiệm vụ. Việc tổ chức sinh hoạt theo chuyên đề chưa nhiều, công tác tư tưởng thiếu nhạy bén,
không nắm bắt kịp thời diễn biến tư tưởng của đảng viên. Công tác xây dựng chi bộ và lãnh đạo
tổ chức hoạt động của các đoàn thể còn chung chung, ở những nơi đó, sinh hoạt chi bộ chưa
thực sự phát huy dân chủ nên chưa huy động được trí tuệ của từng đảng viên cũng như của tập
thể để tìm ra những chủ trương, giải pháp thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết những vấn
đề bức thiết nảy sinh tại cơ quan, đơn vị. Việc thực hiện tự phê bình và phê bình rất yếu, không
được tiến hành thường xuyên, tình trạng nể nang, dĩ hòa vi quý khá phổ biến.
Dân chủ trong sinh hoạt Đảng chưa thực sự được phát huy, trong thực tế, vẫn còn tình
trạng ở một số cuộc họp chỉ có ý kiến tham gia của các đồng chí đảng viên là lãnh đạo cơ quan
và chi bộ, còn các đảng viên không giữ chức vụ thì thường lắng nghe, sau đó nhất trí theo ý kiến
của người chủ trì. Các tính chất sinh hoạt của chi bộ như tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính
chiến đấu chưa được thực hiện đầy đủ. Đặc biệt, việc phát huy dân chủ trong công tác cán bộ
chưa được tiến hành nghiêm túc, thậm chí có ý kiến cho rằng, việc đề bạt, cất nhắc cán bộ là
của thủ trưởng đơn vị, mình có tham gia ý kiến cũng không có thể thay đổi được gì vì cấp trên
đã có hướng và sẽ quyết, tham gia góp ý chỉ gây mất lòng, ảnh hưởng đến sự đoàn kết…
Việc ghi chép biên bản, nghị quyết sinh hoạt chi bộ cũng không được thực hiện nghiêm
túc, nội dung ghi chép, biên bản chưa thể hiện đầy đủ các ý kiến đóng góp của đảng viên. Ý
kiến của chủ tọa sau khi thảo luận từng nhóm vấn đề hoặc kết luận tất cả các nội dung ở cuối
buổi họp, chưa được ghi chép, tổng hợp kịp thời…
+ Nguyên nhân của tồn tại hạn chế:
-Nhận thức chưa đúng về sinh hoạt Đảng ở chi bộ của một bộ phận không nhỏ đảng viên
và cấp ủy (nếu không muốn nói còn coi nhẹ) mà trước hết là cá nhân bí thư.
-Một số cấp ủy chưa dành thời gian đầu tư, suy nghĩ, tìm các biện pháp để đổi mới nội
dung, hình thức nâng cao chất lượng sinh hoạt, một phần do nặng về công tác chuyên môn hơn
công tác đảng, mặt khác, chưa nghiên cứu kỹ và nắm vững các nguyên tắc sinh hoạt Đảng cũng
như kỹ năng, nghiệp vụ công tác Đảng.
-Vì vậy, các tính chất trong sinh hoạt Đảng như (tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến
đấu) không được thực hiện đầy đủ.
-Việc thực hiện quy trình sinh hoạt cấp ủy trước khi sinh hoạt chi bộ thường bị bỏ qua, do
đó nội dung sinh hoạt Đảng chưa được cấp ủy coi trọng và chuẩn bị kỹ.
-Mặt khác, sự lãnh đạo, chỉ đạo theo dõi, kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với
cơ sở chưa thường xuyên nên chi bộ thường chủ quan, bằng lòng với những hoạt động của
mình…
* Đề xuất một số giải pháp
Một là, cần tổ chức đợt sinh hoạt chuyên đề nghiên cứu, học tập quán triệt nội dung Chỉ
thị số 10-CT/TW ngày 30-3-2007 “Về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” và Hướng dẫn số
09 -HD/BTCTW ngày 02-3-2012 của Ban Tổ chức Trung ương về nội dung sinh hoạt chi bộ,
làm cho tổ chức đảng và đảng viên nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan
trọng của việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sơ đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từ đó, chi bộ thảo luận dân
chủ đưa ra các giải pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng và đưa sinh hoạt chi bộ vào nề
nếp…
Hai là, các ban xây dựng Đảng của cấp ủy quận, huyện và tương đương, cần chủ động xây
dựng kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng cho bí thư, cấp ủy
viên cơ sở. Trong đó, chú trọng bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ, thực tiễn kinh nghiệm công tác
đảng trên địa bàn…, đồng thời, cần cập nhật thông tin, kiến thức, những văn bản, hướng dẫn
mới cho các cấp ủy viên và bí thư các chi bộ; coi trọng việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực nhận
thức, vận dụng, cụ thể hóa thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ở cơ sở.
Ba là, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của đảng ủy cơ sở. Thường xuyên kiểm tra việc sinh
hoạt chi bộ bằng các hình thức thông qua báo cáo, kiểm tra biên bản sinh hoạt chi bộ hoặc kiểm
tra đột xuất ngay trong thời gian chi bộ đang sinh hoạt. Cấp ủy cấp trên cần trang bị thống nhất
sổ ghi biên bản, nghị quyết và hướng dẫn nội dung ghi chép cho các chi bộ.
Bốn là, trong sinh hoạt chi bộ phải thực sự phát huy dân chủ và thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc tổ chức của Đảng; chi bộ cần dành thời gian thỏa đáng để đảng viên trong chi bộ phát biểu
và thể hiện chính kiến của mình. Cấp ủy chủ trì hội nghị phải lắng nghe ý kiến của đảng viên và
gợi ý những vấn đề cần thiết để đảng viên thảo luận. Những nội dung phải biểu quyết nhưng
đang còn có ý kiến khác nhau, chi bộ cần dành thời gian thảo luận kỹ, tạo sự thống nhất trước
khi tiến hành biểu quyết. Kịp thời phản ảnh, báo cáo với cấp ủy cấp trên về những thắc mắc, ý
kiến của đảng viên về cả lý luận và thực tiễn đề nghị cấp ủy cấp trên giải đáp…
Năm là, các cấp ủy cần chủ động chuẩn bị nội dung và tăng cường hình thức sinh hoạt chi
bộ theo chuyên đề (mỗi quý nên tổ chức sinh hoạt chuyên đề một lần) để nội dung sinh hoạt chi
bộ phong phú, hấp dẫn, tránh sơ cứng, đơn điệu và góp phần nâng cao nhận thức cho đảng viên.
Việc chọn chuyên đề sinh hoạt cần sát thực, phù hợp với nhiệm vụ của chi bộ và trình độ nhận
thức của đảng viên; đồng thời, phân công những đảng viên có khả năng, điều kiện nghiên cứu,
tập hợp tư liệu để chuẩn bị và trình bày trước chi bộ, nhằm góp phần rèn luyện, bồi dưỡng, nâng
cao khả năng diễn đạt, thuyết trình trước tập thể cho đảng
*Khái niệm
Công tác tư tưởng của Đảng là hệ thống các hoạt động của Đảng về lý luận tuyên truyền,
cổ động văn hóa, nghệ thuật nhằm xây dựng đảng vững mạnh về tư tưởng, tạo sự thống nhất tư
tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, vận động toàn Đảng, toàn dân thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Như vậy, công tác tư tưởng là hoạt động chính trị quan trọng do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, có nhiệm vụ bảo vệ, phát triển, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, thông tin có định hướng của Đảng trên tất
cả mọi mặt của đời sống xã hội. Công tác tư tưởng nhằm xây dựng ý thức xã hội chủ nghĩa,
định hướng giá trị xã hội đúng đắn góp phần xây dựng thế giới quan khoa học và nhân cách
người cộng sản, thúc đẩy họ tự giác, tích cực tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Phương chấm tiến hành công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở Đảng
Phương châm công tác tư tưởng là những định hướng có tính chỉ đạo trong hoạt động
công tác tư tưởng ở các cấp, các ngành. Phương châm công tác tư tưởng bao gồm 6 nội dung
chủ yếu là:
Một là, Công tác tư tưởng phải gắn chặt với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phong trào
cách mạng của quần chúng, với từng đối tượng.
Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị là mục đích, yêu cầu trực tiếp của công tác tư tưởng.
Do đó, việc tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên quán triệt sâu sắc nhiệm vụ
chính trị, có ý chí, quyết tâm cao để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ là công việc thường xuyên của công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở đảng. Chi có xuất
phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và gắn bó chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị,
công tác tư tưởng ở cơ sở mới có sức sống và phát huy hiệu quả.
Hai là, Kết hợp chặt chẽ ba nội dung giáo dục: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức, khoa
học, kỹ thuật, công nghệ; phẩm chất và đạo đức cách mạng. Kết hợp giáo dục lý luận, quan
điểm cơ bản với giáo dục tình hình và nhiệm vụ trước mắt.
Để phát huy vai trò làm chủ, mọi người dân cần có hiểu biết về chính trị, hiểu rõ đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, để có thái độ đúng đắn đối với
các vấn đề của cuộc sống; có những kiến thức nhất định về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nghiệp
vụ cần thiết cho công việc của mình; có phẩm chất đạo đức công dân. Cán bộ, đảng viên là
người lãnh đạo cần có sự hiểu biết về lý luận chính trị sâu sắc hơn, để quán triệt đường lối, chử
trương của Đảng vào thực hiện nhiệm vụ và giáo dục, thuyết phục, nâng cao giác ngộ chính trị
của quần chúng; có kiến thức lý luận chính trị và chuyên môn nhất định để tham gia đấu tranh,
bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng, hoàn thành nhiệm vụ được giao; có phẩm chất
đạo đức, lối sống của người cách mạng, là tấm gương để quần chúng noi theo.
Bà là, công tác tư tưởng phải gắn liền với công tác tổ chứcvà công tác kiểm tra
Công tác tư tưởng nâng cao tính tự giác, chỉ đạo hành động của quần chúng. Muốn như
vậy, công tác tư tưởng không thể tach rời công tác tổ chức và các mặt công tác khác. Công tác
tư tưởng phải gắn liền với công tác tổ chức, qua tổ chức để kịp thời nắm được diễn biến, tư
tưởng của quần chúng, để có nội dung, biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng cụ thể,
tạo sự ổn định về tư tưởng, chính trị, thúc đẩy các phong trào hoạt động có hiệu quả.
Bốn là, - Kết hợp giáo dục tư tưởng trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn cách
mạng.
Với sự phát triển phong phú và đa dạng của thực tiễn đổi mới, Đảng ta luôn mở rộng dân
chủ, khuyến khích và phát huy sự tìm tòi, sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn. Nhiều sáng kiến, kinh nghiệm có giá trị xuất phát và được tổng kết từ cơ sở, từ sáng
tạo của quần chúng, được Đảng tổng kết thành bài học, thành chủ trương, đường lối. Mặt khác,
với sự phát triển nhanh chóng, đa dạng và phong phú của thực tiễn đổi mới hiện nay, trong
Đảng và xã hội xuất hiện những ý kiến khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau về cùng một vấn
đề. Trong tình hình đó, cần mở rộng dân chủ, khuyến khích thảo luận, tranh luận thẳng thắn về
những ý kiến, quan điểm khác nhau để đạt tới sự nhất trí có căn cứ khoa học và có sức thuyết
phục cao.
Năm là, - Kết hợp giáo dục tư tưởng trong nội dung sinh hoạt của tất cả các tổ chức; kết
hợp công tác tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.
Thông tin kịp thời, chính xác, có định hướng tư tưởng, chính trị đúng đắn là một nguyên
tắc cơ bản của công tác tư tưởng. Những chi bộ, đảng bộ nào biết sử dụng các nguồn thông tin
nội bộ và các nguồn thông tin chính thức khác, cập nhật những thông tin về tình hình thời sự,
chính trị trong nước và thế giới, bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời, làm cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân luôn có nhận thức đúng đắn về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, tình hình cơ quan, đơn vị, địa phương sẽ tạo được sự ổn định về tư
tưởng, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, giải quyết tốt những
vấn đề về tư tưởng nảy sinh.
Sáu là, - Kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán triệt để những
biểu hiện tư tưởng phi vô sản; biểu dương ưu điểm đi đôi với phê bình nghiêm khắc khuyết
điểm.
Công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn chi bộ, đảng bộ cơ sở và của mỗi cán bộ, đảng
viên, trước hết là cấp ủy, chịu trách nhiệm chính là bí thư. Công tác tư tưởng của chi bộ, đảng
bộ cơ sở phái kết hợp với công tác tư tưởng của các tổ chức, đoàn thể ở cơ sở, kết hợp công tác
tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng trong toàn xã hội.
2. Liên hệ thực trạng công tác tư tưởng nơi chi bộ đang sinh hoạt, đề xuất giải pháp để
nâng cao công tác tư tưởng tại chi bộ đồng chí
Liên hệ này các đồng chỉ tham khảo, theo thực tế ở đơn vị đồng chí
Hiện nay, chi bộ Đảng nơi tôi đang sinh hoạt có 28 đảng viên, Đảng viên là cán bộ, công
chức về hưu chiếm ½ tổng số Đảng viên, còn lại là Đảng viên trẻ và cán bộ, công chức tại địa
phương . Chi ủy xã xác định công tác giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên là khâu quan
trọng, quyết định trong công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, bởi tư tưởng chính
trị thông suốt, đạo đức cách mạng trong sáng thì mọi việc sẽ thành công. Vì vậy, Chi ủy quán
triệt, triển khai đến từng cán bộ, đảng viên nghiêm túc nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ
nhận thức về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các nội dung Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của
Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”;
tích cực tuyên truyền về tình hình thời sự quốc tế, trong nước, tình hình biển, đảo, tổ chức các
ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn của đất nước, của dân tộc, của huyện và của xã. Đưa việc học tập và
làm theo Bác trở thành việc làm thường xuyên, một nội dung quan trọng của công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Kết quả học tập và làm theo Bác được Chi ủy lấy làm tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân
loại đảng viên, tổ chức Đảng hàng năm và cả nhiệm kỳ. Mỗi cán bộ, đảng viên sau khi được
quán triệt học tập sẽ tự nghiên cứu, liên hệ gắn với công việc, trách nhiệm, từ đó hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên, đặc biệt là đảng viên trẻ luôn được
chi bộ quan tâm thực hiện thường xuyên, liên tục. Nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ,
đảng viên, ngay sau khi nhận được các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, tỉnh, huyện,
xã ban hành, Chi ủy nắm rõ, nghiên cứu từng nội dung, tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên của
chi bộ. Các Đảng viên trong chi bộ luôn chủ động bám sát địa bàn thôn dân cư, nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng, diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên, kịp thời phát hiện, uốn nắn những biểu
hiện lệch lạc trong tư tưởng, đạo đức, lối sống. Thực hiện công tác tuyên truyền vận động cán
bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ của địa phương,
của thôn và các vấn đề xảy ra trên địa bàn như: đất đai, môi trường,…không để Đảng viên và
nhân dân bị lung lay tư tưởng, mất niềm tiên vào Đảng và chính quyền, không để xuất hiện
điểm nóng.
Mặt khác, Chi bộ luôn biểu dương, nêu gương và phát huy tính tiên phong, gương mẫu
của các đảng viên cao tuổi, đảng viên lão thành trong chi bộ, Đảng bộ xã để đảng viên trẻ noi
gương học tập, rèn luyện về tư tưởng, đạo đức, lối sống; thường xuyên tham mưu với Đảng ủy
quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm
chất đạo đức, lối sống; tác phong làm việc phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
Nhờ thường xuyên quan tâm giáo dục chính trị, tư tưởng, đến nay, 100% cán bộ, đảng viên
trong chi bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng, tin
tưởng tuyệt đối vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc
biệt, mỗi cán bộ, đảng viên trong toàn chi bộ nêu cao tính tự giác rèn luyện, trau dồi hoàn thiện
bản thân, giữ gìn phẩm chất đạo đức, nâng cao ý thức cách mạng, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nhờ đó,
nhiều năm nay, các vấn đề bức xúc được người dân quan tâm như: Vấn đề quản lý đất đai; vệ
sinh môi trường, xử lý rác thải sinh hoạt, nước thải trong chăn nuôi, vệ sinh an toàn thực phẩm;
thực hiện các chế độ chính sách đối với người có công, gia đình chính sách, hộ nghèo... được
kịp thời báo cáo và tham mưu biện pháp xử lý lên các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
giải quyết kịp thời, được nhân dân đồng tình ủng hộ, củng cố thêm niềm tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước.
Đánh giá xếp loại Đảng viên và chi bộ nhiều năm liền đều đạt chi bộ trong sạch vững
mạnh. Năm 2017 vừa qua, đánh giá xếp loại Đảng viên cuối năm, chi bộ Đảng 100% các đồng
chí Đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Tuy nhiên, công tác tư tưởng của chị bộ Đảng còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót đó là:
Tính chiến đấu chưa cao; công tác phổ biến, quán triệt, tuyên truyền đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với nhân dân còn hạn chế; công tác giáo dục lý
luận chính trị chưa thực sự đáp ứng được với tình hình mới; việc nắm bắt dư luận xã hội trong
nhân dân thực hiện chưa thường xuyên.
*Giải pháp nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở chi bộ
Để làm tốt công tác tư tưởng ở các chi bộ cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
-Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý của các cấp
chính quyền, sự tác động của các ngành, các đoàn thể đối với công tác tư tưởng. Đẩy mạnh thực
hiện Chỉ thị 03 - CT/TW của Bộ Chính trị gắn với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng;
nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng; chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên. Thực hiện tốt
tự phê bình và phê bình làm cho các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên thực sự trong sạch,
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
-Hai là, phát huy dân chủ trong công tác tư tưởng; mở rộng dân chủ trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân tham gia phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh.
-Ba là, tích cực đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, kiến thức
và năng lực thực tiễn của cán bộ đảng viên và nhân dân.
-Bốn là, nêu cao vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Bám sát thực tiễn, nắm vững tư
tưởng cán bộ, đảng viên; kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc trong nhân dân.
-Năm là, phát huy thế chủ động tiến công trên mặt trận tư tưởng kết hợp chặt chẽ “xây và
chống”, “biểu dương và phê bình”, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình”
trên lĩnh vực tư tưởng.
-Sáu là, phát huy sức mạnh tổng hợp để đẩy mạnh công tác tư tưởng.
-Bảy là, tăng cường công tác thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tình hình thời
sự, chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
-Tám là, tập trung tuyên truyền phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc phòng -
an ninh, nhất là chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận
trong xã hội.
*Tóm lại :Xây dựng Đảng là công việc hệ trọng, cấp bách, lâu dài với nhiều nội dung, trong
đó xây dựng Đảng về tư tưởng là nội dung trọng yếu nhất. Thực hiện tốt được những giải pháp
nêu trên sẽ là tiền đề cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ các cấp.
Hai là, tiếp tục củng cố, xây dựng tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể ở cơ sở thật sự
trong sạch, vững mạnh. Củng cố, xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở vững
mạnh, để lãnh đạo đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị. Thường xuyên chú ý kiện
toàn chi bộ, tổ đảng. Duy trì sinh hoạt đảng đi vào nền nếp, nội dung cần tập trung lãnh đạo
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công tác chính trị, tư tưởng, xây dựng chính quyền, MTTQ và
các đoàn thể chính trị - xã hội, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện nhiệm
vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Ba là, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, đảng bộ cơ sở. Cấp ủy, tổ chức đảng ở
cơ sở thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, đảng bộ định kỳ. Nội
dung sinh hoạt theo đúng Hướng dẫn số 12-HD/BTCTW ngày 06/7/2018 của Ban Tổ chức
Trung ương về một số vấn đề nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; đúng lịch theo Nghị quyết
của BCH Đảng bộ huyện. Mỗi quý, các chi bộ phải sinh hoạt chuyên đề ít nhất một lần. Việc tự
phê bình và phê bình trong sinh hoạt cấp ủy, chi bộ cần tiến hành thường xuyên, nghiêm túc,
thiết thực, gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và gắn với việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM; kịp thời phát hiện và nêu gương những đảng
viên tiền phong, gương mẫu, có thành tích xuất sắc và giáo dục, giúp đỡ những đảng viên có
khuyết điểm, sai phạm. Kiểm điểm và thi hành kỷ luật nghiêm minh đối với đảng viên vi phạm
Điều lệ Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
cao. Thực hiện nghiêm các quy định về phân cấp quản lý cán bộ. Quan tâm công tác quy hoạch
cán bộ, gắn với đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm cán bộ, đây chính là nguồn của cấp ủy, bí thư
các chi đảng bộ cơ sở. Thực hiện nghiêm túc công tác đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên
theo các tiêu chí quy định, đảm bảo thực chất, dân chủ, khách quan. Nâng cao chất lượng công
tác quy hoạch cán bộ, đảm bảo chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu
dài. Tiếp tục thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ. Tạo sự chuyển biến trong công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu chuẩn chức danh. Đổi mới công tác tuyển chọn,
bố trí, sử dụng cán bộ. Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ; gắn việc xây dựng đội
ngũ cán bộ với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM với phòng, chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Thực hiện chính sách cán bộ đảm bảo đầy đủ, kịp
thời. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy đối với đội ngũ cán bộ và công tác cán
bộ.
Năm là, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Cấp ủy các
cấp cần nhận thức rõ việc xây dựng đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí
tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức kỷ luật, thực hiện tiền phong, gương mẫu, đủ năng
lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong công tác Xây
dựng Đảng hiện nay. Các cấp ủy phải quan tâm làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp
vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, năng lực giải quyết những tình huống xảy ra ở cơ sở.
Sáu là, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng phải thường
xuyên quán triệt nhiệm vụ của đảng viên theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định; thực
hiện nghiêm túc việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên, bảo đảm cụ thể, đúng năng lực, phát huy
khả năng của từng đảng viên; kiểm tra giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên. Cần chú
trọng công tác phát triển đảng, chú ý đến các quần chúng ưu tú là công nhân, trí thức, đoàn viên
thanh niên, nhất là các quần chúng trực tiếp lao động sản xuất. Cấp ủy có chủ trương giao chỉ tiêu
kết nạp cho các chi, đảng bộ cơ sở. Tăng cường và đổi mới cách tuyên truyền, giáo dục lý tưởng
cách mạng cho đoàn viên, hội viên để tạo nguồn phát triển đảng viên.
Bảy là, tăng cường công tác lãnh đạo, kiểm tra, giám sát của cấp ủy đối với các tổ chức cơ
sở đảng. Quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, quy định của Trung ương về công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; quy định của Bộ Chính trị về xử lý đảng viên vi phạm,
những điều đảng viên không được làm.
Câu 4 : (NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC ĐẢNG)
Đồng chí hãy phân tích khái niệm, vị trí, tầm quan trọng của đảng viên? Liên hệ vai trò của
đồng chí ở chi bộ nơi đồng chí đang sinh hoạt?
Câu này bổ sung đầy đủ nội dung nhé
1. Phân tích khái niệm Đảng viên
- Điều 1, Điều lệ ĐCS Việt Nam được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác
định: “Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục
đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích cuả Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị
quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
có đạo đức và lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, phục tùng tổ chức, kỷ luật
của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Trong khái niệm đã nêu đầy đủ các tiêu chuẩn của người đảng viên:
- TC1: Suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân;
- TC2: Chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng
và pháp luật của Nhà nước;
- TC3: Có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
- TC4: Có đạo đức và lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân;
- TC5: Phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2. Phân tịch vị trí, tầm quan trọng của đảng viên
Vị trí, vai trò của đảng viên được thể hiện qua các mối quan hệ của đảng viên. Cụ thể đó là:
* Đảng viên với đường lối, nhiệm vụ chính trị.
Giữa đảng viên và đường lối, nhiệm vụ chính trị có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn
nhau. Cụ thể:
- Đảng viên là người đóng góp ý kiến xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng,
nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng;
- Đảng viên là người lãnh đạo nhân dân và cùng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
- Đảng viên là người kiểm tra đường lối, nhiệm vụ chính trị qua đó phát hiện ra những những mặt
còn hạn chế làm cơ sở cho Đảng và tổ chức đảng bổ sung, hoàn thiện.
Ngược lại, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở
Đảng là cơ sở cho sự trưởng thành của đảng viên.
- Đường lối, nhiệm vụ đúng đắn sẽ tạo cho đảng viên có hành động đúng, thực sự là chiến sỹ
tiên phong. Đảng viên giác ngộ nhanh chóng, trưởng thành qua phong trào thực tiễn, nâng cao
uy tín với quần chúng. Nếu đường lối sai, đảng viên mất phương hướng hành động dẫn đến vi
phạm kỷ luật.
- Có đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng thì mới có căn cứ để phân công nhiệm vụ cho đảng
viên, có căn cứ để xem xét, đánh giá, phân loại đảng viên, có phương hướng và nội dung để bồi
dưỡng nâng cao trình độ cho từng đảng viên.
* Mối quan hệ giữa đảng viên với tổ chức Đảng
- Đảng viên lchính là người tế bào cấu thành tổ chức Đảng
- Đảng viên là người quán triệt, tổ chức nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ
- Chất lượng đội ngũ đảng viên quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng.
- Chất lượng đội ngũ đảng viên tạo nên sức mạnh của tổ chức cơ sở Đảng. Sức mạnh của tổ
chức cơ sở Đảng là yếu tố nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Ngược lại tổ chức cơ sở Đảng cũng có vai trò rất lớn đối với sự trưởng thành của đảng viên. Cụ
thể:
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi giáo dục, rèn luyện, quản lý, giúp đỡ và là môi trường để cho mỗi
đảng viên phát triển.
- Đảng viên sinh hoạt trong môi trường đảng bộ, chi bộ mạnh sẽ trưởng thành nhanh chóng, sẽ
phát huy được sở trường, tính tích cực, tự giác của mỗi đảng viên. Ngược lại sẽ rất ít những
đảng viên trưởng thành được từ tổ chức cơ sở yếu kém.
Mối quan hệ giữa tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên là mối quan hệ giữa cá nhân và tổ chức. Đó
là sự tác động biện chứng trong đó chất lượng, sức mạnh mỗi bên là điều kiện cho bên kia.
Hướng tới mục tiêu chung là hoàn thành nhiệm vụ chính trị cơ sở.
* Đảng viên với phong trào cách mạng của quần chúng.
Quần chúng là người làm nên lịch sử, sứ mệnh lịch sử của Đảng gắn liền với quần chúng. Đảng
không thể hoàn thành được sứ mệnh của mình nếu không tạo ra được một sợi dây liên kết chặt
chẽ với quần chúng, đảng viên là người nối sợi dây đó.
- Đảng viên là người tuyên truyền, giáo dục, tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng thực hiện
nhiệm vụ chính trị của cơ sở, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Ngược lại, phong trào cách mạng của quần chúng cũng có sự tác động trở lại đảng viên:
+ Là nơi lựa chọn những người ưu tú kết nạp vào Đảng.
+ Là nơi giáo dục rèn luyện đảng viên.
+ Là nơi đánh giá chính xác, công minh đội ngũ đảng viên.
3. Liên hệ bản thân:
- Tham gia xây dựng chi bộ
- Tham gia thực hiện các nhiệm vụ của chi bộ
- Học tập, rèn luyện bản thân để hoàn thành các nhiệm vụ của người đảng viên
* Khái niệm:
Điều 21, ĐLĐ Đại hội XII: Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) là tổ chức đảng được lập ở đơn vị cơ
sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực
thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân
đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức
cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định
việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên
chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích
hợp.
* Chứng minh vị trí, vai trò của TCCSĐ: “TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”
- Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng
Xét trong hệ thống tổ chức của Đảng thì TCCSĐ là nền tảng, là gốc rễ của Đảng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ: Muốn làm nhà cho tốt phải xây dựng nền móng cho vững, muốn thực hiện kế
hoạch cho tốt phải chăm lo củng cố chi bộ. Một cây không thể thiếu gốc rễ, một ngôi nhà không
thể thiếu nền tảng, nền móng. Nền tảng của Đảng có vững vàng, có sức chiến đấu cao, có năng
động và sáng tạo thì Đảng mới có sức mạnh vô định, đững vững trước mọi thử thách đưa cách
mạng Việt Nam không ngừng tiến lên. Điều đó đủ nói lên vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của
chi bộ với tư cách là tổ chức cơ sở đảng. “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh, các chi bộ mạnh
tức là Đảng mạnh”.
Vai trò nền tảng của TCCSĐ được thể hiện:
- TCCSĐ là cấp tổ chức cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng, là cơ sở để xây
dựng nên toàn bộ hệ thống tổ chức của Đảng, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, bám sát các đơn vị
cơ sở, các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đến từng
đảng viên, từng đơn vị cơ sở, từng người dân
- Là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, thể hiện: TCCSĐ đưa
đường lối, chủ trương của Đảng vào nhân dân, tuyên truyền giáo dục nhân dân hiểu, lãnh đạo và
tổ chức cho nhân dân thực hiện.
- Là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng; đóng góp cho Đảng những sáng kiến, những kinh nghiệm thực
tiễn phong phú của đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân.
- TCCSĐ cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng:
+ Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện đảng viên
+ Trực tiếp kết nạp, quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ cho đảng viên
+ Tạo nguồn đảng viên cho Đảng.
+ Sàng lọc đảng viên.
+ Đào tạo cán bộ, cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Đây là vai trò rất quan trọng của tổ
chức cơ sở Đảng.
+ Tiến hành xử lý, kỷ luật đảng viên đưa những đảng viên không còn đủ tư cách đứng trong
hàng ngũ của Đảng ra khỏi Đảng.
Chất lượng TCCSĐ ảnh hưởng lớn tới chất lượng nội bộ Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt”.
- TCCSĐ còn là cầu nối Đảng với quần chúng nhân dân, là một mắt khâu trọng yếu để duy trì
mối liên hệ Đảng với dân, là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phản ánh
với Đảng để Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, hợp với lòng dân, định hướng hoạt
động và uốn nắn những lệch lạc của các tổ chức đoàn thể ở cơ sở.
TCCSĐ là hạt nhân chính trị ở cơ sở
- Vai trò hạt nhân của TCCSĐ được thể hiện:
TCCSĐ là một thành tố của hệ thống chính trị ở đơn vị cơ sở nhưng là bộ phận quan trọng
nhất, nó đóng vai trò trung tâm lãnh đạo đối với cả hệ thống đó, đảm bảo cho mọi hoạt động ở
cơ sở theo đúng định hướng chính trị của Đảng. Nó quyết định xu thế vận động và phát triển
của cơ sở.
Vị trí là hạt nhân chính trị ở cơ sở được thể hiện:
- Là trung tâm đoàn kết và lãnh đạo toàn diện các tổ chức chính trị, xã hội ở cơ sở
- Là nơi giáo dục, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
- Lãnh đạo chính quyền cơ sở bằng hệ thống những quan điểm lý luận, những nguyên tắc chính
trị làm cho chính quyền cơ sở thực sự đại diện cho ý chí của nhân dân.
- Có khả năng đoàn kết, tập hợp, quy tụ lực lượng trong hệ thống chính trị thành một khối thống
nhất về ý chí và hành động tạo ra sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
ở cơ sở.
- Nó còn thể hiện khả năng phát hiện tình huống và xử lý tình huống đó.
Với vị trí là nền tảng của Đảng, TCCSĐ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự vững mạnh và
năng lực lãnh đạo của Đảng.
* Liên hệ việc thực hiện vị trí, vai trò đó ở tổ chức Đảng nơi mình đang sinh hoạt.
- Ưu điểm
- Hạn chế
- Giải pháp
Bài làm đầy đủ xem lại có giống gợi ý ko?
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ
cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Đồng chí hãy chứng minh luận điểm
trên và liên hệ việc thực hiện vị trí vai trò đó tại tổ chức đảng nơi đồng chí đang sinh hoạt?
Điều 21, ĐLĐ Đại hội XII: Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) là tổ chức đảng được lập ở đơn vị cơ
sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực
thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân
đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức
cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định
việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên
chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích
hợp.
2 * Chứng minh vị trí, vai trò của TCCSĐ: “TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”
a- Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng:
Xét trong hệ thống tổ chức của Đảng thì TCCSĐ là nền tảng, là gốc rễ của Đảng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ: Muốn làm nhà cho tốt phải xây dựng nền móng cho vững, muốn thực hiện kế
hoạch cho tốt phải chăm lo củng cố chi bộ. Một cây không thể thiếu gốc rễ, một ngôi nhà không
thể thiếu nền tảng, nền móng. Nền tảng của Đảng có vững vàng, có sức chiến đấu cao, có năng
động và sáng tạo thì Đảng mới có sức mạnh vô định, đững vững trước mọi thử thách đưa cách
mạng Việt Nam không ngừng tiến lên. Điều đó đủ nói lên vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của
chi bộ với tư cách là tổ chức cơ sở đảng. “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh, các chi bộ mạnh
tức là Đảng mạnh”.
- TCCSĐ là cấp tổ chức cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng, là cơ sở để xây
dựng nên toàn bộ hệ thống tổ chức của Đảng, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, bám sát các đơn vị
cơ sở, các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đến từng
đảng viên, từng đơn vị cơ sở, từng người dân
- Là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, thể hiện: TCCSĐ đưa
đường lối, chủ trương của Đảng vào nhân dân, tuyên truyền giáo dục nhân dân hiểu, lãnh đạo và
tổ chức cho nhân dân thực hiện.
- Là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng; đóng góp cho Đảng những sáng kiến, những kinh nghiệm thực
tiễn phong phú của đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân.
- TCCSĐ cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng:
+ Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện đảng viên
+ Trực tiếp kết nạp, quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ cho đảng viên
+ Đào tạo cán bộ, cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Đây là vai trò rất quan trọng của tổ
chức cơ sở Đảng.
+ Tiến hành xử lý, kỷ luật đảng viên đưa những đảng viên không còn đủ tư cách đứng trong
hàng ngũ của Đảng ra khỏi Đảng.
Chất lượng TCCSĐ ảnh hưởng lớn tới chất lượng nội bộ Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt”.
- TCCSĐ còn là cầu nối Đảng với quần chúng nhân dân, là một mắt khâu trọng yếu để duy trì
mối liên hệ Đảng với dân, là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phản ánh
với Đảng để Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, hợp với lòng dân, định hướng hoạt
động và uốn nắn những lệch lạc của các tổ chức đoàn thể ở cơ sở.
TCCSĐ là một thành tố của hệ thống chính trị ở đơn vị cơ sở nhưng là bộ phận quan trọng
nhất, nó đóng vai trò trung tâm lãnh đạo đối với cả hệ thống đó, đảm bảo cho mọi hoạt động ở
cơ sở theo đúng định hướng chính trị của Đảng. Nó quyết định xu thế vận động và phát triển
của cơ sở.
Là trung tâm đoàn kết và lãnh đạo toàn diện các tổ chức chính trị, xã hội ở cơ sở
Là nơi giáo dục, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Lãnh đạo chính quyền cơ sở bằng hệ thống những quan điểm lý luận, những nguyên tắc chính
trị làm cho chính quyền cơ sở thực sự đại diện cho ý chí của nhân dân.
Có khả năng đoàn kết, tập hợp, quy tụ lực lượng trong hệ thống chính trị thành một khối thống
nhất về ý chí và hành động tạo ra sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
ở cơ sở.
Nó còn thể hiện khả năng phát hiện tình huống và xử lý tình huống đó.
Với vị trí là nền tảng của Đảng, TCCSĐ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự vững mạnh và
năng lực lãnh đạo của Đảng.
3. * Liên hệ việc thực hiện vị trí, vai trò đó ở tổ chức Đảng nơi mình đang sinh hoạt.
a. Ưu điểm
+ Tổ chức cơ sở đảng nơi tôi công tác đã giữ vững và phát huy vai trò hạt nhân chính trị ở cơ
sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, thực hiện có kết quả nhiệm vụ
chính trị, công tác chuyên môn ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Tập trung lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng
hệ thống chính trị vững mạnh ở địa phương, điển hình là kết quả từ các phong trào xóa đói giảm
nghèo, dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, vùng sản xuất tập trung, xây dựng nông
thôn mới…
Cùng với đó là trách nhiệm của chi ủy, của đồng chí bí thư chi bộ trong duy trì sinh hoạt từng
bước được nâng lên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ đã dần đi vào nền nếp, duy trì thường xuyên
vào đầu tháng (từ 3 – 6 hằng tháng), mỗi tháng một lần theo quy định của Điều lệ Đảng. Nhiều
chi bộ đã tổ chức được các cuộc họp chi bộ theo chuyên đề; tỷ lệ đảng viên tham gia sinh hoạt
đạt khá. Trong sinh hoạt định kỳ, các chi bộ ở nông thôn đều coi trọng đổi mới nội dung, hình
thức sinh hoạt, sát với thực tiễn của địa phương, nhất là một số nhiệm vụ trọng tâm, theo từng
giai đoạn, thời điểm. Việc đổi mới nội dung, hình thức và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
thường xuyên được gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo
chuyên đề hằng năm đã tạo cho việc sinh hoạt chi bộ có tính thuyết phục hơn, hấp dẫn và hiệu
quả hơn, giúp cho các đảng viên của chi bộ nâng cao nhận thức và hành động trong thực hiện
nghị quyết của chi bộ.
b. Hạn chế
+ Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chị bộ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên còn một
số khuyết điểm, yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
+ Việc lựa chọn nội dung sinh hoạtc chi bộ còn nhiều lúng túng, chưa phù hợp với thực tế tại cơ
sở. Trong sinh hoạt một số đảng viên ý thức trách nhiệm chưa cao, đa số đảng viên dự sinh hoạt
không mang theo sổ ghi chép sinh hoạt. Số ý kiến phát biểu mang tính phản ánh là nhiều, chưa
có nhiều ý kiến mang tính giải pháp để tổ chức thực hiện.
+ Tinh thần tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng trong chi bộ chưa cao, còn tình trạng
nể nang, né tránh. Kiến thức, kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng, năng lực tổ chức của đội
ngũ chi ủy viên và bí thư chi bộ một số nơi hạn chế, thường bị động, lúng túng trong xử lý tình
huống phát sinh.
c. Giải pháp
+ Các chi bộ, đảng bộ cơ sở phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, nắm vững tình
hình, đặc điểm của đơn vị, cơ sở để xác định vị trí, nhiệm vụ chính trị của mình; đề ra được
nhiệm vụ trong từng thời gian cụ thể, phương hướng, mục tiêu, biện pháp phấn đấu mang tính
khả thi; bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
+ Các chi bộ, đảng bộ cơ sở hoạt động trong mối quan hệ thường xuyên với quần chúng và với
thực tiễn, chủ động giải quyết những vấn đề đặt ra hàng ngày, hàng giờ trong sản xuất, công tác
và đời sống xã hội; phát huy tính chủ động và sáng tạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở, đồng thời biết
tranh thủ sự lãnh đạo của cấp trên. Sự lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở nhằm mục tiêu thúc
đẩy mạnh mẽ các phong trào hành động cách mạng, phát huy vai trò làm chủ của quần chúng
nhân dân và lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên kiểm tra, giám sát, giáo
dục, động viên cán bộ, đảng viên nêu cao tính tiên phong, gương mẫu trong nhận thức và hành
động; sàng lọc và loại bỏ ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất; tạo điều kiện củng
cố tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ cơ sở.
Vai trò nền tảng và vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng có mối quan hệ chặt chẽ và
thống nhất, tạo tiền đề cho nhau cùng phát triển. Vai trò hạt nhân chính trị được phát huy tốt thì
càng củng cố cho vai trò nền tảng của tổ chức cơ sở đảng thêm vững chắc. Ngược lại, trên cơ sở
giữ vững vai trò nền tảng thì vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng cũng được nâng
cao.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang thi đua hưởng
ứng tích cực Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phát huy
sức mạnh của cả dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì việc nhận thức đầy đủ về vị trí, vai
trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng đối với mỗi cán bộ, đảng viên là hết
sức quan trọng. Mỗi tổ chức cơ sở đảng chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử nếu biết
tranh thủ sức mạnh nền tảng và hạt nhân chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của mình.
Thứ nhất, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị
vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa
dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những
biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nói chung trong các doanh nghiệp đều có tố chức cơ sở đảng, Công đoàn, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phát triển nhanh về số lượng, nâng cao
chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hóa: có
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa
học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh
với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có
tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao.
* Giải pháp chủ yếutăng cường công tác vận động công nhân ở cơ sở:
Một là: Bảo đảm việc làm, đời sống cho công nhân và người lao động
Cấp ủy, lãnh đạo cùng các tổ chức đoàn thế nhân dân, nhất là công đoàn cần tranh thủ sự
giúp đỡ của cấp trên để đảm bảo việc làm, thu nhập ổn định, đảm bảo đời sống cho công nhân
và người lao động, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần theo đường lối, quan điểm
của Đảng, phát triển những ngành nghề cần thiết sử dụng số lượng lớn lao động, tạo nhiều việc
làm, đem lại hiệu quả. Phấn đấu quyết liệt giải quyết vấn đề bức xúc nhất của công nhân hiện
nay là bảo đảm việc làm và đời sống ổn định, tương xứng với những thành quả của công cuộc
xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân.
Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để giải quyết việc làm ở trong nước, từng địa phương, hạn
chế việc tập trung công nhân vào các thành phố, đô thị lớn. Khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi cho công nhân phát triển kinh tế gia đình, phát huy khả năng của công nhân, tăng thu
nhập, cải thiện đời sống cho gia đình công nhân.
Thực hiện tốt chủ trương của Đảng về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu kinh
tế, chỉ đạo chặt chẽ, hạn chế những tiêu cực, tạo điều kiện cho công nhân ở doanh nghiệp mua
cổ phần. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh nghiệp.
Trước mắt, tập trung vào bổ sung, sửa đổi, xây dựng một số chính sách lớn: các quy định
về ký hợp đồng lao động, thỏa ước lao động; cải thiện điều kiện lao động, bảo hộ lao động, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, nhất là đối với công nhân nữ, công nhân làm việc nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm; công tác khám chữa bệnh; Luật Tiền lương tối thiểu; các loại bảo hiểm;
nhà ở; tôn vinh người lao động giỏi; thi đua, khen thưởng, bán cổ phần cho công nhân khi cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, pháp luật lao động,…
Thực hiện nghiêm Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong các doanh
nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tăng cường đối thoại, thương
lượng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Quy định rõ quyền, trách nhiệm của
người sử dụng lao động và công nhân trong xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến
bộ.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng lãng phí, đặc quyền, đặc lợi
trong bộ máy Đảng, Nhà nước, trong các doanh nghiệp do nhà nước quản lý ngay tại đơn vị cơ
sở.
Nâng cao trình độ lý luận chính trị, ý thức công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó với Đảng,
với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên của công nhân. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống âm
mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong giai cấp công nhân ngay tại cơ sở.
Ba là: Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở, đề cao trách nhiệm
của chính quyền, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội
khác trong công tác vận động công nhân
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác vận động công nhân.
Cùng vớiviệc tiếp tục thực hiện đạt kết quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, cần tập trung lãnh đạo thực
hiện các chủ trương, chính sách về: đào tạo, trí thức hóa công nhân; chuyển một bộ phận lớn
lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ; về xuất khẩu lao động; tạo nguồn để
phát triển đảng viên và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị,
trong sản xuất kinh doanh xuất thân từ công nhân; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
công nhân ....
Chú ý nhiều hơn nữa công tác bồi dưỡng, phát triển đảng trong công nhân để tăng tỷ lệ
đảng viên xuất thân từ công nhân trong Đảng.
Tiổp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, đẩy mạnh việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng
sử dụng những cán bộ xuất thân từ công nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất ngay từ cơ
sở.
Thực hiện có kết quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X
về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong các doanh nghiệp. Thành lập các tổ chức đảng và các tổ chức chính trị - xã
hội trong các doanh nghiệp tư nhân và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức đó hoạt động đạt
hiệu quả. Tăng cường phát triển đảng trong các trường phổ thông, cao đẳng, đại học, trường
đào tạo nghề và trong công nhân, chu động phát triển đảng trong các doanh nghiệp không có
hoặc có ít đảng viên, trong doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp trong công tác vận động công nhân, thực
hiện tốt công tác vận động công nhân của chính quyền và ban lãnh đạo, quản lý đơn vị.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và chính quyền các cấp nhằm đề cao
và phát huy trách nhiệm của các tổ chức này đối với công tác vận động công nhân.
Chính quyền địa phương, lãnh đạo, quản lý đơn vị cần thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương
của Đảng về công tác dân vận của chính quyền.
- Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong công
tác vận động công nhân.
Xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh, phát huy vai trò của công đoàn trong công tác vận
động công nhân, tập trung vào những nội dung như: đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức
hoạt động của tổ chức công đoàn các cấp; công đoàn các cấp cầnhướng mạnh về cơ sở để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân;
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, coi trọng cán bộ công đoàn cơ sở, nhất là chủ tịch công
đoàn cơ sở của doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; mở rộng quan
hệ với giai cấp công nhân và công đoàn các nước.
Đổi mới mạnh mẽ tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn
trong các doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của công đoàn cơ sở để tổ
chức công đoàn xứng đáng với vị trí, vai trò của mình trong doanh nghiệp ở mọi thành phần
kinh tế. Bổ sung cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở và chế độ phụ cấp trách
nhiệm cho cán bộ công đoàn cơ sở.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
đế nâng cao hiệu quả công tác nữ công của công đoàn tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp,
khu chế xuất.
Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp.
Bốn là: Nâng cao năng lực cản bộ các đoàn thể nhân dân đáp ứng yêu cầu vận
động công nhân trong thời kỳ mới
Đội ngũ cán bộ trong các tổ chức công đoàn các cấp có vai trò rất quan trọng trong công
tác vận động công nhân. Song, đội ngũ cán bộ các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp,
các khu công nghiệp và trong các tổ chức đoàn thể cấp trên của các doanh nghiệp cũng có vai
trò rất to lớn đối với công tác vận động công nhân. Vì thế, các cấp ủy, tổ chức đảng cần quan
tâm xây dựng đội ngũ cán bộ này đủ số lượng, có cơ cấu hợp lý và có chất lượng đáp ứng yêu
cầu công tác vận động công nhân trong thời kỳ mới. Tập trung vào những khâu chủ yếu: quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, luân chuyển cán bộ và thực hiện chính sách cán bộ.
Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là thành viên của Liên đoàn phụ nữ dân
chủ quốc tế và là thành viên của Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp hội các nước
Đông Nam Á).
* Nghiệp vụ tổ chức Hội Phụ nữ tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc
thực hiện pháp luật, chính sách về bình đẳng giới
Trên cơ sở những quy định được nêu trong Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12-12-2013
của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Hội Phụ nữ là chủ thể giám sát và phản biện xã hội
cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và bốn tổ chức chính trị - xã hội.
Hằng năm, căn cứ vào tình hình thực tiễn, Hội Phụ nữ có trách nhiệm xây dựng chương
trình, kế hoạch giám sát báo cáo cấp ủy và chính quyền cùng cấp trước khi triển khai. Khi cần
thiết có thế tổ chức giám sát ngoài kế hoạch. Giám sát thông qua việc thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật về thực hiện chính sách đối với phụ nữ và bình đẳng giới. Phản biện nội
dung các văn bản pháp luật liên quan đến công tác phụ nữ và bình đẳng giới bao gồm: sự cần
thiết, tính cấp thiết phải ra văn bản dự thảo; sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực tiễn của đơn vị địa phương;
tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính khả thi của văn bản dự
thảo về những vấn đề liên quan đến công tác phụ nữ và bình đẳng giới.
*Nghiệp vụ vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững
Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiển bộ, hạnh phúc, xây dựng người phụ nữ Việt Nam
có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng
nhân hậu là những nội dung quan trọng trong công tác phụ nữ.
Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, có trách nhiệm với gia đình, xã hội; đấu
tranh xóa bỏ các hủ tục tập quán lạc hậu, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; phòng, chống có
hiệu quả tệ nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em, bạo lực gia đình; ngăn ngừa tình trạng lấy
chồng nưóc ngoài bất hợp pháp vì vụ lợi.
Xây dựng hệ thống chính sách cơ bản nhằm phát triển gia đình Việt Nam thời kỳ :công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tiêu chí “no ấm, bình, đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, cần chú trọng
các lĩnh vực dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh và
HIV/AIDS; bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em; phát triển các dịch vụ hỗ trợ gia đình, cải thiện
môitrường sống. Có chính sách thai sản đối với phụ nữ nghèo không có chế độ bảo hiểm xã
hội.; chính sách phát triển hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo; nâng caotri thức, kỹ năng nuôi dạy con
cho các bà mẹ.
Phụ nữ gắn với gia đình và là trụ cột, “linh hồn’ của mỗi gia đình. Gia đình là điểm tựa, là
cơ sở để phụ nữ lao động, học tập, cống hiến và hưởng thụ. Gia đinh no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc là ước mong lớn nhất, là điều quan trọng nhất đối với phụ nữ. Để xây dựng gia đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, trước hết người phụ nữ phải có trình độ nhận thức về
chính trị, văn hóa, xã hội cần thiết. Phụ nữ phải được học, được tuyên truyền, giải thích; phụ nữ
cần có việc làm, cần có thu nhập, cần có tay nghề, cần có sức khỏe, .....Những yêu cầu trên của
phụ nữ chỉ có thể được: đáp ứng khi bản thân mỗi chị em phải nỗ lực. Đồng thời, phải có chế
độ, chính sách của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế - văn hóa - xã
hội, các đoàn thể quần chúng, gia đình, người thân cùng phối hợp hành động và quantâm thực
sự.
* Liên hệ:
* Nghiệp vụ tổ chức Hội Phụ nữ tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc
thực hiện pháp luật, chính sách về bình đẳng giới.
Tham gia xây dựng, phản biện và giám sát các chính sách, pháp luật là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm được Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) các cấp chú trọng thực hiện. Đặc biệt,
vai trò của Hội LHPN các cấp ngày càng được phát huy từ khi có Quyết định số 217, 218 của
Bộ Chính trị ban hành quy chế, quy định về việc tham gia giám sát, phản biện xã hội của
MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Quyết định số 217, 218 của Bộ chính trị khẳng định việc các cấp Hội LHPN tham gia
giám sát, phản biện xã hội không chỉ thực hiện quyền và trách nhiệm theo quy định của pháp
luật mà còn góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và nâng cao vai trò, trách nhiệm của
các cấp Hội LHPN trong tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Xác định đây là nhiệm vụ
trọng tâm, những năm qua, Hội LHPN xã ……….. đã tích cực, chủ động tham gia đóng góp ý
kiến xây dựng pháp luật, giám sát việc thực thi pháp luật tại địa phương. Hàng năm, để triển
khai thực hiện có hiệu quả công tác này, ngay từ đầu năm, hội LHPN xã đã xây dựng kế hoạch,
tổ chức hoạt động giám sát, phản biện xã hội gắn với chỉ tiêu thi đua và đánh giá việc thực hiện
phong trào, nhiệm vụ của hội tại địa phương mình. Tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ,
hội viên phụ nữ về công tác giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền
thông qua họp BCH Hội LHPN xã và thông qua sinh hoạt chi, tổ phụ nữ.
Để tham gia hiệu quả vào hoạt động giám sát, phản biện xã hội thì vai trò của người đứng
đầu các cấp hội là đặc biệt quan trọng, nhất là trong việc tập hợp, bố trí lực lượng để thu thập
thông tin, đánh giá thông tin đúng với bản chất từng vụ việc. Trong quá trình thực hiện Quyết
định 217, 218 của Bộ Chính trị, Hội LHPN xã đã chủ động phát hiện, đề xuất giám sát những
vấn đề thực tiễn đảm bảo đúng quy trình, báo cáo kết quả và kiến nghị kịp thời các vướng mắc,
bất cập…. Hàng năm, hội liên hiệp phụ nữ xã tập trung tham gia giám sát, phản biện xã hội
với những vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của nữ giới như: Luật Bình đẳng giới, Luật
Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Hôn nhân và Gia đình, Đề án Phòng chống mua bán người,
Kế hoạch hành động về bình đẳng giới tỉnh giai đoạn 2016 - 2020,….
Hàng năm, Hội LHPN xã chủ trì các cuộc giám sát ở các chi, tổ Hội trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về: Ủy thác vốn vay của
Ngân hàng CSXH, về hoạt động công tác Hội,…Bên cạnh đó, phối hợp với HĐND xã, giám sát
về chi trả tiền hỗ trợ cây trồng cho nhân dân, chi trả hỗ trợ tiền đền bù GPMB, ……. Qua đó,
góp phần thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động này ở các địa phương, hạn chế được nhiều
trường hợp sai phạm, lợi dụng chính sách để trục lợi cá nhân.
Việc thực hiện hiệu quả các phong trào thi đua, nhiệm vụ trọng tâm của Hội LHPN,
trong đó có hoạt động giám sát, phản biện xã hội theo tình hình thực tế của địa phương đã phát
huy tốt vai trò của phụ nữ trong tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Nhờ vậy, nhiều cán bộ
nữ được các cấp, ngành và nhân dân tín nhiệm, khẳng định được vị thế của nữ giới trong các
lĩnh vực đời sống xã hội.
*Nghiệp vụ vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững
Trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện, Hội LHPN xã đã gắn giữa việc thực
hiện xây dựng gia đình theo chuẩn mực: "No ấm, tiến bộ, hạnh phúc” với việc thực hiện Chỉ thị
số 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, 2
cuộc vận động: "Rèn luyện phẩm chất đạo đức: tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” và "Xây
dựng gia đình 5 không, 3 sạch”; chú trọng triển khai các đề án, trong đó có Đề án 279 về "Phát
huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền
vững”… Để thực hiện thành công các nội dung trên, Hội LHPN xã đẩy mạnh công tác tuyên
truyền nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp phụ nữ về xây dựng gia đình hạnh phúc, nhất
là vai trò của phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc trong thời kỳ CNH-HĐH. Tổ chức tốt các
cuộc vận động nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc như: “mẹ đảm, con ngoan”, phong trào “phụ
nữ ba đảm đang”, phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc”, xây dựng
chương trình : “giáo dục bà mẹ”.., duy trì hoạt động các CLB : Mẹ và con gái, CLB xây dựng
gia đình hạnh phúc, CLB gia đình phát triển bền vững, CLB Người cha mẹ tốt hay CLB Nuôi
dạy con tốt,…
Thường xuyên phối hợp với các ban, ngành, đoàn thểtổ chức các hoạt động xây dựng gia
đình, lồng ghép công tác xây dựng gia đình, chăm sóc, giáo dục trẻ em vào các chương trình
phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, tích cực tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ
thực hiện tốt kế hoạch hành động phòng, chống bạo lực gia đình; vận động hội viên tham gia
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hội thi, hội diễn do Hội phụ nữ xã phối hợp tổ chức. Hàng
năm hội LHPN xã đã phối hợp với cán bộ văn hóa xã tổ chức lớp tập huấn về phòng chống bạo
lực gia đình,, luật bình đẳng giới…Những hoạt động đó đã góp phần nâng cao nhận thức về vai
trò, vị trí, trách nhiệm của phụ nữ và từng gia đình trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về
hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, ngăn chặn, phòng ngừa các tệ nạn xã hội, bạo lực gia
đình, củng cố, ổn định và phát triển gia đình hạnh phúc, bền vững.
Nhiều phong trào, hoạt động hỗ trợ phát triển kinh tế trong thời gian qua được hội đẩy
mạnh, như: Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình; phụ nữ làm kinh tế giỏi, giúp phụ nữ
nghèo có địa chỉ; xây dựng các mô hình tiết kiệm; tuyên truyền và tư vấn học nghề; tăng cường
tín chấp các nguồn vốn, nâng cao chất lượng tín dụng, chất lượng ủy thác vốn vay ngân hàng
chính sách xã hội… Đến nay, Hội đã nhận uỷ thác vốn vay từ các ngân hàng và vốn hội viên
vay phát triển kinh tế gần ….. tỷ đồng. Trong đó duy trì tốt nguồn ủy thác Ngân hàng CSXH với
số tiền trên …..tỷ đồng,…Từ đó đã tạo điều kiện giúp nhiều hội viên, phụ nữ có việc làm, phát
triển kinh tế gia đình đưa đời sống ổn định, góp phần xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.