Вы находитесь на странице: 1из 19

GỢI Ý CHỦ ĐỀ TIỂU LUẬN CAO HỌC MÔN TRIẾT HỌC

1. Vấ n đề triế t ho ̣c của nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đố i với các giá tri ̣truyề n thố ng của dân tô ̣c Viê ̣t
Nam trong lich ̣ sử và hiê ̣n nay (Bắt buộc: Phải liên hệ và rút ra ý nghĩa trong lịch sử và hiện tại).
Bài làm: Trang 45-58 (GT), 70-83
Trang 80
Với lịch sử 1900 năm truyền bá ở Việt Nam, trong đó có hai giai đoạn chiếm địa vị độc tôn là Hậu Lê
(1428 - 1527) và Nguyễn sơ (1802 - 1883), Nho giáo đã tác động mạnh mẽ đến văn hóa Việt Nam. Nho giáo
góp phần làm hình thành dòng văn hóa quan phương chính thống, bên cạnh dòng văn hóa dân gian gắn với ý
thức tộc người, làm nên cốt lõi của văn hóa tộc người. Nho giáo làm cho văn hóa tinh thần của Việt Nam thời
trung đại bị Hán hóa một phần đáng kể, đồng thời kìm hãm, gây hại cho nền văn hóa truyền thống của Việt
Nam, cả trong lĩnh vực văn hóa tinh thần lẫn văn hóa vật chất. Nho giáo càng đạt tới tột đỉnh quyền uy thì đất
nước Việt Nam càng suy yếu, văn hóa Việt Nam càng suy thoái. Và cuối cùng, trước nạn vong quốc cuối thế
kỷ XIX, Nho giáo đã bất lực và tàn lụi.
I – Học thuyết Nho giáo, quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo trong truyền thống văn hoá Việt
Nam:
1- Sơ lược về học thuyết Nho giáo
Trung Quốc là trung tâm văn hoá lớn của nhân loại trong thời kỳ cổ trung đại trãi qua gần bốn mươi thế
kỷ phát triển liên tục, lịch sử triết học Trung Quốc bao hàm nội dung vô cùng phong phú với những hệ thống
triết học đồ sộ và sâu sắc.
Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc thời cổ đại đó là những tư
tưởng triết lý, luân lý đạo đức, thể chế cai trị vốn đã có cơ sở ở Trung Quốc từ thời Tây Chu, đến cuối thời
Xuân Thu (TKXI-TKV TCN) thì được Khổng Tử (551-479TCN) và các môn đệ của Ông là Mạnh Tử (372-
289 TCN) và Tuân Tử ( 313 -238 TCN) hệ thống hóa ổn định lại trong hai bộ kinh điển là Tứ Thư và Ngũ
Kinh.
Tứ Thư gồm : Luận ngữ, Đại học, Trung Dung và Mạnh Tử, bộ sách này do các học trò của Khổng Tử
đã tập hợp những lời dạy của thầy mà soạn ra.
Ngũ Kinh[2]gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
Nội dung bộ sách này phần lớn có từ trước được Khổng Tử gia công san định, hiệu đính và giải thích. Do
Khổng Tử có công đầu trong việc phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa lại và truyền bá nên ông
được xem là người sáng lập Nho giáo.
Nho giáo từ Khổng Tử đến Mạnh Tử được coi là giai đoạn hình thành, giai đoạn này được coi là Nho
giáo nguyên thuỷ.
Năm 221TCN Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc và áp dụng chính sách cai trị bằng pháp luật độc
đoán khắt nghiệt đã dùng bạo lực tiêu diệt Nho giáo.
Khi Hán Vũ Đế lên ngôi (140-87 TCN), đã thực hiện những chính sách quan trọng, thực hiện theo lời
khuyên của Đổng Trọng Thư, khôi phục Nho giáo và đưa Nho giáo lên địa vị Quốc giáo .
Nho giáo đời Hán (Hán Nho) đã được cải tạo, biến đổi, nhằm mục đích phục vụ vương triều.
Do đó từ đời Hán Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống chi phối văn hoá Trung Quốc và làm
nền tảng cho việc xây dựng và bảo vệ chế độ phong kiến Trung Quốc suốt hai ngàn năm lịch sử.
Ba cương lĩnh cơ bản của Nho giáo (Tam cương ) là:
- Đạo vua tôi (quân thần)
- Đạo cha con (phụ tử)
- Đạo vợ chồng (phu phụ)
Năm phép ứng xử luân lý và đạo đức (Ngũ thường ) Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín
Hạt nhân tư tưởng của triết học Nho giáo là Nhân và Lễ.
Nho giáo coi chữ Nhân là đạo đức hoàn thiện nhất “Nhân dã, Nhân giả” (kẻ có nhân ấy, ấy là con người
vậy) “nhân giả ái nhân (người có nhân thì yêu con người)
Để đạt chữ nhân, Khổng Tử chủ trương dùng lễ nhà Chu (Chu lễ) “Nhất nhật Khắc kỷ phục lễ, thiên hạ
quy nhân yên”(một ngày biết nén mình theo lễ thì thiên hạ quy về nhân vậy). Nhà Nho đã từ hai chữ nhân và
lễ mà suy diễn ra cả một hệ thống triết học chính trị, triết học đạo đức và triết học lịch sử.

1
Trên cơ sở những tư tưởng triết học ấy đã hình thành mẫu người của Nho giáo là người quân tử mà lý
tưởng sống được thể hiện tập trung trong một hệ thống quan niệm về tu thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ.
Giữa Khổng Tử và các học trò của Ông có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí mâu thuẩn với nhau như
“Quan điểm về thế giới” nhưng nhìn chung có sự thống nhất. Sự thống nhất đó thể hiện ở hệ thống quan
điểm về đạo đức luân lý, chính trị - xã hội, trong đó có sự thống nhất về các giá trị đạo đức, các mối quan hệ
con người (ngũ luân), trật tự đẳng cấp xã hội (chủ trương chính sách), sự tất yếu của chính quyền.
Trong triết học của Nho giáo với nội dung đạo đức, luân lý phong phú, thống nhất với nhau và thâm nhập
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đây có lẽ là thành quả rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh và có nhiều
đóng góp hữu ích vào việc hoàn thiện và làm phong phú kho tàng lý luận giáo dục đạo đức của nhân loại.
Do hạn chế về mặt lịch sử, triết học Khổng Tử chứa đựng các mâu thuẩn giằng co, đan xen giữa những
yếu tố duy vật, vô thần với những yếu tố duy tâm, giữa những tư tưởng tiến bộ với những quan điểm bảo thủ,
phản ánh tâm trạng giằng xé của Ông trước biến chuyển của thời cuộc. Tính không nhất quán ấy là cơ sở để
các thế hệ sau khai thác, bóp méo theo khuynh hướng duy tâm, tôn giáo thần bí. Về mặt chính trị xã hội, Ông
dừng lại trong lĩnh vực đạo đức, luân lý, không chú ý đến lĩnh vực sản xuất kinh tế và nhu cầu của con người
là cơ sở để phát triển của xã hội.
Tư tưởng Mạnh Tử tuy còn nhiều yếu tố duy tâm thần bí, nhưng với tư tưởng dân quyền, “nhân chính”,
“bảo dân”… có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử xã hội đương thời.
Tư tưởng của Tuân Tử có quan điểm duy vật về thế giới, nhưng khi lý giải về những vấn đề xã hội có
nhiều yếu tố duy tâm, thiếu khách quan khoa học vì liên hệ mật thiết với giai cấp địa chủ mới và cung cấp
cho giai cấp này căn cứ lý luận Với học thuyết “Chính danh định mệnh” làm cho con người chấp nhận sự tồn
tại lâu dài của chế độ phong kiến, là nguyên nhân của sự trì trệ, chậm phát triển của các nước phuơng Đông.
Quan hệ của con người trong Tam cương có tính phiến diện. Mặc dù Nho giáo có nói đến nghĩa vụ và
cách đối xử của hai bên, nhưng thực tế thì trước sau chỉ lên án những kẻ làm tôi, làm con, làm vợ mà thôi.
Thực tế đó là mối quan hệ độc đoán một chiều. Hơn nữa, quy toàn bộ quan hệ xã hội của con người vào Tam
cương, Ngũ thường là không đủ, Đặc biệt Nho giáo coi thường người phụ nữ, đã quy định trói buộc người
phụ nữ vào người đàn ông (coi trọng nam khinh nữ).
2. Quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo trong truyền thống văn hoá Việt Nam :
°Định nghĩa văn hóa :
Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa với nhiều phạm vi khác nhau trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo
nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); Theo nghĩa chuyên biệt để
chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn lịch sử (văn hóa Đông Sơn).
Định nghĩa văn hóa trong các từ điển hầu hết mở đầu bằng câu : “Văn hóa là tập hợp của các giá trị…”
ủy ban UNESCO của liên hợp quốc thì xếp văn hóa bên cạnh khoa học và giáo dục, tức đặt hai lĩnh vực này
ra ngoài khái niệm văn hóa, và đã định nghĩa văn hóa như sau : “ Văn hóa là một phức thể, tổng thể các đặc
trưng – diện mạo tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm … Khắc họa lên bản sắc một cộng đồng gia đình,
xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội. Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả những lối
sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống tín ngưỡng …”[3]
Theo Triết học Macxít thì : “Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của xã hội mà loài người đạt được, bao
gồm quan hệ con người với tự nhiên và xã hội, cả sự phát triển sáng tạo và khả năng của cá nhân”.[4]
Phó giáo sư – Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm đã tổng kết và đưa ra định nghĩa văn hóa như sau : “Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.
Định nghĩa vừa nêu trên có dụng ý chỉ ra bốn đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa đó là tính hệ thống,
tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh.
Văn hóa còn đặc trưng cho nhận thức và hành vi của con người trong những lĩnh vực cụ thể của đời sống
xã hội, bao gồm : Văn hóa lao động, văn hóa nghệ thuật, văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử …
Văn hóa là một yếu tố nằm trong thượng tầng kiến trúc xã hội. Có thể chia văn hóa thành văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần tương ứng với hai dạng sản xuất cơ bản đó là : Sản xuất vật chất và sản xuất tinh
thần.
Ta thấy khái niệm văn hóa có mặt trong mọi phạm vi xã hội và gắn liền với một xã hội, một dân tộc, một
cộng đồng và một cá thể trong từng thời điểm lịch sử nhất định. Văn hóa là một nhân tố chủ quan của con

2
người tác động trở lại quá trình phát triển khách quan của lịch sử. Ngày nay nhân tố con người ngày càng trở
nên quan trọng, nhất là trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
°Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo việt nam :
•Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được du nhập vào Việt nam từ lâu và đã có vai trò đáng kể trong đời
sống tinh thần của nhân dân. Những trào lưu ấy được cải biến cho phù hợp với truyền thống văn hóa của
nhân dân và nhu cầu của đất nước và đã trở thành nhân tố của nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt
Nam. Nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam không thể tách rời nó với truyền thống Việt Nam.
• Nho giáo ở dạng Hán nho được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên, Lý Thiện, Sĩ
Nhiếp.. tích cực truyền bá từ công nguyên. Nhưng Phật giáo đã có ưu thế hơn Nho giáo rất nhiều. Trong khi
Nho giáo chỉ dừng lại ở tầng lớp quan lại xung quanh chính quyền ngoại bang thì Phật giáo đã thâm nhập vào
các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất nước. Có thể nói rằng suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo
chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam.
• Đến thời Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ cho xây cất Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử (1076), mới có
thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính thức. Chính vì vậy mà Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho
(Nhà Lý cùng thời với nhà Tống ở Trung Hoa) chứ không phải Hán Nho, Đường Nho…
• Vào năm 1232 vua Trần đã đặt ra học vị đầu tiên cho thi cử Nho giáo ở nước ta, đó là học vị Thái học
sinh (về sau đổi thành tiến sĩ) và có Chu Văn An đỗ thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường
dạy học, đào tạo được khá đông học trò. Các nhà Nho thời kỳ này ra sức bài xích Phật giáo để khẳng định
chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, đến cuối đời Trần, Nho giáo vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. (Không cứ gì
ở nơi nông thôn, ngay ở chốn triều đình, các tập tục, lề lối của khuôn mẫu Nho giáo cũng rất xa lạ với ta. Một
lần có người đề nghị cải tổ triều đình theo khuôn mẫu Phương Bắc đã bị vua Trần cự tuyệt và nói rằng ta có
cách của ta).
•Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, các nhà Nho, đứng đầu là Nguyễn Trãi, tập hợp dưới ngọn
cờ của Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn. Với sự lớn mạnh của Nho giáo Việt nam, với nhu cầu cải cách
đất nước đã dẫn đến việc triều Lê chủ động đưa Nho giáo thành Quốc giáo; Nho giáo giữ địa vị độc tôn. Từ
đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của các triều đại phong kiến. Nhà Nguyễn lên cầm quyền, địa vị
của Nho giáo một lần nữa khẳng định để rồi tàn lụi dần khi phải đối mặt với sự tấn công của văn hóa phương
Tây.
II - Sự tiếp thu Nho giáo trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt Nam :
Nét độc đáo của văn hoá Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai, nó tiếp nhận từng yếu tố riêng lẻ và Việt
Nam hoá để rồi cấu tạo lại theo cách của mình.
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác những yếu tố là thế
mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước.
Trước hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã học tập rất nhiều ở cách tổ
chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử để chọn người tài bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã
được triều đình phong kiến Việt Nam vận dụng ngay từ đầu thời Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn chỉnh
vào thời Lê. Chữ cổ đã mai một và mất hẳn thì người Việt sử dụng chữ Hán (chữ Nho) làm văn tự chính thức
trong giao dịch hành chính, trên cơ sở chữ Hán, từ cuối thời Bắc thuộc, người Việt đã tạo ra chữ Nôm dùng
trong sáng tác văn chương. Thời Tây Sơn vua Quang Trung đã mở rộng sử dụng chữ Nôm trong lĩnh vực
hành chính và giáo dục.
Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù hợp với truyền thống của văn
hoá dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách hiểu thì đã khác nhiều”.
1. Về chữ Trung và Hiếu:
Trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn giữa Vua và đất nước với dân tộc, thì đất
nước dân tộc luôn là cái quyết định, được đặt lên trên hết. Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người
Việt Nam tiếp thu trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi,
“Trung quân” gắn liền với “Ái quốc”.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nguời con tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, đã kế thừa và phát
huy những giá trị tinh tuý nhất của Nho giáo trong cuộc đời cách mạng của mình, đưa dân tộc đi lên con
đường phát triển mới của thời đại. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới hoàn toàn: Không

3
phải “Trung với Vua” mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với nội dung được mở rộng đến vô cùng đó là
“Hiếu với dân”, chứ không còn hạn hẹp như khái niệm của Nho giáo xưa kia.
Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du” tức là: cha mẹ còn con không được đi xa,và “ Bất
hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”.Tức là: Có ba tội bất hiếu, tội không có con nối dõi là tội nặng nhất.
Chính vì đặt đất nước lên hết, mà một người dòng dõi Nho gia như Hồ Chí Minh dám đi ngược lại giáo
huấn của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân tộc, người tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hẹp của Nho gia,
để ra đi tìm đường cứu nước. Người không lập gia đình để hy sinh tất cả cho đất nước, non sông. Như vậy,
chữ hiếu đã được mở rộng vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp của Nho giáo, hoà với chữ Trung là một,và chữ
Trung cũng mang một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy của Bác đối với quân đội cách mạng.
Trung với Đảng, hiếu với dân
Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành
Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Trung và hiếu hai khái niệm hạn hẹp của Nho gia ngày xưa, nay đã được mở rộng, gắn liền với khái niệm
nhân dân, đất nước. Người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc, vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh của chúng ta vốn xuất
thân từ dòng dõi Nho gia nhưng đã vượt qua khỏi vòng cương toả khắc nghiệt của Nho gia, hiến trọn đời
mình vì nước vì dân, nên trở thành bất tử.
…Người không con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi người là Bác
Cuộc đời Người là của nước non …
2/ Trọng dụng người tài:
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng người hiền tài” .
… “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh
Nguyên khí yếu thì quốc gia suy”…
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay từ những năm sau kháng chiến
chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đãcó một tầm nhìn rộng lớn, đề ra và giải quyết nhiều vấn đề vượt trước
thời đại. Ngưới thấu hiểu vai trò của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất nước.
Ngay từ năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi tuyên bố độc lập 4/10/1945 Người
phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống nạn thất học.
Người khuyên bảo thầy trò ngành giáo dục “Dù khó khăn gian khổ đến đâu, cũng phải tiếp tục thi đua
dạy tốt và học tốt”…
Suốt cuộc đời mình lúc nào Người cũng hết mực chăm lo thế hệ tương lai của đất nước.Trước lúc phải đi
xa, Bác vẫn không quên dặn dò chu đáo trong di chúc của Người:
…Bồi dưỡng cách mạng đời sau là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Đảng phải chăm lo bồi dưỡng
đạo đức cách mạng cho họ để họ trở thành…vừa hồng vừa chuyên…
Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một trong những mục tiêu quan
trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các quỹ học bổng , quỹ khuyến học,
các giải tài năng trẻ…để giúp đở học sinh, sinh viên nghèo hiếu học, và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái,
coi trọng người hiền tài trong xã hội ngày nay.
“ Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó không chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc,từng quốc gia,mà còn luôn luôn mới và đúng
trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ chức,thậm chí đúng cả ở phạm vi gia đình là tế bào của
xã hội.
Một thực tế mà chúng ta đã biết Bình Dương xưa vốn là một tỉnh giàu tìm năng về mọi mặt, nhưng do
cơ chế cũ, nên nghèo nàn lạc hậu chậm phát triển.Từ khi có chủ trương “Chiêu hiền đãi sĩ” “Trãi chiếu hoa
mời gọi đầu tư”đã trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển giàu và mạnh.
3/Chữ Nhân, Lễ ,trí, dũng .
Xin nhắc lại đôi nét về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chử Nhân chính là
lòng thương người, là cách sống đối với mình, đối với người:

4
“Mình muốn lập thân thì cũng giúp cho người khác lập thân; Mình muốn thành đạt thì cũng giúp cho
người thành đạt, những gì mình không muốn thì chớ đem đối xử với người” (kỷ sở bất dục,vật thị ư nhân)…
Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm đắc và nó trở thành truyền
thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta.
Trong xã hội ngày nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống: “Mình vì mọi
người ,mọi người vì mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp
nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá “Ôngbà, cha mẹ mẫu mực con cháu thảo hiền”…Các
nghĩa cử tương thân tương ái trong xã hội như “ Lá lành đùm lá rách”… Đó chính là biểu hiện tốt đẹp của
chữ Nhân trong cả phạm vi rộng và hẹp của xã hội ngày nay.
Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người cai trị phải có đầy đủ các đức tính
như: Nhân, Lễ, Nghĩa,Trí, Tín,Dũng…
Chữ Nhân phải gắn liền với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình để trị nước, muốn đạt được
đức Nhân thì cần phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ.Theo Khổng Tử Lễ chính là những quy phạm, những
nguyên tắc đạo đức của nhà Chu: Vua cho ra vua, tôi cho tôi, cha cho ra cha, con cho ra con…phải dùng lễ
để khôi phục trật tự, phép tắc luân lý xã, khiến mọi người phải trở về đạo và nhân, trở thành chính danh.. Lễ
và Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết không thể tách rời nhau; Nhân là chất, là nội dung là linh hồn của
lễ, lễ là hình thức biểu hiện của Nhân.
Người muốn đạt được đức Nhân, theo Khổng Tử, phải là người có Trí và Dũng.
Nhờ có Trí con người mới sáng suốt,minh mẫn để hiểu biết đạo lý,xét đoán được sự vịêc, phân được
phải trái, thiện ác để trao dồi đạo đức và hành động hợp lý với thiên lý.Nhưng muốn đạt được chữ Nhân,có
trí thôi chưa đủ mà cần phải có dũng,dũng không phải ỷ vào sức mạnh, chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà suy
nghĩ và hành động bất chấp cả đạo lý.Người Nhân có Dũng phải là: “ Người có thể tỏ rõ ý kiến mình một
cách cao minh,có thể hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc,khi người đời gặp phải hoạn
nạn…” Ngưới Nhân có Dũng mới làm chủ được mình,mới quả cảm xả thân vì Nhân Nghĩa mới có thể “Lập
thân” và “ Đạt Nhân”;Khi gặp cơn thiếu thốn,cực khổ không nao núng làm mất nhân cách của mình;khi đầy
đủ, sung túc không ngã nghiêng xa rời đạo lý hơn người Nhân có Dũng sẽ sẵn sàng “Vì Nhân mà sát thân
,chứ không giữ mạng sống của mình mà hại Nhân”.
Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để giáo hóa con người góp phần ổn
định và phát triển xã hội . Nhạc chính trực. trang nghiêm, hoà nhã có tác dụng di dưỡng tính tình cảm hoá
lòng người, hướng tâm người ta tới cái chân, thiện, mỹ do sự ứng cảm trong tâm tư với sự hài hoà của âm
nhạc.
Khổng Tử cho rằng: “Hưng khởi là nhờ thi tạo lập là nhờ lễ, thành đạt là nhờ nhạc…”
Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: Người cai trị, người quân tử phải là người có một vốn
văn hoá toàn diện.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong giáo dục và đào tạo.Trong đạo đức
của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài và Đức, Hồng và Chuyên. Hồ chủ tịch dạy.
... “Người có tài mà không có đức là người vô dụng. Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng
khó”.
Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải được rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ, khi còn ngồi trên
ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt gặp câu khẩu hiệu: “Tiên học lễ hậu học văn” trong các trường học, cùng
với năm điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng
Yêu Tổ quốc yêu đồng bào
Học tập tốt lao động tốt
Đoàn kết tốt kỷ luật tốt
Gữi gìn vệ sinh thật tốt
Khiêm tốn thật thà dũng cảm
Đó chính là nội dung giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ Việt Nam
Đối với người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở thành con người toàn diện phải thực
sự gương mẫu về mọi mặt. Hồ chủ Tịch dạy phải cần kiệm liêm chính, phải chí công vô tư, xứng đáng là đầy
tớ trung thành của nhân dân.
4-Tư tưởng Nhân chính, Bảo dân.

5
Mạnh Tử là người kế thừa chính thống học thuyết của Khổng Tử. Trên cơ sở học thuyết về “tính thiện’’
và “Nhân trị” của Khổng Tử, Ông đề ra tư tưởng “Nhân chính” trong phương pháp trị nước. Đặc biệt Ông có
quan niệm mới mẻ và hết sức sâu sắc về vấn đề dân quyền:
… “Dân di quý, xã tắc thứ chi quân vi khinh”
Vì theo Ông, có dân mới có nước, có nước mới có vua thậm chí dân quan trọng hơn vua.Nếu không có
sự ủng hộ của dân, thì chế độ sớm muộn sẽ sụp đổ; Vua nếu không hợp lòng dân và ý trời, thì trước sau cũng
sẽ bị phế bỏ…
Mạnh Tử cũng chủ trương một chế độ “Bảo dân’’ người cai trị phải lo cái lo của dân,vui cái vui của
dân,tạo cho dân của cải ruộng đất, sản nghiệp và cuộc sống bình yên no đủ.Việc vua Nghiêu,Vua Thuấn
được thiên hạ là do được lòng dân. Còn Vua Kiệt,Vua Trụ mất thiên hạ là do mất lòng dân.
Học thuyết về chính trị, xã hội với tư tưởng nhân chính, bảo dân có ý nghĩa tiến bộ phù hợp với yêu cầu
và xu thế phát triển của lực lượng xã hội. Chính vì vậy một số học giả coi Mạnh Tử là người có tư tưởng dân
chủ.
Từ mấy trăm năm trước, Nguyễn Trãi cũng từng nói :
… “ Lật thuyền mới biết dân như nước”
Cách đây vài mươi năm, đồng chí Trường Chinh một trong những vị lãnh đạo cao cấp của Đảng cũng đã
chỉ ra rằng phải lấy dân làm gốc trong sự nghiệp đổi mới…
5- Thuyết chính danh
Thuyết chính danh xưa của Nho gia, nếu xét theo những khía cạnh tiến bộ và tích cực của nó vẫn hết sức
cần thiết trong xã hội hiện nay
Theo Khổng Tử xã hội loạn lạc do Danh –Thực rối loạn,dẫn đến xã hội xa rời đạo lý và nhân nghĩa.Ông
chủ trương phải giáo hoá đạo đức và thực hiện chủ nghĩa “ chính danh,định phận’’, vì mọi người, mỗi vật
sinh ra đều có địa vị, công dung nhất định, ứng với một tên gọi nhất định
… “Chính danh là làm việc cho ngay thẳng”
… “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy;
Trên dưới, vua tôi cha con, trật tự phân minh”
… “Danh không chính thì ngôn không thuận;
… Ngôn không thuận thì việc không thành”
Vì vậy từ cán bộ lãnh đạo cho đến thứ dân,người nào cũng phải trọn trách nhiệm của người ấy,cho đúng
với danh vị và chức phận của mình
Nếu mọi người trong xã hội chúng ta ngày nay đều xứng đáng,đều tuân thủ đúng với danh vị và chức
phận của mình thì xã hội tất sẽ không rối loạn không có nạn tham nhũng,hối lộ, tham ô và không có những tệ
nạn tiêu cực, xấu xa hủ bại.
Biết bao thế hệ thầy và trò đã trưởng thành,đã đóng góp tài năng,trí lực,và cả xương máu của mình vào
thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Ngành giáo dục thực sự đã có công rất lớn trong
việc đào tạo ra những thế hệ xứng đáng với dân tộc chúng ta.
Khi chiến tranh chấm dứt đã được khá lâu ,chuyện trường và lớp vẫn chưa được biến đổi nhiều. Đó là do
hậu quả của chiến tranh,và còn rất nhiều nguyên nhân quan trọng khác.Nhưng có điều đáng nói là ở chổ ;chữ
Tài và chữ Đức trong trường học và trong nhiều lãnh vực…gây nhiều mối lo ngại cho các bậc phụ huynh và
cho toàn xã hội. Việc học sinh bỏ học,vô lễ,thậm chí phạm pháp…gần như diễn ra ở rất nhiều nơi…Chữ Lễ
đã mất đi giá trị đích thực của nó. Do những chuyện tiêu cực trong việc dạy và học còn tồn tại khá nhiều,
cho nên dẫn đến việc trò chưa đạt chất lựơng.Thầy chưa đạt chuẩn hoá. Đã có một thời gian dài việc giáo dục
và rèn luyện đạo đức cho học sinh là vấn đề hàng đầu mà ngành giáo dục phải quan tâm.
Trong những năm gần đây,vai trò và vị trí của giáo dục đã nhìn nhận đúng với vị trí đích thực của nó,
giáo dục trở thành quốc sách, được Đảng và nhà nuớc và toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Sự biến đổi về
trường và lớp là điều dễ nhận thấy nhất: Những ngôi trường già nua,những lớp học giột nát…dần đã biến
mất,hàng loạt các ngôi trường cao tầng khang trang, sạch đẹp với những tiện nghi đầy đủ,hiện đại đạt chuẩn
quốc gia đã mọc lên hầu hết khắp các địa phương trong cả nước. Ai cũng sung sướng và yên tâm khi nhìn
thấy con em mình được học tập trong những điều kiện thuận lợi. Như vậy vấn đề trừơng cho ra trường,lớp
cho ra lớp là yêu cầu đã đang và sẽ trở thành hiện thực.Việc còn lại phải làm sao để “Thầy cho ra thầy, trò
cho ra trò” Việc chuẩn hoá đội ngũ giáo viên, việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập để biến quá

6
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo…trong tất cả các ngành học, cấp học…tuy khó khăn và gian khổ
nhưng sẽ dần giải quyết được vấn đề chất lượng.
Trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho giáo đã bộc lộ những nét tương
đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho giáo ở Việt Nam không còn trạng thái nguyên sơ
của nó nữa.
° Những điểm tương đồng đã được chú trọng phát huy :
a. nét tương đồng lớn nhất là sự trọng tình người. Vì trọng tình người vốn là truyền thống lâu đời của nền
văn hóa Việt Nam, cho nên khi tiếp nhận Nho giáo, người Việt Nam tâm đắc với chữ “Nhân” hơn cả. Nhưng
ở đây là lòng thương người “Tấm lòng đã thấu trời xanh. Bán mình là hiếu, cứu người là nhân” (Truyện Kiều
– Nguyễn Du). Nhân nghĩa trong Nho giáo là tình cảm, nghĩa vụ của bầy tôi đối với nhà Vua, của con đối với
cha, của vợ đối với chồng, nhưng ở Nguyễn Trãi và các nhà trí thức Việt Nam thì “Điều cốt yếu ở nhân nghĩa
là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình và đạo quân chính nghĩa nhằm tiêu diệt những quân tàn
bạo” (Bình Ngô Đại Cáo). Đối với người bình dân, “Nhân” còn đồng nghĩa với “Tình” các từ nhân tình, nhân
ngãi, nhân duyên trong tiếng Việt là nói về tình yêu trai gái.
b. Nét tương đồng lớn thứ hai là xu hướng ưa ổn định : Truyền thống văn hóa nông nghiệp luôn chỉ
muốn có cuộc sống ổn định. Mục đích của Nho giáo nguyên thủy là tạo ra một xã hội ổn định. Tuy nhiên, ở
Trung Hoa, các triều đại phong kiến chỉ dùng Nho giáo để giữ Ngai vàng, còn đối ngoại luôn bành trướng,
xâm lăng. Ở Việt Nam, nhu cầu duy trì ổn định không chỉ có ở dân mà ở cả Triều đình, không chỉ ở đối nội
mà ở cả đối ngoại. Các cuộc chiến tranh mà người Việt Nam từng thực hiện đều mang tính tự vệ.
c. Nét tương đồng thứ ba là xu hướng trọng văn : Trọng văn là truyền thống văn hóa nông nghiệp Việt
Nam. Nho giáo cũng rất trọng vẻ sỹ, trọng văn, trọng văn hóa. Xã hội Trung Hoa sau thời đại nhà hán có
trọng văn, nhưng nhìn chung cũng chỉ ngang hàng quan võ. Còn ở Việt Nam thì trọng văn hơn cả võ. Việt
Nam chiến tranh liên miên, thế nhưng người Việt ít ai biết đến các kỳ thi võ mà chỉ lo nấu sử sôi kinh. Nhà
cầm quyền Việt Nam nhìn thấy ở Nho giáo một công cụ cai trị, còn người bình dân thì thấy ở Nho giáo một
công cụ văn hóa, một con đường làm nên nghề nghiệp lớn :”Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham vì cái bút cái
nghiêng anh đồ”.
° Những luận điểm của Nho giáo được Việt Nam vận dụng khai thác :
a. Nhà nước quân chủ Việt Nam, đặc biệt là triều Lê và triều Nguyễn đã học tập rất nhiều cách tổ chức
triều đình và hệ thống pháp luật triều đình Nho giáo Trung Hoa. (Nhà Vua tập trung trong tay mình quyền uy
tuyệt đối và bộ máy quan liêu do nhà Vua sắp xếp từ trung ương đến địa phương. Trong chế độ cống nạp,
Nhà nước là kẻ hưởng đại bộ phận thặng dư lao động của cả nước, giới quan lại, do đó cũng trở nên giàu có
và có thế mạnh nhất trong xã hội. Làm quan là địa vị nhiều người mơ ước, chế độ quan liêu ấy ngày một thối
nát, đã thực tế kìm hãm sự phát triển về mọi mặt của xã hội Việt Nam.
b. Hệ thống thi cử của Nho giáo đã được nhà nước phong kiến vận dụng ngay từ đầu triều Lý. Từ kỳ thi
đầu tiên năm 1075.
c. Người Việt Nam cũng đã sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức trong giao dịch. Trong tâm thức
người Việt Nam, chữ Hán và Nho giáo không tách rời nhau, chữ Hán được coi là cái thiêng liêng nhất “chữ
Thánh hiền”. Trên cơ sở chữ Hán người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm dùng trong sáng tác văn chương.
° Những tư tưởng Việt Nam đã bổ sung, phát triển vào Nho giáo :
Ở Nho giáo, tư tưởng trung quân đóng vai trò quan trọng, còn tư tưởng yêu nước thì không được đề cập
đến. Trong khi đó thì ở Việt Nam tinh thần yêu nước Và tinh thần dân tộc, là truyền thống rất mạnh. Người
Việt Nam tiếp thu tư tưởng trung quân Nho giáo trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có,
khiến có cái trung quân bị biến đổi. Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa Vua với đất nước, thì đất nước, dân tộc là
cái quyết định. Lê Hoàn thay nhà Đinh; Lý Công Uẩn thay nhà Lý … Khi triều đại cũ không còn đủ năng lực
để lãnh đạo đất nước. Nên đều được quân dân ủng hộ. Nguyễn Trãi theo Lê Lợi và không theo con cháu nhà
Trần, Ngô Thời Nhậm theo Tây Sơn mà không theo nhà Lê; các nhà Nho yêu nước cuối thế kỷ XIV từ
Trương Định trở đi không theo triều đình nhà Nguyễn đầu hàng giặc, mà tiến hành khởi nghĩa chống giặc (và
chống triều đình) đều vì đặt nước trên Vua.
Truyền thống dân chủ của văn hóa nông nghiệp ở nước ta đã làm “mềm” đi sự độc tài hà khắc của nhà
nước Hán Nho. (Thật sự Nho giáo nguyên thủy cũng có yếu tố dân chủ, nhưng đến Hán Nho đã bị loại trừ
hẳn.

7
Tâm lý khinh rẻ nghề buôn là sản phẩm truyền thống của văn hóa nông nghiệp, của tính cộng đồng và
tính tự trị. Nó đã bám rễ vào mọi người, khiến cho nghề buôn trong lịch sử Việt Nam không thể phát triển
được, nó còn được khái quát thành đường lối trọng nông ức thương (trong Nho giáo cũng có tư tưởng xem
nhẹ nghề buôn, nhưng đó chỉ là sản phẩm của quan điểm coi trọng “đạo” và “đạo đức”. Thật ra Khổng Tử
cũng khuyến khích làm giàu nếu không trái lễ. Mạnh Tử cũng đã từng bàn đến các vấn đề trao đổi hàng hóa,
giá cả, chính sách thu thuế chợ, đường … Chính vì vậy mà ở Trung Hoa, Nho giáo không hề cản trở nghề
buôn phát triển), “truyền thống” này, kết hợp với Nho giáo khiến cho Việt Nam nông nghiệp âm tính vốn đã
thiên về ổn định, lại càng thêm trì trệ. Đến nay, ta hầu như dứt bỏ được quan niệm khinh rẻ nghề thương
nghiệp, nhưng để dứt bỏ hết những hậu quả của nó còn cần phải có thời gian.
III - Nho giáo trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở việt nam ngày nay.
1- Nho giáo trong giai đoạn cách mạng đã qua :
Cách mạng Tháng tám là một cuộc cách mạng triệt để đã lật đổ chế độ phong kiến kéo dài hàng ngàn
năm và chế độ thực dân thống trị gần một thế kỷ. Cách mạng Tháng Tám đã đối xử với Nho giáo như thế nào
?
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình Nho giáo yêu nước, sống giữa một quê hương đã bao
đời theo Nho học, từng chứng kiến những tinh thần yêu nước và chống giặc đầy nhiệt tình và khí phách của
nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chứng kiến sự bất lực của Nho giáo trước sự tấn công của chủ
nghĩa Đế quốc và đã vượt qua Nho giáo để đi tìm đường cứu nước. Sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với chủ nghĩa Marx sáng tạo cũng là sự phủ định đối với Nho giáo giáo điều. Sự phủ định này thể hiện
tính khoa học trong sự gạt bỏ và giữ lại đối với di sản của quá khứ. Người đã cương quyết gạt bỏ cái cốt lõi
lạc hậu của Nho giáo để rồi sau đó giữ gìn và phát huy những nhân tố hợp lý của Nho giáo. Trên tinh thần
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lật ngược học thuyết Nho giáo như trước nay K.Marx đã lật ngược học thuyết
của Hegel.
Ở Nho giáo, Vua là bậc chí tôn đứng trên đầu của xã hội còn nhân dân là tầng lớp thấp kém đáng khinh
rẻ và cần được “Chăn dắt”. Cách mạng thắng lợi đã làm lật ngược lại, lật đổ tầng lớp vua chúa và đưa quần
chúng nhân dân lên địa vị người chủ đất nước.
• Chính Nho giáo (nguyên thủy) đã coi “nhân dân là gốc”. Nhưng điều quan trọng nhất đối với nhân
dân là quyền dân chủ, quyền bình đẳng của xã hội, quyền tự do của mỗi người thì Nho giáo lại không thừa
nhận, không coi nhân dân là lực lượng chính làm nên lịch sử. Cách mạng đã đặt lại vị trí của nhân dân trong
sự nghiệp cách mạng, đem lại cho nhân dân những quyền lợi cơ bản, xây dựng được khối đoàn kết toàn dân,
nhân dân trở thành sức mạnh vô địch chiến thắng những kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của thế kỷ.
• Nho giáo với tinh thần “Trọng nam khinh nữ”, trói buộc người phụ nữ trong bếp núc gia đình, gạt
bỏ phụ nữ khỏi công việc chung của xã hội Cách mạng đã xóa bỏ tư tưởng lạc hậu đó, mở cửa cho người phụ
nữ ra xã hội cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất nước.
• Nho giáo luôn hoài niệm về quá khứ, đời nay không bằng đời xưa, người ít tuổi không bằng người
nhiều tuổi. Cách mạng thì ngược lại, luôn luôn nhìn về phía trước, đặt niềm tin vào thanh niên và là tiền đồ
của dân tộc.
• Cách mạng luôn coi trọng truyền thống dân tộc. Với tinh thần đó, cách mạng không xóa bỏ toàn bộ
nội dung của Nho giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ Nho của Nho giáo, nhiều kinh
nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để
giáo dục cán bộ, động viên nhân dân tự giác tham gia chiến đấu giành độc lập tự do với một khí phách kiên
cường, mưu trí và sáng tạo.
• Nho giáo đặt sự tu dưỡng đạo đức lên hàng đầu. Trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng coi “Đạo đức là gốc”. Người nói : “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa”. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang”. Người lấy câu nói
của Mạnh Tử để nêu lên khí phách của người chiến sĩ cách mạng. “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”. (Lời ra mắt Đảng lao động Việt Nam, 1951), “Phú quý
bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” – (Thiên đằng văn Công – Hạ). Cách mạng đòi hỏi
mọi người luôn rèn luyện đạo đức, thường xuyên phê bình và tự phê bình.
2- Nho giáo trong giai đoạn cách mạng hiện nay :

8
• Sau hai cuộc kháng chiến, nhân dân ta giành được độc lập và thống nhất. Tổ quốc bước vào thời kỳ
mới. Nho giáo vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều bài học cả về chính diện và phản
diện. Nho giáo nhiều lúc nêu lại lời hay ý đẹp như đổ thêm dầu vào lửa tạo thuận lợi cho cỗ xe cách mạng
tiến về phía trước, nhưng lại có trường hợp Nho giáo thọc gậy vào bánh xe. Không thể phủ nhận di sản của
Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong đầu óc người Việt Nam hôm nay, mặc dù ít ai nghĩ rằng ý nghĩa và việc
làm của mình lại chính là Nho giáo.
Ngày nay, đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường phát triển tất yếu của
cách mạng Việt Nam. Do trình độ lực lượng sản xuất rất thấp lại tồn đọng nhiều tàn dư quan hệ xã hội, ý
thức tư tưởng, tâm lý của chế độ thực dân, phong kiến cũ để lại đã tạo ra những khó khăn trở ngại trong bước
chuyển tiếp lịch sử từ một xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại. Để chuẩn bị tiền đề kinh tế trong
thời gian quá độ cần có sự phát triển nhất định nhân tố tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ này, Đảng ta chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Bên cạnh những thành tích phấn khởi đã đạt được, trong cán bộ và nhân dân lại có những biểu hiện
tiêu cực ở trong cả nhận thức, tình cảm và hành động. Tư tưởng thực dụng chạy theo đồng tiền làm cho một
số bộ phận xa rời lý tưởng, suy thoái về phẩm chất đạo đức. Nạn tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính
và nhiều tệ nạn xã hội khác đang phát triển nghiêm trọng.
Trong chủ trương biện pháp nhằm khắc phục những tình trạng nói trên, không thể không đụng chạm đến
khá nhiều vấn đề của Nho giáo.
• Nho giáo và tính bảo thủ của nó ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, thể hiện nghiêm trọng ở : Chủ nghĩa
quan liêu trong giới cầm quyền, chủ nghĩa bình quân trong nông dân, chủ nghĩa giáo điều trong giới trí thức.
Việc khắc phục những bệnh này, cần phải có thời gian và những biện pháp tích cực.
• Trong mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa. Nho giáo khẳng định vai trò nhân nghĩa trong cuộc
sống con người. Khổng Tử nói : “Thà ăn cơm thừa, uống nước lã, có cánh tay gối đầu mà lấy làm vui, chứ
không do bất nghĩa mà được giàu sang, thì sự giàu sang ấy coi như đám mây nổi”, (Luân ngữ – Thuật nhi -5).
Sau khi đã khẳng định vai trò nhân nghĩa trong cuộc sống con người. Khổng Tử cổ vũ việc làm giàu khi nước
có “Đạo”, nghĩa là được phát triển lành mạnh có thể làm giàu một cách chính đáng, không làm giàu được
cũng là một điều đáng xấu hổ. Cách mạng ngày nay cũng khẳng định và vận động nhân dân làm giàu, dân có
giàu thì nước mới mạnh, nhưng phải làm giàu một cách chính đáng và phải biết kết hợp giữa quyền lợi cá
nhân phù hợp với quyền lợi của tập thể, của Tổ quốc. Kinh tế phát triển mà vẫn giữ được truyền thống đạo
đức của dân tộc là yêu cầu tất yếu.
• Nho giáo nhấn mạnh sản xuất đi đôi với tiết kiệm. Khổng Tử nói : “Đạo lớn làm ra của cải là : số
người làm việc sinh lợi ngày càng nhiều, số ăn tiêu phung phí ngày càng ít, số người làm ra của cải phải mau
mắn, siêng năng, những người tiêu dùng phải thư thả từ từ. Như vậy của cải luôn luôn đủ”. (Đại học – 10).
Ngày nay, Đảng và Nhà nước khẳng định tiết kiệm là quốc sách, tiết kiệm trong nhân dân, trong bộ máy nhà
nước, trong các xí nghiệp.
Qua phân tích ta thấy, những tư tưởng Khổng Mạnh trên đây, nếu chúng ta biết khai thác và vận dụng
hợp lý trong sự nghiệp đổi mới của đất nước thì nhất định chúng ta có thể đưa văn hóa vào kinh doanh và
hướng kinh doanh không chỉ vào việc tăng trưởng kinh tế mà còn xây dựng một xã hội có văn hóa.
• Nho giáo trong gia đình : Nho giáo coi : “Gốc của nước là nhà”, bởi vậy muốn trị nước phải yên
nhà. Bậc quân tử trước hết phải “tu thân”, “tề gia” rồi mới “trị nước” và “bình thiên hạ”. Nho giáo xây dựng
mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình. “Cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ,
thế là đạo gia chính” trong các mối quan hệ đó được tiêu biểu bằng hai chữ “hiếu” và “để”. Theo đó chữ hiếu
là “nết đầu trong trăm nết”, chữ hiếu được đề cập đến một cách sâu sắc, đầy đủ và cụ thể. “Hiếu chẳng những
phải nuôi nấng, phụng dưỡng cha mẹ mà còn phải kính trọng và giữ gìn thanh danh cho gia tộc. Đề cao vai
trò của gia đình, vì thế rất coi trọng việc giáo dục trong gia đình. Nho giáo khẳng định rằng sự giáo dục từ
trong gia đình có tác động mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong việc trị nước. Thậm chí chỉ cần
mọi người đều yêu thương cha mẹ, bà con mình, kính trọng trưởng thượng của mình. Tự nhiên thiên hạ sẽ
được thái bình”(Mạnh Tử – Ly Lâu – Thượng -11). Nho giáo nguyên thủy đề ra bổn phận về cả hai bên của
các mối quan hệ trong gia đình : phụ từ, tử hiếu, … Những điều trên là những nhân tố hợp lý cần phát huy
trong việc xây dựng gia đình văn hóa mới hiện nay.

9
Trong vấn đề gia đình, Nho giáo có những kiến giải hợp lý, nhưng cũng có không ít tiêu cực, gây tác hại
không nhỏ trước đây và còn để lại hậu quả cho đến ngày hôm nay. Trên thực tế, Nho giáo tuyệt đối hóa
quyền của nhà Vua trong xã hội và của người cha trong gia đình, cha không từ, nhưng con không thể không
hiếu. Xuất phát từ quan điểm huyết thống và từ thái độ coi rẻ phụ nữ, Nho giáo đặt tình nghĩa anh em cao
hơn tình nghĩa vợ chồng, phụ nữ là người phải hứng chịu nhiều nhất những đau khổ, thiệt thòi do chế độ hà
khắc, bất công và bất bình đẳng trong xã hội, trong gia đình gây nên. Theo đạo lý về “tiết hạnh”, người đàn
ông có thể năm thê bảy thiếp nhưng đàn bà thì không được lấy hai chồng, cũng ví như bậc trung thần không
thể thờ hai vua, kể cả những bà góa, nghèo đói không nơi nương tựa nhưng cũng không được đi bước nữa.
Ngày nay, pháp luật ta đòi hỏi chế độ một vợ một chồng, nêu lên trách nhiệm của hai phía trong các mối
quan hệ trong gia đình. Mọi thành viên trong gia đình đều phải được tôn trọng và tôn trọng lẫn nhau, mỗi
thành viên đều có tính độc lập tương đối trong công việc của mình. Tuy nhiên, không thể chấp nhận sự tự do
tùy tiện theo ý muốn riêng của mỗi người, vì như thế gia đình không thể tồn tại được mà cần có sự hội ý và
nhất trí trong tập thể gia đình dưới sự điều hành dân chủ của một người chủ chốt trong gia đình, thường là
người chồng, người cha. Như vậy, cần phải xóa bỏ sự độc đoán của người cha, đồng thời giao cho người cha
trách nhiệm về hạnh phúc gia đình, đó cũng là một truyền thống của dân tộc ta. Ngoài ra, mọi thành viên
trong gia đình cũng phải đặt lợi ích của gia đình mình phù hợp với lợi ích của xã hội, của Tổ quốc. Tránh chủ
nghĩa gia đình căn bệnh đó bám rễ sâu trong xã hội cũ. Ngoài ra, thanh niên trong gia đình khi đã trưởng
thành cần phải có sự tự do để tự khẳng định mình đứng lên gánh vác sứ mạng của mình đối với gia đình và
Tổ quốc.
• Vai trò quan trọng của lễ : Đối với Nho giáo “Lễ” có vai trò đặc biệt quan trọng. Lễ là toàn bộ các quy
tắc ứng xử lớn nhỏ mà mọi người nhất thiết phải tuân theo, “Lễ” là hình thức biểu hiện, rèn luyện và giữ gìn
đạo đức của người quân tử, “Lễ” là một phương thức giáo dục hiệu quả, tạo ra sợi dây vô hình ràng buộc
nhân dân vào chế độ Phong kiến Phương Đông. Có thể nói “lễ” là cơ sở pháp luật của Nho giáo. Cho nên,
khẩu hiệu của Nho giáo trong giáo dục là “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Trong những năm gần đây, nhà trường đã phục hồi khẩu hiệu đó. Điều này cho thấy ta đã bắt đầu thấy lại
vai trò của “Lễ” trong đời sống xã hội, trong công cuộc xây dựng xã hội mới của nước ta ngày nay.
3. Những tác hại chính yếu của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam
Bên cạnh những “đóng góp” mà tác dụng chủ yếu là làm cho văn hóa tinh thần của Việt Nam thời trung
đại bị Hán hóa một phần đáng kể, Nho giáo đã trực tiếp và gián tiếp gây hại cho nền văn hóa truyền thống
của Việt Nam. Những tác hại này không chỉ xảy ra trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, mà cả văn hóa vật chất
của đất nước Việt Nam.
Trước hết là những tác hại trong lĩnh vực giáo dục. Trong thời Minh thuộc (1407 - 1428), giặc Minh xóa
bỏ nền độc lập của Đại Việt, hủy diệt triệt để tất cả các di sản văn hóa của các triều đại Lý - Trần, áp đặt nền
giáo dục Tống nho cho nho sinh, nho sĩ Đại Việt. Lý do là vào đầu thế kỷ XV, các nho gia đời Minh chưa
xuất hiện, di sản được tôn sùng nhất của Nho giáo đương thời là Tống nho, với các đại biểu lớn như Chu Đôn
Di, Trương Tái, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hi... Sau khi Lê Thái Tổ giành lại độc lập, di sản văn hóa Lý -
Trần chỉ còn là mảnh vụn, nên việc giáo dục của triều Hậu Lê cũng phải dùng tài liệu của Tống nho. Nhà
Nguyễn lên ngôi, tìm thấy ở Tống nho những luận điểm có lợi cho mình, nên cũng độc tôn Tống nho trong
giáo dục, truyền dạy cho người học các sách của Tống nho (như Tam Tự Kinh, Minh Đạo gia huấn Tứ Thư,
Ngũ Kinh... Nội dung tổng quát của nền giáo dục đó là lấy những tri thức xã hội và phương châm xử thế của
hàng trăm, hàng nghìn năm trước và của một nền văn hóa khác, để làm khuôn vàng thước ngọc cho tư tưởng
và cách hành xử của con người Việt Nam, bất kể những khác biệt của văn hóa tộc người và những chuyển
biến của thời đại. Nội dung giáo dục như vậy thậm chí còn thua cả thời Khổng Tử đào tạo học trò, với những
tri thức của lục kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu) và những kỹ năng của lục nghệ (lễ, nhạc, ngự, xạ,
thư, số). Phương pháp học tập thì theo lối huấn hỗ (giải nghĩa kinh sách), từ chương (sáng tác thơ phú, tầm
chương trích cú). Đó là một cái học vừa giáo điều, vừa phù phiếm, chủ yếu giúp làm dáng trí thức, còn hầu
như vô dụng đối với xã hội nhân quần.
Theo Trần Trọng Kim: “Trong đời nhà Lý và nhà Trần, thì sự học của ta theo lối huấn - hỗ của Hán -
nho và Đường - nho, rồi từ đời nhà Lê về sau, thì theo lối học của Tống - nho, lấy Trình Chu làm tiêu -
chuẩn. Ta chỉ quanh quẩn ở trong cái phạm - vi hai lối học ấy, chứ không thoát - ly được mà sang - lập ra cái
học - thuyết nào khác”; “Từ đời nhà Lê về sau, trải qua nhà Mạc, nhà Hậu - Lê trung - hưng và nhà Nguyễn,

10
sự nho - học ở Việt - Nam tuy thật là thịnh, nhưng học - giả trong nước thường có cái sở đoản rất lớn, là phần
nhiều chỉ học lối khoa - cử, vụ lấy văn - chương để cầu sự đỗ đạt, chứ không có mấy người học đến chỗ uyên
- thâm của Nho - giáo, để tìm thấy cái đạo - lý cao - xa, hoặc là đề - xướng lên cái học - thuyết nào thật có giá
- trị như các nho - giả bên Tàu. Đó thật là chỗ kém của học - giả nước ta”.
Theo Đào Duy Anh: “Luận về sĩ phong đời Lê, Quế Đường (Lê Quí Đôn) đại khái nói rằng: “Quốc gia
khôi phục thừa sau khi nhiễu nhương thì nhà nho vắng vẻ; đến đời Hồng Đức mở rộng khoa mục thì kẻ sĩ xô
về hư văn; đời Đoan Khánh trở đi thì sĩ tập suy bại quá lắm”. Vua Minh Mệnh từng nói về việc học cử
nghiệp rằng: “Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà
nay những người làm văn cử nghiệp chỉ câu nệ hủ sáo, khoe khoang lẫn nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân
phẩm cao hay thấp do tự đó. Học như thế thì trách nào nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi”. Nay ta cứ xem
mấy lời ấy cũng đủ tưởng tượng được tình trạng suy đốn của nho ở đời Lê, Nguyễn. Ở thời đại nho học độc
tôn mà nho học lại ở vào cảnh huống hư hèn như vậy, nguyên nhân chủ yếu chỉ vì chế độ khoa cử và học
thuyết Tống nho làm cho nó mất hết sinh khí mà phải còi lần”.
Việc đào tạo con người sai lầm từ gốc như vậy, nên bộ máy quan lại là sản phẩm của hệ thống giáo dục
đó phần lớn đều là những kẻ bán thân bất toại. Các tân quan được tuyển bổ qua khoa cử chẳng phải làm gì
khác ngoài việc ký duyệt các văn bản hành chính do bộ máy thư lại chuyên nghiệp kiểm soát và chuẩn bị.
Việc các quan được thăng chức, hay giáng chức, cách chức, điều chuyển, không ảnh hưởng gì đến nền hành
chính ở các địa phương và các bộ, vì đã có bộ máy thư lại thường trực chăm lo. Còn ở triều đình, việc triều
chính đã có nhà vua và các đại thần làm chủ. Đó là thực chất và mặt trái của cái gọi là thành tích đào tạo và
tuyển dụng quan lại của Nho giáo mà những người sính Nho thường nói. Trong lịch sử giáo dục thời phong
kiến ở Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam là ba địa phương nổi tiếng về truyền thống học hành, đỗ đạt.
Nghệ Tĩnh là một vùng đất địa linh nhân kiệt và nổi tiếng hiếu học, sản sinh nhiều anh hùng dân tộc và trong
lịch sử là nơi chuyên cung cấp những “ông đồ Nghệ” cho các vùng miền khác. Quảng Bình nổi tiếng với
“Bát danh hương” (Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ - Cổ - Kim), có nhiều danh nhân học rộng đỗ cao.
Quảng Nam nổi tiếng là vùng đất “ngũ phụng tề phi”, sản sinh ra nhiều hiền tài cho đất nước. Tuy nhiên,
“truyền thống hiếu học” đó là chỉ sản xuất ra những nho sĩ và quan lại giỏi từ chương thơ phú, chẳng có ích
gì cho quốc kế dân sinh. Một số người trong số họ sở dĩ làm được những việc ích quốc lợi quần (như Nguyễn
Công Trứ, người Hà Tĩnh, một nho tướng từng cầm quân đánh nam dẹp bắc, lại chỉ huy công cuộc khai
hoang lấn biển ở Kim Sơn, Tiền Hải,...) là nhờ những dưỡng chất văn hóa mà nền giáo dục khoa cử, từ
chương không cung cấp.
Về chính trị, tư tưởng trung quân của Nho giáo khiến cho nhiều nho thần, nho sĩ Đại Việt đều dốc sức
bảo vệ ngai vàng, khôi phục ngai vàng cho những dòng vua, những ông vua ăn hại, bù nhìn. Thay vì làm cho
non sông nhất thống, họ lại làm cho chính sự suy đồi, đất nước loạn lạc, dân chúng lầm than. Nhà Mạc giết
vua cướp ngôi, sau khi mất nước lại dấy binh làm loạn, vẫn được nhiều người tôn phò để tái lập vương triều
ở Cao Bằng. Nguyễn Kim lập Lê Duy Ninh, một gã lang thang bất tài vô tướng, làm vua Lê Trang Tông để
tái lập nhà Lê, chỉ vì y là con cháu nhà Lê. Trịnh Tùng và con cháu giết hại các vua Lê, nhưng không chính
thức cướp ngôi, không phải vì sợ cái uy tín đã tiêu mòn của các vua Lê, mà vì tư tưởng trung quân sâu nặng
trong xã hội Đàng Ngoài. Nguyễn Gia Long thống nhất đất nước, chấm dứt chiến tranh, nhiều người vẫn
nhân danh khôi phục nhà Lê để khởi binh chống lại, gây loạn lạc kéo dài trên đất Bắc. Tệ hại hơn nữa, những
kẻ ngu trung hoặc lợi dụng chữ trung còn vứt bỏ cả liêm sỉ, lòng tự hào dân tộc, để làm tay sai cho giặc, mãi
quốc cầu vinh. Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà”, vẫn được các cựu thần, hoàng tộc tôn phò. Đồng
Khánh, Khải Định, Bảo Đại là những vua bù nhìn, nhưng vẫn được triều thần phò tá, trung thành, dẫu biết
rằng trung quân như vậy thực chất là trung thành với Pháp. Thời trước, những châm ngôn như: “Quân sử
thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu” là châm ngôn cửa miệng của nhà nho.
Bao nhiêu đạo và đức mà bậc chính nhân quân tử cần phải có, chung quy lại đều không qua được cái đạo
trung quân vô điều kiện.
Về kinh tế, sự độc tôn Nho giáo đã kiềm hãm kinh tế Việt Nam, làm suy yếu các nguồn nội lực, là một
trong những nguyên nhân làm cho Việt Nam mất nước. Do ý thức hệ Nho giáo, một số nghề nghiệp trong xã
hội Việt Nam đã bị coi khinh, mặc dù cần thiết, có ích cho cuộc sống của con người như nghề xướng ca,
nghề thương mại... Những người theo nghề xướng ca chuyên nghiệp (tuồng, chèo, ca trù, hát bội) thì bị khinh
miệt với câu ngạn ngữ “xướng ca vô loại”, có nghĩa là nghề xướng ca không thuộc loại nào cả, không có chỗ

11
trong bốn loại “tứ dân” (sĩ - nông - công - thương), theo quan điểm nhà nho. Những người theo nghề thương
mại chuyên nghiệp cũng bị coi khinh, vì trong “tứ dân”, thương nhân là mạt hạng. Vì thế mới có câu chuyện
Đào Duy Từ, một nhà nho xuất thân gia đình con hát nên bị cấm thi, phải vào Đàng Trong tìm đường lập
nghiệp, trách chúa Nguyễn lo việc buôn bán (việc của con buôn) và khuyên nhà chúa chỉ chuyên lo quốc sự
cho xứng với bậc minh quân thánh chúa. Tuy vậy, thời Nam Bắc phân tranh, do nhu cầu tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài, các chính quyền Đàng Ngoài và Đàng Trong đều thi hành chính sách mở cửa giao thương,
hình thành cảng thị như Phố Hiến, Hội An, Nông Nại đại phố, Mỹ Tho đại phố, Sài Gòn, Hà Tiên. Bước sang
thời nhà Nguyễn, khi đất nước thống nhất, ý thức hệ Nho giáo hoàn toàn thắng thế, chính sách “trọng nông
ức thương”, “bế quan tỏa cảng” trở thành một thứ quốc sách, kìm hãm đất nước trong vòng lạc hậu đói
nghèo, là một trong những nguyên nhân dẫn đến mất nước về tay Pháp.
Về xã hội, quan điểm bất bình đẳng của Nho giáo đã chà đạp phụ nữ Việt Nam xuống đất đen. “Đạo”
mà Nho giáo dành cho người phụ nữ là đạo tam tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
“Đức” mà Nho giáo dạy cho phụ nữ là tứ đức: “Công, dung, ngôn, hạnh”. Tất cả là để cho người phụ nữ làm
tròn chức trách phục vụ đàn ông. Đã thế, nền giáo dục và khoa cử theo Nho giáo cũng chỉ dành cho nam giới;
gần 100% phụ nữ Việt Nam bị gạt ra ngoài, chỉ được thụ hưởng giáo dục gia đình, giáo dục dân gian, rất
hiếm người được học chữ, học hỏi kiến thức qua Nho giáo. Vì vậy mà trong suốt thời trung đại, toàn bộ việc
làng, việc nước là việc của đàn ông. Việc của phụ nữ chỉ là “tề gia, nội trợ”, có thể kiêm thêm việc chạy chợ,
chạy đồng, đầu tắt mặt tối, nhưng không vì thế mà địa vị trong gia đình, xã hội của họ được nâng lên.
Về đối ngoại, ý thức hệ Nho giáo đã bóp méo nhãn quan người Việt đối với văn hóa Trung Hoa, văn hóa
các tộc người lân cận. Đối với văn hóa Trung Hoa, nhà nho Việt Nam thường có cái nhìn tự ti, vong bản. Đối
với các nền văn hóa bản địa, họ có cái nhìn trịnh thượng, tự tôn. Tuy một bộ phận nhà nho cũng có ý thức về
cội nguồn dân tộc, ý thức về cái riêng của văn hóa dân tộc, nhưng do ảnh hưởng của Nho giáo, trong một bộ
phận nhà nho đã hình thành ý thức đồng nhất cội nguồn dân tộc Việt với cội nguồn dân tộc Hán, đồng nhất
văn hóa Việt đã trải qua “giáo hóa” với văn hóa Hán. Đối với họ, “văn hiến” đồng nghĩa với văn hóa Trung
Hoa. Do quan điểm sai lệch đó, họ đã cải biên thần thoại và truyền thuyết về cội nguồn tộc Việt theo hướng
gắn nó với cội nguồn Hán tộc (truyền thuyết về họ Hồng Bàng). Họ xem tiếng Việt, chữ Nôm, văn Nôm là
“nôm na mách qué” để thượng tôn chữ Hán và tất cả những gì được chuyển tải qua chữ Hán (hầu hết các
triều vua, trừ nhà Hồ và nhà Tây Sơn). Họ khinh miệt và chủ trương xóa bỏ những phong tục tập quán bản
địa để bắt chước Trung Hoa (Minh Mạng cấm phụ nữ Bắc Hà mặc váy mà phải mặc quần như người Hán).
Họ xem những tộc người chưa bị Hán hóa là “man di mọi rợ”, và tiến hành “giáo hóa” mà thực tế là đồng
hóa họ cho giống Hán (rõ nhất là dưới thời Minh Mạng),...
Chính vì những lẽ trên, Nho giáo càng đạt tới tột đỉnh quyền uy thì đất nước Việt Nam càng suy yếu,
văn hóa Việt Nam càng suy thoái. Tệ hại hơn nữa, là khi đụng độ với văn minh vật chất vượt trội của Phương
Tây, nguy cơ mất nước đã gần kề, những đồ đệ trung thành của cửa Khổng sân Trình vẫn còn bám vào những
tư tưởng “siêu việt” của Nho giáo để dè bỉu bọn “Tây di”, từ chối các yêu cầu cải cách, duy tân. Trước nạn
vong quốc, Nho giáo đã bất lực và tàn lụi. Khi Việt Nam trở thành thuộc địa và đất bảo hộ của thực dân, Nho
giáo trở thành đống rác cũ, nhưng vẫn được chế độ thực dân bán phong kiến lưu dụng để tiếp tay cho chúng
nô dịch nhân dân. Phải đến đầu thế kỷ XX, phong trào Duy Tân - Đông Du do các trí thức Nho học và Tây
học khởi xướng mới thật sự kết liễu số phận của Nho giáo, mở ra cho đất nước một chặng đường mới trong
quá trình tiếp biến văn hóa Phương Tây và hội nhập văn hóa thế giới.
4. Kết luận
Nho giáo đã làm cho văn hóa tinh thần của Việt Nam thời trung đại bị Hán hóa một phần đáng kể. Nho
giáo ảnh hưởng cả trong văn hóa tinh thần lẫn văn hóa vật chất của Việt Nam. Nho giáo có mặt trái, gây hại
cho văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam trước kia có rất nhiều lúc, nhiều nơi không cần Nho giáo. Văn hóa
Việt Nam ngày nay càng không cần Nho giáo. Để hình thành các chuẩn mực đạo đức cho những con người
mới ở Việt Nam, chúng ta cần những cơ sở lý thuyết và những giá trị tinh thần kết hợp truyền thống và hiện
đại. Trong những giá trị tinh thần truyền thống, cần chú ý tìm hiểu, phát huy những giá trị truyền thống bản
địa Việt Nam, thay vì cố đào xới lại nấm mồ Nho giáo như một số người vọng ngoại và hoài cổ đã làm. Như
ý kiến của nhà nghiên cứu Quang Đạm: “Nói tóm lại, đạo lý Nho giáo thường xuyên kìm hãm xã hội chúng
ta thuở trước ở một trạng thái thấp kém. Trong khuôn khổ thiên hạ của đạo lý Nho giáo không có con đường
nào tốt hơn con đường tìm hướng quay ngược trở về với Tây Chu, với Đường, Ngu. Trong khi đó, truyền

12
thống Việt Nam vì độc lập của Tổ quốc và vì quyền sống chính đáng của cả dân tộc vẫn không ngừng thể
hiện một tinh hoa, một bản sắc không có thế lực nào vùi lấp, xóa bỏ được. Chế độ trị nước trị dân của các thế
lực Hán tộc xâm lược và các triều đại phong kiến Việt Nam, tôn sùng Nho giáo luôn luôn ngăn cản sự vươn
lên của truyền thống Việt Nam. Tinh hoa và khí phách Việt Nam cũng luôn luôn tỏ rõ sức sống bất diệt của
mình trong mọi hoàn cảnh”.
C – PHẦN KẾT LUẬN
Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc từ thời cổ đại, tư tưởng triết
học Nho giáo của Khổng Mạnh chiếm địa vị đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng, nó ảnh hưởng sâu sắc
trong mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc suốt hơn hai ngàn năm lịch sử.
Do vị trí địa lý và điều kiện lịch sử, Nho giáo đã thâm nhập và bén rễ sâu vào các tầng lớp nhân dân Việt
Nam từ hàng ngàn năm nay. Nó ảnh đến hầu như tất cả các lĩnh vực tâm lý, văn hoá, xã hội.
Học thuyết Nho giáo được nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận để khai thác những yếu tố
được coi là thế mạnh, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước.
Theo tâm lý thường tình của những người ít đi sâu tìm hiểu về Nho giáo, người ta thường nghĩ rằng, Nho
giáo là cổ hủ, là khắt khe là lạc hậu…
Chúng ta không thể phủ nhận rằng Nho giáo đã tham gia góp phần vào sự đúc nặn nên diện mạo tinh
thần dân tộc và văn hóa dân tộc. Dù có những điểm chưa tích cực nhưng trãi qua năm tháng sàn lọc những tư
tưởng triết học của Nho giáo đã thấm nhuần trong lòng con người Việt Nam Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của
ngày xưa cho đến nay vẫn là một nét đẹp đáng trân trọng ở góc nhìn đúng đắn. Trí và Dũng ngày nay còn
được các nhà quản trị tài ba vận dụng vào các chiến lược kinh doanh. Còn những quan niệm về Nhân, Lễ,
Nghĩa thì càng được phát huy theo những mặt tích cực, xây dựng nên những mặt phát triển góp phần thúc
đẩy cho kinh tế phát triển.
Không biết sự ảnh hưởng sâu rộng của Nho giáo đến nền văn hóa dân tộc như thế nào nhưng cho đến nay
tính cộng đồng luôn được đề cao, còn trong gia đình thể hiện rõ nhất vẫn là những người phụ nữ, hình tượng
người phụ nữ mẫu mực vẫn là những người đằm thắm chịu thương, chịu khó. Nét đẹp đó đã trở thành nét đặt
trưng của người phụ nữ Việt Nam nói riêng và người phụ nữ Á đông nói chung.

Sự du nhập của Nho giáo với những tư tưởng triết học tích cực, qua thời gian vẫn còn đó những giá trị
bất biến góp phần tạo nên những nét đẹp cho văn hóa dân tộc Việt.
Chúng ta nên có một cái nhìn mới, cách hiểu mới thật đúng đắn, phải tiếp thu một cách có chọn lọc,
không phủ định sạch trơn đối với một số khái niệm tưởng chừng như đã cũ. Đó cũng chính là việc kế thừa và
phát huy tinh hoa và bản sắc văn hoá cổ của dân tộc và nhân loại một cách tích cực theo quan điểm của Đảng
ta.
Ngày nay, với sự giao lưu văn hóa trên toàn cầu, mỗi dân tộc có thể tiếp thu nhiều giá trị văn hóa của
nhiều dân tộc trên thế giới. Mặt khác, truyền thống văn hóa dân tộc cũng được đặc biệt đề cao. Bằng một
cách nhìn khoa học, tránh thành kiến, tránh cực đoan, chúng ta tiếp thu một cách có chọn lọc những giá trị
văn hóa phù hợp với truyền thống dân tộc và với yêu cầu của một xã hội văn minh hiện đại. Khi quay lại với
cội nguồn dân tộc, ta thấy các giá trị đạo đức cơ bản truyền thống vô cùng quan trọng.Vì vậy, ngoài việc giáo
dục lý tưởng cách mạng, bồi dưỡng trình độ chính trị trong cán bộ và nhân dân, vấn đề giáo dục đạo đức “cơ
bản” cần phải được quan tâm đúng mức, nhất là đối với thế hệ tương lai.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, vấn đề kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc
tế đang đặt ra cấp thiết. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, văn hóa Việt Nam vẫn khẳng định sự
độc đáo của mình, đồng thời mở rộng giao lưu tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú thêm
truyền thống văn hóa dân tộc.
Đảng, Nhà nước và nhân dân đang ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải thường xuyên cảnh giác các
thế lực phản động từ bên ngoài. Trong khi đó, những tiêu cực bên trong cũng tác động nguy hiểm không
kém. Vì vậy, vấn đề xây dựng một xã hội văn hóa mới, gia đình văn hóa mới, nếp sống văn hóa mới cũng
phải được quan tâm đúng mức.
Ở các nước Đông Á cùng với Nho giáo, trong đời sống tinh thần còn có các tín ngưỡng bản địa, các tôn
giáo, học thuyết khác mà đáng kể nhất, và bao giờ cũng có là cả bộ ba: Nho, Phật, Đạo, được gọi chung là
Tam giáo. Đạo giáo, nhất là Phật giáo, có ảnh hưởng khá lớn trong nhân dân, có khi còn lớn hơn cả Nho

13
giáo. Nhưng trong chính trị, trong học thuật, Nho giáo bao giờ cũng giữ địa vị chi phối. Nhà Đường ở Trung
Quốc tự nhận là con cháu Lão Tử, ông tổ của Đạo gia. Nhà Lý ở Việt Nam, xuất thân từ nhà chùa lên ngôi
vua; Nhật hoàng ở Nhật Bản, vốn coi Thần Đạo là tôn giáo thờ tổ iên của Thiên hoàng song cũng đều dựa
vào Nho giáo trong việc trị nước.
Nho giáo gắn bó với chính quyền tập trung và quan liêu. Do đó, muốn bảo vệ chính quyền tập trung, dù
trong điều kiện nào thì bằng cách này hay cách khác vẫn sử dụng Nho giáo.
2. Ảnh hưởng của Nho giáo mạnh hay yếu và cung cách tác động của nó đến đời sống xã hội và con
người như thế nào tuỳ thuộc khá lớn vào thể chế xã hội, tức là sự tập trung chuyên chế thực hiện được đến
mức nào, vào sự tồn tại của những thế lực hào trưởng, quyền lực của bộ máy quan liêu, thực tế làng xã… Nó
cũng tuỳ thuộc khá lớn vào cách truyền bá của Nho giáo, tuỳ thuộc vào thể chế giáo dục, mà điều khá quan
trọng là có thực hiện được chế độ khoa cử hay không. Ở Việt Nam thể chế chuyên chế cùng với tổ chức làng
– họ ảnh hưởng rõ rệt đến kinh tế, đến sự tồn tại lâu dài của công điền. Trên cơ sở côg điền, ở làng xã khó ra
đời tư hữu đủ lớn để kinh doanh nông nghiệp. Ruộng đất trong làng không nhiều nên đắt, khó mua; ở làng
này mua được ruộng ở làng khác lại càng khó; bỏ làng đi khai khẩn nơi khác thì trái với tâm lý dân ở làng –
họ. Điều ấy dẫn đến tình trạng ruộng đất manh mún, mỗi người chỉ có ít ruộng để tiến hành sản xuất tự túc và
cống nạp. Người nông dân phải làm thêm nhiều thứ việc linh tinh mới đủ sống. Chính sách kinh tế của nhà
nước là trọng nông, ức thương. Nhiều chính sách xã hội, và văn hoá cũng nhằm ngăn cản cách làm ăn “nhất
bản vạn lãi”; cầu may, phá hoại nhận vị đó. Việc truyền bá những quan điểm Nho giáo làm cho người dân tin
tưởng ở “dĩ nông vi bản”, khính những người chạy theo lợi, làm giàu, đối lập giàu với có đạo đức “vi phú bất
nhân, vi nhân bất phú”, coi thương nhân là dân hạng bét. Trong danh vị, chuộng sự thanh nhàn, coi việc
hưởng dụng của cải do thương nghiệp đưa lại là bẩn thỉu.
Nho giáo xây dựng trong thể chế đó một mô hình xã hội đối lập, trước tiên là vua và dân. Vua thì có
quan. Quan thì có lại. Quan lại thì có lệ. Đó là phần trên từ triều đình đến huyện. Trong làng xã thì đối lập
với dân là thânvà hào. Dân chia ra bốn hạng (tứ dân): sĩ, nông, công, thương. Nói là bốn hạng nhưng chỉ có sĩ
và nông mới là cơ bản. “Nhất sĩ nhì nông”. Sĩ tuy là dân nhưng lại là loại dân đặc biệt: đội dự bị của quan
thân, kẻ trung gian với triều đình, kẻ đại diện cho dân và làm thầy dân lao động. Kết cấu xã hội đó khác với
kết cấu xã hội phong kiến phương Tây. Cho nên cần phải hiểu các nhân vật của nó thật chính xác, hình dung
họ thật cụ thể với những bộ mặt thực, cách “làm ăn”, cách sống, cách ứng xử… không nhìn đơn giản bằng
những khái niệm “bần nông”, “trung nông”, “địa chủ”, “trí thức”.
Trước hết, không nên đồng nhất “quan lại” với bọn quan liêu, “cường hào” với các loại thôn trưởng, ấp
trưởng ở các lãnh ấp. Có nhìn trong họ màu sắc của chế độ chuyên chế, của làng xã tự trị, của cung cách các
lực lượng phân tán vẫn nẩy nở một cách tự phát, nhưng phải khép mình vào những điều kiện của cơ chế trên
thì mới nhìn ra cái đặc điểm của họ.
Vua chuyên chế không thể trực tiếp điều hành đất nước quá rộng bằng những tay chân sai phái trực tiếp
mà gián tiếp qua một bộ máy quan liêu từ triều đình đến châu, quận. Bộ máy đó gồm các “quan” to, nhỏ.
Trong chế độ chuyên chế chỉ có vua sáng nghiệp, có nhiều chủ trương đường lối, sắp đặt mọi việc thành chế
độ, điển chương, còn nói chung cả triều đại sau đó đều theo đường lối giữ vững điển chương, chế độ của cha
ông, “thủ thành” giữ yên không sinh chuyện, xáo trộn. Công việc trị nước của vua quan như tổ chức bộ máy
“lục bộ” ở triều đình và “ba toà quan lớn” ở tỉnh, chú trọng giữ gìn an ninh, xử lý các vụ án kiện tranh chấp,
thu tô thuế và phân phối, để tâm đến giáo hoá, phong tục. Tất nhiên một việc quan trọng có thể là quan trọng
nhất, được nhà vua chú ý là lựa chọn, sắp đặt các quan và kiểm tra, theo dõi họ, trước hết là về mặt trung
thành. Do đó, quan không phải là người giỏi một chuyên môn nào, mà là người được vua tin cậy và giao cho
làm “cha mẹ dân”. Công việc của quan là “cầm cân nẩy mực”, là hành hạt, hiếu dụ, tức là tuyên truyền, giáo
hoá, dự bình văn, tế lễ, tức là biểu thị thái độ của triều đình tôn trọng việc học hành, lễ nghi và phong hoá.
Những công việc đó tất nhiên là hợp với những ông quan, vừa là quan, vừa là văn nhân, cầm quyền cai trì,
nhưng lại mơ ước “cầm đường ngày tháng thanh nhàn, sớm khuya tiếng hạ tiếng đàn tiêu dao”. Nhưng đã là
quan cai trị thì cũng không tránh khỏi những công việc cụ thể: thu thuế, bắt phu, bắt lính, chống cướp, xử
kiện… Những công việc này thật ra không phải sở trường của các ông Nghè, ông Cử, chỉ học có Kinh
Truyện và văn chương. Vì vậy, quan phải dùng lại. Lại cũng không phải là những người công chức được đào
tạo về chuyên môn, hành chánh. Lại chỉ là những người thông thạo địa phương, có nhiều mưu mánh và thạo
việc giấy tờ. Họ cũng có học hành nhưng không hy vọng đậu đạt. Và đã là lại thì không thể đề bạt làm quan

14
phụ mẫu được. Cuộc đời của họ là núp dưới bóng quan để kiếm ăn. Quan thì không thạo việc, không am hiểu
địa phương, cho nên “lại” thường mách nước cho quan thi hành công vụ. Thường thì quan chỉ là người ngồi
oai nghiêm ở công đường, còn lại mới là kẻ thao túng công việc. Lại thường có quan hệ chặt với hào lý ở các
làng xã, bày mưu lập kế sinh chuyện kiện tụng, tống tiền, đưa hối lộ, thay đổi giấy tờ, đổi trắng thay đen và
lấy danh nghĩa quan để ra oai với dân, với làng xã. Quan nếu không liêm khiết và có bản lĩnh thì dễ thành
quân bài, dễ thành bung xung che đậy cho lại kiếm chác. Vì vai trò nguy hại đó nên nhân dân ta mới nói
“Quan xa nhưng sai nha gần”, và Nguyễn Du mới viết:
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Trong hạng “sai nha” không chỉ có lại – loại thư ký văn phòng – mà còn có “lệ“. Lệ hay lính lệ ở trong
biên chế làm binh dịch, nhưng để phục vụ các quan ở địa phương, như một thứ đầy tớ làm đủ mọi việc, việc
công và việc riêng của quan. Lệ thường được sai đi tống đạt các công văn, các trát đòi, tiếp nhận dân có việc
đến yết kiến quan. Vì những công việc đó mà lính lệ kiếm cớ sách nhiễu đút lót, cũng có khi làm ơn dắt mối
cho quan lại ăn hối lộ. Đó cũng là những nhân vật của một bộ máy quan liêu nhưng là quan liêu theo một
cách nhất định.
Trong bộ máy cai trị của chế độ phong kiến, triều đình bao gồm cả đất nước, còn làng xã lại là những thế
giới. Trong làng xã có những nhân vật khác và có cách quan hệ, làm ăn cách khác. Sự khác nhau giữa cung
đình (kể cả dinh thự lỵ, trấn) và làng xã là một cách đối lập không hoàn toàn giống đô thị và nông thôn, vì đô
thị ở đây cũng có khác.
Trong làng xã nói chung mọi người đều sống dựa vào ruộng đất, vào sản xuất nông nghiệp. Và cần nói
thêm từ người không có ruộng phải đi làm thuê, phải đi ở đến người thiếu ruộng (bần nông), đủ ruộng (trung
nông), thừa ruộng (phú nông và địa chủ) đều là dân. Trong một thể chế mà cái quyết định là danh vị chứ
không phải là sở hữuthì sự khác biệt giàu nghèo chỉ có ý nghĩa tương đối, còn sự khác nhau về danh phận thì
ảnh hưởng đến vận mệnh, đến cuộc đời, thậm chí đến cả con cháu. Người “trọc phú”, giàu mà không có danh
vị thường lại là đối tượng bóp nặn, làm tiền của những người có danh vị. Cho nên ai đã giàu thì cũng phải
chuyển thành sang – có danh vị – mới được hưởng thụ, mới giữ được của. Chuyện tìm cách cầu cạnh người
quyền quý, chuyện bán quan mua tước là bắt nguồn từ đó. Trong đời sống làng xã, người có của (phú nông
hay địa chủ) chỉ sống “mát mặt” hơn người khác chứ không phải có quyền lực. Quyền lực ở đây cũng không
hoàn toàn theo đúng nguyên tắc “triều đình trọng tước mà thôn xóm trọng tuổi tác” như trong kinh điển. Ở
đây đã hình thành một hình thức kết hợp tước (danh vị xã hội cao thấp) và xỉ (tuổi tác) chưa kể là thân (họ
hàng) cũng có vai trò nhất định. Từ đó mà có vai trò của thân và hào ở hương thôn. Hào thì khó xác định
thường thì để chỉ những người đàn anh hoặc là do của cải, hoặc là do gia thế, hoặc là do chức vụ chính
quyền, do uy tín từ những vị thế khác. Còn thân là những ông quan về hưu, những người thi đỗ nhưng không
làm quan và cả những ông thầy được cả làng kính trọng nữa. Thân nằm trong đẳng cấp sĩ phu, còn hào thì
không nhất thiết như vậy. Ở hương thôn, hào chỉ làm người ta sợ, thường chỉ có vai trò trong việc phân chia
quyền lợi kinh tế. Còn thân thì được kính nể, được nghe theo trong nhiều vấn đề có ý nghĩa thái độ chính trị,
thái độ sống. Trong cuộc xung đột giữa hào và hộ, tức là giữa dân – kể cả những người giàu – và hào cường
thì thân sĩ thường công khai hay ngầm đứng về phía dân chứ không về hùa với hào cường. Điều đó, một cách
khái quát cho ta hiểu vai trò của nhà nho ở nông thôn.
Quan lại thì được cấp lộc, cũng giống như lương tháng, lương năm, phát căn cứ theo tước và chức vụ.
Nhưng lộc vua ban tuy là một thứ thu nhập vinh dự nhưng thường không nhiều. Ngoài lộc phải kiếm thêm
bổng, phải lấy bổng hậu bù cho lộc bạc. Bổng là những lễ vật biếu xén của cấp dưới và của dân. Quan hệ
giữa quan lại, thân hào với dân không phải là quan hệ nhà nước với dân sòng phẳng mà là quan hệ giữa
những người làm cha mẹ với con cái hay quan hệ giữa cha chú với con em. Người dưới phải yêu thương,
phục tùng với tấm lòng biết ơn nên đưa lễ vật để tỏ chút “lòng thành nhỏ mọn” (vi thiềng) là chuyện tình
nghĩa phải có, không đáng trách mà chỉ đáng khen (!). Đám quan lại và hào lý ở địa phương lại còn một cách
kiếm chác là xà xẻo vào chỗ nhà nước bắt dân đóng góp tô thuế bằng sức người và bằng hiện vật. Số nộp cho
nhà nước thì đã có hạn ngạch nhưng quan lại và hào lý cấu kết với nhau tăng mức đóng góp tức là “phù thu
lạm bổ” hay giảm nhẹ cho người này người khác để ăn của đút lót. Thậm chí họ còn dùng thủ đoạn vu oan
giá hoạ, kiếm chuyện để ăn tiền. Người dân chẳng có quyền gì cả, thậm chí chẳng có gì cả. Thân thể là của
cha mẹ, ruộng đất của cải là của làng nước, của vua, số phận là của Trời. Có mà bị người ta lấy đi thì cũng

15
phải chịu, không đòi vào đâu được, có oan khuất thì “còn một kêu Trời nhưng xa”, (Nguyễn Du). Đó là thực
tế biến người dân thành những “cái tôi bé nhỏ” (tiểu kỷ), sống phận “con ong cái kiến”. Sống trong cõi trời
đất nhỏ hẹp là gia đình, họ hàng, làng xã họ cũng chỉ lo vun quén, xà xẻo, nhặt nhạnh vụn vặt. Để được yên
thân, họ phải cầu cạnh nhờ che chở, xin thông cảm, xin chiếu cố. Đó là người dân làm “gốc nước”, người dân
“cao quý”, cao quý hơn cả đất nước và ngôi vua, người dân mà thánh hiền đòi vua quan phải “yêu”, phải
“thân”, phải coi là con như lòng mẹ chứ không được đầy đạo làm họ khổ sở. Phải nói cho đúng là Nho giáo
như trong kinh điển của nó nói, không tán thành sự độc tài của vua, phản đối sự áp chế, vơ vét của quan lại.
Khổng tử nói: “Có một người bề tôi vơ vét của dân thì thà là có một bề tôi ăn trộm còn hơn”. Nhiều nhà nho
đời sau coi con đường làm quan là con đường bẩn thỉu, phần nàn “trong đời việc không được như ý thường
mười thí có đến tám chín”. Nhưng thiện chí không thể làm lay chuyển được sự vận hành của cơ chế. Những
sự thật xấu xa trong xã hội như vậy là kết quả trái ngược nhưng là tất uyêú của chủ trương thống nhất quy về
một mói để chống loạn, của tư tưởng làm cha mẹ dân rất nhân đạo, của tình nghĩa cha chứ và con em rất êm
ấm. Cũng lại có một nghịch lý nữa là lòng tin ngây thơ của người dân trưởng chỉ có quan lại, hào cường mới
xấu như vậy, còn vua thì tốt, chỉ vì ở xa nên không biết hết mà dân thì “thấp cổ bé họng” không kêu thấu.
Cho nên khi tức nước vỡ bờ nổ ra khởi nghĩa nông dân thì cũng nhằm vào đánh hào cường, không đánh vào
vua.
3. Một nét rất nổi bật của ảnh hưởng Nho giáo là tình hình phát triển văn hoá. Nho giáo vốn rất coi trọng
văn, coi trọng văn trị. Cho nên các nước theo Nho giáo đều đề cao lễ nhạc, văn hiến, đề cao việc giáo dục.
Điều đó được đẩy mạnh đến mức độ biến các nước đó thành đề cao người đi học, người biết chữ, người làm
được văn chương, thơ phú. Thậm chí điều đó còn dẫn đến thói quen sùng bái chữ viết, sùng bái sách vở.
Ngày xưa ai bắt gặp một tờ giấy có viết chữ rơi vãi ở đất thì lập tức họ kính cẩn nhặt lên, đội lên đầu và đem
đốt chứ không dùng nó vào những việc thiếu kính cẩn. Nhưng việc đề cao văn hoá đó lại theo một hướng
không hay là khoa cử, học để làm quan, học viết văn chương, không chú trọng kỹ thuật, khoa học, học thuật.
Ở Việt Nam cũng giống các nước Đông Á khác đã từ rất sớm việc học đã được phổ biến. Đến thế kỷ XI đã
lập Văn Miếu, Trường Quốc Tử Giám, trường đại học của cả nước. Từ thế kỷ XI cho đến thế kỷ XX, ngớt tổ
chức các khoa thi lấy đỗ đến ba bốn ông Tiên sĩ. Văn học thành văn văn cũng ra đời sớm. Đến thế kỷ XV,
với Nguyễn Trãi ta đã có thể nói là có nền văn học cổ điển của dân tộc. Những bộ sử như Đại Việt sử ký của
Lê Văn Hưu đời Trần, Ngô Sĩ Liên đời Lê đã để lại cho đời sau hiểu biết hàng chục thế kỷ. Đó là những
thành tích rực rỡ về văn hoá, nếu không có sự truyền bá rộng rãi của Nho học thì không thể có sớm như vậy.
Với Nho giáo, học cũng có nghĩa là tu dưỡng đạo đức. Học trước hết là để hiểu các làm người. Con
người, như trên đã nói là con người trong quan hệ gia đình, họ hàng, trong trật tự trên dưới của xã hội, trong
quan hệ với vua quan, với Trời. Làm người là cư xử đúng lễ nghĩa trong các quan hệ như vậy. Những người
bất hiếu, bất mục trong gia đình, vô lễ, vô phép, ngỗ ngược ngoài làng xóm, sống hám lợi, ít tình nghĩa,
không chất phác … không những bị chê trách mà còn bị xử phạt các này hay các khác. Thái độ chuộng đức
và đề cao tu dưỡng của Nho giáo một mặt làm cho con người ngoan ngoãn dễ chấp nhận quân quyền, phụ
quyền, và nam quyền có tính áp bức. Nhưng mặt khác cũng làm làm cho con người ở đây có tinh thần hiếu
học, cầm kiệm, có trách nhiệm, biết tự trách mình, vì nghĩa mà hy sinh. Họ biết nhường nhịn không tranh
hơn trong đời sống cộng đồng, thường biết nghe theo người cầm đầu, dễ có kỷ luật. Tất nhiên mỗi điểm như
vậy cũng đều phải tính đến cả mặt trái hạn chế sự phát triển của nhân cách.
Hình thức học gắn với khoa cử cũng có mặt hay và mặt dở. Lựa chọn người làm việc qua những kỳ thi,
ai hơn thì lấy chứ không theo dòng máy cha truyền con nối, không theo tài sản, không theo bè cánh, tất nhiên
là có “dân chủ” hơn, coi trọng năng lực bản thân hơn. Nhưng với cách chuyển yêu cầu của nhà nước chuyên
chế thành nội dung học và thi, chỉ đòi hỏi “minh kinh” và “năng văn” thì học thuật và cả văn học nghệ thuật
chịu ảnh hưởng rất tai hại.
Khi trong nước, qua con đường thi cử mà chọn người làm quan thì nhiều cố gắng cho con đi học, nhiều
thanh niên đua nhau đi học, mong kiếm được một cuộc sống sung sướng, thanh nhàn và vinh quan hơn là đi
cày. Từ sáu tuổi đã bắt đầu đi học, học cho đến thi đỗ hay nửa chừng bỏ cuộc. Có người cứ học như thế cho
đến đầu bạc răng long! Học nhằm thi đỗ và làm quan nên suốt cả cuộc đời đi học chỉ học có kinh truyện, bắc
sử và tập viết thơ, phú, tứ lục, văn sách. Họ học thuộc lòng hết sách vở và những bài văn mẫu, mong thành
hay chữ và viết văn nhanh. Học như thế dù đỗ đạt cao, tri thức cũng không nhiều. Nhất là tri thức của họ chỉ
liên quan đến văn và sử, không hướng vào giới tự nhiên, vào xã hội hay con người trước mắt. Cho nên đặc

16
tính của loại trí thức đó là kinh viện và từ chương. Mở miệng ra nói năng là chữ nghĩa, điển tích và suy nghĩ
gì thì chủ yếu cũng ở cạnh khía câu chữ. Tư duy thiếu thực tế và không sáng tạo. Tuy nói ra lời thì thường
khiêm tốn và cao thượng nhưng trong thâm tâm lại đầy óc danh vị và cao ngạo, cao ngạo ở chỗ mình là kẻ sĩ
tiêu biểu cho thế đạo nhân tâm, ảo tưởng đỗ đạt, làm quan được thì lập nên sự nghiệp “tri quân trạch dân”
làm cho dân đen được nhờ.
Từ sau cuộc cách mạng chống phong kiến ta thường quen nghĩ nhà nho là người lười lao động, kinh lao
động, là bọn ăn bám, bóc lột, ngu trung với vua chúa… Nói thế không khỏi có chỗ thiếu chính xác. Đối với
lao động, nhà nho tự coi mình là “kẻ lao tâm làm công việc “lao lực” của tiêu dân. Nhưng trong công việc
của họ, tức là việc học hành, tu dưỡng thì họ không lười, chịu lao động một cách nghiêm chỉnh cật lực. Cật
lực đến mức coi chơi đùa, giải trí cũng là “tha thích” không tập trung tư tưởng. Họ phó mặc việc sản xuất,
giặt giũ, bếp núc… cho mẹ và vợ, coi đó không phải là việc của mình. Mẹ và vợ vắng thì chịu đói chứ không
chịu vào bếp “Kẻ quân tử xa nơi bếp núc”. Nhưng với những công việc nhe quét tước nhà cửa, cổng ngõ hay
trồng hoa thì họ làm rất chu đao, chu đáo đến mức nghệ thuật. Phải hiểu quan niệm của họ về lao động về
phân công lao động, mới hình dùng được người nhà nho. Đối với ta ngày nay thì nhà nho là lười, lười vì
không chuyên chú vào công việc, còn mê đá bóng, xem hát… Nhà nho không thuộc vào loại được hưởng sự
phân phối tô thuế, không thuộc giai cấp bóc lột, và họ cũng thường khủng khỉnh với những kẻ giàu sang.
Nhưng họ tuy là dân nhưng lại là dân được ưu đãi, ưu đãi về tinh thần, hưởng sự kính nể và chút ít của biếu
xén, sự giúp đỡ. Cho nên đói với dân lao động, thái độ nhà nho không giống thái độ của đại chủ, tư sản,
những giai cấp bóc lột. Nhà nho cũng không coi nhân dân lao động là bình đẳng, đồng đẳng với mình, nhưng
chỗ họ tự phân biệt là có đức và có học, coi dân lao động là “ngu dân” cần được che chở giáo hoá chứ không
phải vì nghèo hèn mà đáng khinh. Đối với vua, họ trọng sự trung nghĩa và nhiều người dám liều chết để tỏ
lòng trung nghĩa. Nhưng cũng nên chú ý là họ làm như vậy vì lý tưởng, vì giữ chữ tín. đã ăn cơm, mặc áo của
vua thì phải hết lòng vì vua. Ở trong đó có sự mù quáng, sự hèn hạ. Những trường hợp được nhiều người nói
đến như Lý Trần Quán tự chôn sống để tỏ ra mình không phản bội Trịnh Tông hay Phan Thanh Giản ký hoà
ước nhường ba tỉnh miền Tân Nam bộ rồi uống thuốc độc tự tử là những chuyện không dễ làm được, nếu
không có ý thức cao về nhân cách. Cũng nên nói thêm là ở nhà nho, trung vua thường là đi đôi với thân dân.
Ngôi vua là biểu hiện của sự thống nhất đất nước. Nhược điểm chính của nhà nho là ở chỗ họ là một loại trí
thức nông thôn hẹp hòi, thiển cận và bảo thủ, chỉ quen nói suông những lời lẽ thánh hiền, bất tài, bất lực,
không thiếu thiện chí nhưng vô bổ. Còn trong môi trường của họ, tức là gia đình, họ hàng, làng nước thì nhà
nho lại có nhiều ưu điểm đáng kính: họ là những người giữ mình một cách cẩn thận, có đức và có uy nghi
không để người khác kinh nhờn, sống có tình nghĩa và đáng tin cậy, đối với bà con, bạn bè rất chu đáo, với
họ hàng con cháu rất hết lòng. Trong những hoàn cảnh gian nguy họ dễ giữ được khí tiết cứng cỏi.
Khác với tri thức phương Tây thời trung cổ gắn với nhà thờ và thời cận hiện đại gắn với đô thị, nhà nho
là nhân vật tri thức của họ hàng làng xã nông thôn. Với người nông dân tiểu kỷ đã nói ở trên, nhà nho cũng
vẽ thành nét đậm đời sống tinh thần ở làng xã.
4. Nho giáo là một học thuyết khuyên con người “kính quỷ thần nhưng nên xa lánh”, coi việc cầu xin quỷ
thần là “siểm nịnh” vô ích. Như thế là Nho giáo không khuyến khích mê tín, không lợi dụng mê tín. Nhưng
trong thực tế Nho giáo không chỉ tồn tại như một triết thuyết mà còn như là một tôn giáo.
Có người vịn vào chỗ Khổng tử bảo Tử Lộ: “Chưa biết thờ người thì biết thờ quỷ thần làm gì?… Chưa
biết sống thì biết chết làm gì?” mà cho rằng Nho giáo là vô thần. Quả là Nho giáo khuyên con người chú ý
đến đời sống trần thế mà không nên nghĩ đến chuyện viển vông ở thế giới bên kia. Nhưng Nho giáo không
trả lời trôi chảy được mâu thuẫn mà Mặc tử đã đặt ra: chủ trương không có quỷ thần thì sao lại chủ trương tế
lễ trọng thể? Sự thực thì Nho giáo không phải vô thần. Họ cho là có linh hồn nhưng chủ trương mỗi người
tuỳ vị trí của mình mà chỉ tế lễ “linh hồn thuộc về mình”. Khổng Tử nói: “Không phải quỷ thần của mình mà
tế lễ là siểm nịnh”. Theo Khổng tử chỉ có thiên tử mới được tế Trời Đất, thần núi cao, sông lớn. Chư hầu tế
thần sông núi của nước mình, còn mọi người thờ cúng linh hồn tổ tiên ông cha mình. Đó là quỷ thần (linh
hồn) thuộc về mình. Nho giáo coi trọng việc thờ cúng tổ tiên nhưng là để tỏ lòng biết ơn tiên tổ chứ không
phải là để cầu phúc. Cho nên để tổ tiên không có người hương khói là tội lớn nhất. Ngoài linh hồn tổ tiên của
từng gia tộc còn có những thần linh chung mà Nho giáo khuyên tỏ lòng kính trọng chứ không nên mê muội
cúng bái. Học cũng phân biệt “chính thần” với “dân thần” tức là những thần linh đáng thờ vì có công ơn, với
những thần bậy bạ, do nhân dân mê tín mà tôn làm thần. Trong những chính thần các nhà nho đời sau đưa

17
vào tự điển các vị anh hùng có công với đất nước. Chính Khổng tử và các thánh hiền Nho gia cũng được thờ
như vậy ở Văn Miếu. Chỉ có khác là trong Văn Miếu chỉ có lễ tế hàng năm mà không có cầu cúng. Như thế là
Nho giáo ngoài ý nghĩa là học thuyết vẫn có ý nghĩa tôn giáo không có nhiều đền miếu, một thứ tôn giáo
không có nhiều đền miếu, không có tổ chức giáo hội và cũng không có khuyến khích việc thờ cúng. Nhưng
thờ Trời Đất, thờ chính thần và thờ tổ tiên thì đúng là theo Nho giáo. Ngoài việc thờ cúng như vậy một điểm
làm cho Nho giáo có vai trò tôn giáo ở nông thôn chính là vai trò nhà nho giống vai trò tu sĩ ở phương Tây. Ở
phương Tây giáo sĩ nông thôn rất cần cho nhân dân thôn xóm: để ra cha dặt tên thanh, đến tuổi cha bày cho
học, ốm đau cha chữa thuốc, và lúc chết cha rửa tội cho. Trong làng xóm của ta lúc đẻ ra thầy đồ cũng
thường đặt tên lấy số, ốm đau cũng nhờ thầy chữa, thầy cũng dạy cho học, xem giờ kiếm đất chôn cất lúc
chết. Và thường ngày những ngươig nông dân vẫn hỏi ý kiến các thầy trong nhiều việc của bản thân và gia
đình. Đạo Thánh hiển quá lời các thầy mà đến với nông dân như một tôn giáo, một tôn giáo, lấy việc tỏ lòng
biết ơn tổ tiên, kinh sợ Trời Đất quỷ thần mà ăn ở có đạo lý, nhất là ở trong gia đình, trong họ ngoài làng. Gia
đình, họ, hàng vốn là những cộng đồng rất tự nhiên trong đời sống ở nông thôn. Nông dân và nhà nho tuy vị
trí xã hội có khác nhau nhưng đều là nhân vật của cuộc sống ấy. Nho giáo vốn là tổng kết trong môi trường
gia đình, họ, làng ở nông thôn nên rất hợp ý của hai loại người đó. Và cũng là tự nhiên khi Nho giáo là một
học thuyết mong củng cố sự hoà thuận, sự êm ấm theo kiểu gia đình, không quan tâm đến tiến bộ, phát triển,
tự do, giải phóng… Chế độ chuyên chế không chấp nhận cá nhân mà cuộc sống gia đình, họ, hàng, làng xã
cũng không làm ra đời cá nhân. Đô thị lại không phát triển để kích thích một xu hướng như vậy. Nho giáo có
một mảnh đất hết sức thuận lợi để tồn tại lâu dài. Cho nên có thay đổi triều đại mà vị trí của Nho giáo vẫn
không thay đổi. Vào những lúc xã hội khủng hoảng Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng khác có nổi lên
làm giảm vai trò đó. Ngay trong nhà nho cũng nảy sinh những mầm mống “bội đạo, ly kinh”. Nhưng khi một
triều đại khác lên thì họ lại khôi phục lại cơ đồ cũ, tức là sự thống nhất quyền hành, ổn định các làng xã cùng
với nền nếp đã sẵn nên Nho giáo lại khôi phục, các nhà nho lại trở về vị trí làm quan, làm thân sĩ và làm
thầy. Nho sĩ như một đám bèo trong ao tù của thể chế chuyên chế làng – họ; dù gió bão có đánh cho tan tác
nhưng khi gió yên bão hết nó lại phủ kín mặt nước. Trong Nho giáo có một phần cái gì đó tự nhiên, là hợp lý
mà cuộc sống ở nông thôn dễ tiếp nhận.
5. Nói ảnh hưởng Nho giáo hay đánh giá Nho giáo tích cực hay tiêu cực là nói đến vai trò của nó trong
quá trình hiện đại hoá đất nước, hiện đại hoá cả vùng. Nếu các nước Đông Á cứ phát triển cô lập, không có
tác động của thế giới từ bên ngoài vào thì vị tất đã không tiếp tục con đường lập đi lập lại đế chế. Nhưng ở
phương Tây chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao lôi kéo cả thế giới vào quỹ đạo của nó, phá thế cô lập của bất
cứ vùng nào trên thế giới. Quá trình hiện đại hoá ở các nước Phương Đông chính là bắt đầu từ sự tiếp xúc
với phương Tây TBCN. Cho nên đối với cả vùng Đông Á vào quãng giữa thế kỷ XIX, bắt đầu bằng việc xâm
lược của các nước TBCN phương Tây, bằng việc mở mang giao lưu, buôn bán. Trong các cuộc đụng độ giữa
hai nền văn minh, những nhà duy tâm của Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam đã thấy Nho giáo – làm cho
“nước yếu dân hèn”, đúng ra là họ cũng chỉ mới nói đến Nho học, tức là thứ Nho giáo trong thực tế gắn bó
với chế độ chuyên chế. Với chế độ khoa cử, mới nói đến người “hủ nho” mà không có dị nghị gì với khổng
mạnh. Việc duy tân, âu hoá, làm cho nước phú cường đều là những tư tưởng trái Nho giáo. Nhưng các nhà
nho lại là người đề xướng phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Phong trào cần vương, Duy Tân
đều là do nhà nho đề xướng và đi đầu. Yêu nước, gắn bó với dân tộc, liều chết chống giặc là những việc nhà
nho đã làm và làm với tinh thần đáng khâm phục. Những người như Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng,
Nguyễn thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh chắc chắn là những tấm gương yêu nước chống giặc
cao cả. Nho giáo ở đây không là cản trở mà ngược lại. Ta thường nghĩ nhân dân ta yêu nước, nhân dân đó là
nông dân chứ không phải nhà nho. Người nông dân vốn gắn bó với quê hương, với nơi quê cha đất tổ, có mồ
mả cha ông, có cây đa, giếng nước thân thuộc, có họ hàng, làng nước đầy tình nghĩa. Nhưng vốn ít ra khỏi
làng, họ cũng không ý thức về đất nước. Nhà nho về những tình cảm vừa nói hoàn toàn không khác nông dân
mà do có học vấn, họ có thêm ý thức về đất nước, về chủ quyền nên mới nâng được tình cảm quê hương
thành lòng yêu nước. Trong cuộc số ở làng xã, những công cuộc ứng nghĩa hành động cứu nước bao giờ cũng
được cả làng hưởng ứng, còn người xướng xuất thì thường là các thân sĩ. Điều đó được chứng minh đầy đủ
qua phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX. Nho giáo nói đến vua nhiều hơn nước, nhưng nước với vua chỉ
là một và từ tử Khổng tử, Mạnh tử đã cân nhắc nhiều khi hành động có liên quan đến “nước của cha mẹ”.

18
Với cách mạng XHCN, nói chung nhà nho hoan nghênh, nhưng hoan nghênh vì hiểu chủ n ghĩa xã hội
đồng nhất vơi tư tưởng “đại đồng” của sách Lễ ký. Đại đồng là một thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng, mơ
ước một chế độ trong đó thiên hạ là của chung, mọi người chọn lấy người có đức và có tài, sống với nhau
bằng sự tin cậy và hoà thuận, không ai ích kỷ chỉ lo cho cha mình, con mình mà lo chung cho mọi người, làm
cho những người goá vợ, goá chồng, mồ côi, không có con, những người tàn tật đều được nuôi dưỡng. Ai
cũng có điều kiện để sinh ra thì lớn lên, đến tuổi thì có việc làm, già thì sống hết tuổi trời, trai thì có vợ, gái
thì có chồng. Mọi người vì lợi ích chung, không thu nhặt của cải cho riêng mình, ganh đua đua sức mình góp
vào việc chung. Trong xã hội đó không còn âm mưu giành giật, không còn trộm cướp. Mọi người sống cảnh
thái bình: “cửa ngoài không cần đóng”. Khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá và Cách mạng tháng Mười
Nga thành công thì ở các nước Đông Nam Á, Đệ tam Quốc tế được hưởng ứng đặc biệt nhiệt liệt. Ảnh hưởng
đó to lớn và nhanh chóng hơn các vùng khác. Hai yêu cầu vốn là rất khó đối với các vùng khác là quốc hữu
hoa và chuyên chính vô sản thì ở đây được chấp nhận dễ dàng. Người ta coi chủ nghĩa cộng sản là hiện thực
của lý tưởng đại đồng mà thánh hiền mơ ước. Trong các tài liệu tuyên truyền của Đảng Cộng sản lúc đó
thường dùng chữ “thế giới đại đồng” để nói chủ nghĩa cộng sản. Trên con đường hiện đại hoá,phương Đông
theo Nho giáo khó chấp nhận con đường TBCN hơn con đường XHCN vì khó chấp nhận chủ nghĩa cá nhân,
sự cạnh tranh, làm giầu, sự cách biệt giàu nghèo, chủ trương tự do, bình đẳng, dân chủ… hơn là công hữu ,
vô sản chuyên chính, đấu tranh giai cấp xoá bỏ bóc lột… Con đơờng đi từ chủ nghĩa dân tộc, từ yêu nước mà
đến chủ nghĩa cộng sản vốn là một con đường tự nhiên mà có thể nói Nho giáo đã tạo ra nhiều thuận lợi. Cho
nên không chỉ Hồ Chí Minh đã đi con đường đó mà Phan Bội Châu cũng đã đi con đường đó. Chỗ khác nhau
là cả về con đường cứu nước, cả về chủ nghĩa xã hội, Phan Bội Châu còn vướng víu rất nhiều vỡi những
quan niệm Nho giáo.
Nho giáo với con đường hiện đại hoá còn có một quãng thời gian cực quan trọng từ sau Đại chiến hai,
khi hình thành các nước tham gia vào hệ thống XHCN và TBCN, làm nổi bật lên hai thực tế lớm mà tôi đã đề
cập ở trên: chủ nghĩa Mao và cách quản lý kinh tế của Nhật Bản, những thực tế mà chúng ta phải suy nghĩ
nghiêm túc.
4. Làm rõ đă ̣c điể m triế t ho ̣c cổ điể n Đức thông qua mô ̣t số nhà triế t ho ̣c tiêu biể u: Cantơ, Hênghen.
9. Phâ ̣t giáo và sự ảnh hưởng của Phâ ̣t giáo trong đời số ng xã hô ̣i (Bắt buộc: Phải liên hệ và rút ra ý
nghĩa trong lịch sử và hiện tại).
13. Mối quan hệ khách quan và chủ quan trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
14. Nhân sinh quan thế giới quan của các trường phái triết học và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống xã
hội

19

Вам также может понравиться